NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hợp đồng tín dụng
* Khái niệm hợp đồng tín dụng
Theo Điều 385, Bộ Luật dân sự (BLDS) năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” thì hợp đồng tín dụng là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự vì quan hệ tín dụng về bản chất cũng là một quan hệ dân sự.
Theo Điều 463, BLDS năm 2015 quy định:“Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định” thì hợp đồng tín dụng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản. Tuy nhiên, chỉ được gọi là hợp đồng tín dụng trong trường hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD). Luật các TCTD năm 2010 quy định: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân” ( Điều 4, Khoản 1).
Theo Khoản 14, Điều 4, Luật các TCTD năm 2010 thì: “Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.”
Hợp đồng tín dụng (HĐTD) là một căn cứ pháp lý mà qua đó TCTD thực hiện hoạt động cấp tín dụng. Việc cho vay của TCTD và khách hàng vay phải được lập thành HĐTD. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về số tiền cho vay, mục đích sử dụng vốn vay, đồng tiền cho vay, đồng tiền trả nợ, phương thức cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, giải ngân vốn cho vay và việc sử dụng phương tiện thanh toán để giải ngân vốn cho vay, hình thức bảo đảm, phương thức trả nợ và những nội dung khác được tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật có liên quan.
Do đó có thể hiểu:“Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận chung bằng văn bản giữa bên cho vay là tổ chức tín dụng và bên vay là cá nhân, tổ chức nhằm xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên theo quy định của pháp luật, theo đó tổ chức tín dụng chuyển giao một số tiền cho cá nhân, tổ chức sử dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
* Đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Với định nghĩa về HĐTD như trên, có thể thấy ngoài những dấu hiệu chung của một loại hợp đồng, HĐTD còn có một số đặc điểm đặc trưng sau đây để phân biệt với các loại hợp đồng khác trong giao dịch dân sự, thương mại:
- Về chủ thể: Một bên tham gia hợp đồng bao giờ cũng là TCTD có đủ điều kiện luật định, với tư cách là bên cho vay. Còn chủ thể bên kia (bên vay) có thể là tổ chức, cá nhân đáp ứng đầy đủ những điều kiện vay vốn do pháp luật quy định.
- Về hình thức: HĐTD luôn luôn được lập thành văn bản, đa phần là hợp đồng theo mẫu. Tên gọi của HĐTD có thể là: Hợp đồng tín dụng, Thỏa thuận cho vay, Hợp đồng vay, Khế ước vay vốn. Hoặc phụ thuộc vào thời hạn vay, mục đích vay, hợp đồng có thể thêm các cụm từ: “ngắn hạn”, “trung hạn”, “dài hạn”, “đồng Việt Nam”, “ngoại tệ”, “tiêu dùng”, “kinh doanh”, “đầu tư”...
- Về đối tượng: Đối tượng của HĐTD bao giờ cũng là tiền. Về nguyên tắc, đối tượng của HĐTD bao giờ cũng phải là một số tiền xác định và phải được các bên thỏa thuận, ghi rõ trong văn bản hợp đồng.
- Về tính rủi ro: HĐTD chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền lợi của bên cho vay bởi theo cam kết trong HĐTD, bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau một thời hạn nhất định. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro càng lớn. Vì thế mà các tranh chấp phát sinh từ HĐTD cũng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn so với các loại hợp đồng khác.
- Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: Trong HĐTD, nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên cho vay (nghĩa vụ giải ngân) bao giờ cũng phải được thực hiện trước, làm cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay. Do đó, chỉ khi nào bên cho vay chứng minh được rằng họ đã chuyển giao tiền vay theo đúng HĐTD cho bên vay thì khi đó họ mới có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với mình bao gồm các nghĩa vụ chính như sử dụng vốn vay đúng mục đích, hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng thời hạn đã thỏa thuận với bên cho vay…
* Phân loại hợp đồng tín dụng
a. Căn cứ vào thời hạn cho vay. HĐTD chia thành 3 loại:
- HĐTD ngắn hạn: Là loại HĐTD có thời hạn tối đa 12 tháng (1 năm). Là hợp đồng tín dụng sử dụng vốn vay nhằm bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp hoặc đáp ứng các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- HĐTD trung hạn: Là loại HĐTD có thời gian từ trên 12 tháng đến tối đa 60 tháng (từ trên 1 năm đến tối đa 5 năm). Là hợp đồng tín dụng trong đó người vay sử dụng vốn vay để mua sắm các tư liệu sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền công nghệ để nâng cao và mở rộng sản xuất kinh doanh hoặc xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ với thời gian thu hồi vốn nhanh.
- HĐTD dài hạn: Là HĐTD có thời gian trên 60 tháng (trên 5 năm). Là loại hợp đồng tín dụng sử dụng vốn vay để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà máy, xí nghiệp mới hoặc đầu tư thực hiện các dự án có quy mô lớn và thời gian đầu tư lâu dài.
b. Căn cứ vào đối tượng cho vay. HĐTD chia làm 2 loại:
HĐTD cho vay phục vụ nhu cầu đời sống: Là hình thức vay theo đó TCTD cho vay đối với khách hàng là cá nhân để thanh toán các chi phí cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân đó, gia đình của cá nhân đó
- HĐTD cho vay phục vụ hoạt động kinh doanh: là hình thức vay theo đó TCTD cho vay đối với khách hàng là pháp nhân, cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn, bao gồm nhu cầu vốn của pháp nhân, cá nhân đó và nhu cầu vốn của hộ kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân mà cá nhân đó là chủ hộ kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân.2
c. Căn cứ vào biện pháp bảo đảm tiền vay. HĐTD chia thành 2 loại:
- HĐTD không có bảo đảm: Là hợp đồng tín dụng không có các biện pháp bảo đảm như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh kèm theo. Việc cho vay được thực hiện trên cơ sở ngân hàng đánh giá, xếp loại uy tín của khách hàng, theo đó đối với khách hàng truyền thống, có bề dày uy tín trong quan hệ tín dụng, có khả năng tài chính, quản trị và sử dụng vốn vay có hiệu quả thì ngân hàng có thể chỉ cần dựa vào uy tín của bản thân khách hàng đó mà cho vay.
- HĐTD có bảo đảm: là hợp đồng tín dụng trong đó để được vay khách hàng phải có tài sản thế chấp để cầm cố, thế chấp hoặc có người thứ ba bảo lãnh để bảo đảm việc trả nợ vay. Loại cho vay này được áp dụng với khách hàng thông thường nhằm tạo ra nguồn thu bổ sung dự phòng cho trường hợp khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đầy đủ khi đến hạn.
1.1.2. Đối tượng, phạm vi và chủ thể của hợp đồng tín dụng
* Đối tượng của hợp đồng tín dụng
Đối tượng của HĐTD bao giờ cũng là tiền như đồng Việt Nam, vàng hoặc ngoại tệ. Về nguyên tắc, đối tượng của HĐTD bao giờ cũng phải là một số tiền xác định và phải được các bên thỏa thuận, ghi rõ trong văn bản hợp đồng.
* Phạm vi của hợp đồng tín dụng
- Về thời hạn cho vay: Tổ chức tín dụng và khách hàng căn cứ vào chu kỳ hoạt động kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn, khả năng trả nợ của khách hàng, nguồn vốn cho vay và thời hạn hoạt động còn lại của tổ chức tín dụng để thỏa thuận về thời hạn cho vay. Đối với khách hàng là pháp nhân được thành lập và hoạt động tại Việt Nam, pháp nhân được thành lập ở nước ngoài và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam, thời hạn cho vay không quá thời hạn hoạt động hợp pháp của khách hàng; đối với cá nhân có quốc tịch nước ngoài cư trú tại Việt Nam, thời hạn cho vay không vượt quá thời hạn được phép cư trú còn lại tại Việt Nam.
- Về lãi suất cho vay: BLDS năm 2015 quy định:“Lãi suất vay do các bên thỏa thuận, trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận của không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác”( Điều 468, Khoản 1).Theo Khoản 2, Điều 91, Luật các TCTD năm 2010 quy định:“Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”. Như vậy mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận được thực hiện theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng và khách hàng được thỏa thuận về mức lãi suất, phương pháp tính lãi phù hợp với quy định của pháp luật. Lãi suất cho vay được thỏa thuận dựa trên cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng. Mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá mức lãi suất cho vay tối đa do Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam quyết định.
Mức lãi suất áp dụng đối với khoản nợ gốc quá hạn do TCTD ấn định và thoả thuận với khách hàng trong HĐTD nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong HĐTD.
- Về mức cho vay: Tổ chức tín dụng căn cứ vào phương án sử dụng vốn, khả năng tài chính của khách hàng, các giới hạn cấp tín dụng với khách hàng và khả năng nguồn vốn của tổ chức tín dụng để thỏa thuận với khách hàng về mức cho vay. Tổ chức tín dụng căn cứ vào nhu cầu vay vốn và khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, khả năng nguồn vốn của mình để quyết định mức cho vay.
Ngoài ra, khi cho vay các TCTD căn cứ vào Điều 127, Luật các TCTD năm 2010 quy định về hạn chế cấp tín dụng, tùy thuộc vào đối tượng được cấp tín dụng mà tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với từng đối tượng là khác nhau không quá 5%, 10%, 20% vốn tự có của mình.
* Chủ thể hợp đồng tín dụng
Quan hệ pháp luật tín dụng là quan hệ tài sản – hàng hóa phát sinh trong quá trình sử dụng vốn tạm thời giữa ngân hàng và các tổ chức, cá nhân theo nguyên tắc có hoàn trả, dựa trên cơ sở tín nhiệm hoặc có sự bảo đảm, được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Tham gia quan hệ này có ít nhất gồm hai chủ thể là bên cho vay và bên đi vay.
- Bên cho vay: Luôn là TCTD, được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật các TCTD và các văn bản pháp luật có liên quan. Có chức năng hoạt động, kinh doanh tín dụng, thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
- Bên đi vay (Khách hàng): là pháp nhân, cá nhân quy định tại Khoản 3, Điều 2, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc NHNN Việt Nam bao gồm:“Pháp nhân được thành lập và hoạt động tại Việt Nam, pháp nhân được thành lập ở nước ngoài và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam; Cá nhân có quốc tịch Việt Nam, cá nhân có quốc tịch nước ngoài”.
1.2. Tranh chấp hợp đồng tín dụng
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm tranh chấp hợp đồng tín dụng
* Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng
Tranh chấp hợp đồng khác biệt với vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là hành vi pháp lý của các bên đã xử sự trái với các điều khoản được cam kết trong hợp đồng. Còn tranh chấp hợp đồng là ý kiến không thống nhất của các bên về hành vi vi phạm đó hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ sự vi phạm đó và được thể hiện ra bên ngoài. Cho nên, không phải cứ khi nào vi phạm hợp đồng thì khi đó có tranh chấp mà đôi khi sự vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng lại là sự kiện diễn ra sau đó một khoảng thời gian nhất định. Và đôi khi có sự vi phạm hợp đồng tín dụng nhưng không thể có sự tranh chấp bởi các bên không bày tỏ ra bên ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các hành vi phản kháng cụ thể có giá trị chứng cứ.7
Tranh chấp trong HĐTD phát sinh từ sự mâu thuẫn hay không thống nhất về quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích trong quá trình thực hiện HĐTD của các bên tham gia. Một HĐTD chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài thông qua những bằng chứng cụ thể và xác định được.
Như vậy, tranh chấp hợp đồng tín dụng là những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng giữa bên cho vay là tổ chức tín dụng và bên vay. Đó là những tranh chấp có thể về nợ gốc, nợ lãi, lãi suất, phí, về mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng cho vay như điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, xử lý tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và các nội dung khác.
Tranh chấp tín dụng được hiểu là tranh chấp về các hợp đồng tín dụng ngân hàng bao gồm hợp đồng cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các hợp đồng tín dụng khác.
* Đặc điểm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Tranh chấp HĐTD ngân hàng cũng là một loại tranh chấp hợp đồng dân sự nói chung, do vậy có đầy đủ những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp đồng. Tuy vậy, với bản chất đặc thù của Hợp đồng tín dụng, tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng có một số đặc điểm đặc trưng riêng biệt để có thể phân biệt với các loại tranh chấp hợp đồng khác.
- Thứ nhất: Tranh chấp HĐTD ngân hàng luôn có sự tham gia của một bên là TCTD và phần lớn các tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng thì nguyên đơn là TCTD cho vay, bị đơn là bên vay. Trong mối quan hệ HĐTD, các nghĩa vụ chính của bên vay thường phát sinh sau thời điểm giải ngân vốn vay. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn tất việc giải ngân cho khách hàng thì TCTD đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình. Các nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ sơ cấp tín dụng, nghĩa vụ thông báo, bảo quản giấy tờ tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản đảm bảo...là ít quan trọng và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay. Do đó, nếu có tranh chấp xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa vụ của mình, rất hiếm gặp trường hợp bên vay khởi kiện TCTD.
- Thứ hai: đa phần các tranh chấp liên quan đến HĐTD ngân hàng chính là các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả gốc, lãi của bên vay cho TCTD, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong HĐTD. Có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD như tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện HĐTD, tranh chấp liên quan đến bảo lãnh vay vốn, tranh chấp liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay...Tuy nhiên, tranh chấp xảy ra nhiều nhất là tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ hoàn trả gốc và lãi, về mức lãi suất vay, về nghĩa vụ bảo đảm. Bởi vì những nghĩa vụ này chính là những nghĩa vụ chính nhất, đóng vai trò quyết định trong quá trình thực hiện HĐTD của các bên tham gia và việc thực hiện này có tác động trực tiếp đến quyền lợi của TCTD.
- Thứ ba: Tranh chấp HĐTD ngân hàng thường gắn liền và là tiền đề làm phát sinh với một quan hệ hợp đồng khác như: hợp đồng bảo đảm tiền vay thông qua hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Các TCTD khi tham gia vào HĐTD đều có mục đích lợi nhuận từ việc cho vay đó. Để giảm thiểu, hạn chế rủi ro trong trường hợp bên vay không trả được nợ, thông thường TCTD chỉ đồng ý cho bên vay được vay vốn khi họ có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba. Các biện pháp bảo đảm này đóng vai trò là phương pháp dự phòng của TCTD khi rủi ro xảy ra. Khi đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ được thanh toán trong HĐTD thì các bên ký kết hợp đồng bảo đảm cho khoản vay. Tùy trường hợp mà đó có thể là hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hay là dưới hình thức chứng thư bảo lãnh của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và nghĩa vụ trong các hợp đồng bảo đảm cho nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc vay vốn, xuất phát từ HĐTD đã được ký kết và mục đích cuối cùng là bảo đảm cho việc trả nợ của bên vay khi gặp rủi ro về nghĩa vụ thanh toán nợ.
- Thứ tư: tranh chấp HĐTD ngân hàng phát sinh từ sự xung đột về lợi ích giữa các bên tham gia tranh chấp. Bởi vì tranh chấp HĐTD ngân hàng cũng là một loại tranh chấp hợp đồng dân sự nói chung nên phải xuất phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp đồng. Đối với tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng thì chỉ chính các bên hay người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên vay hay bên cho vay. Như vậy tranh chấp phát sinh từ HĐTD chỉ phát sinh khi các bên khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ tín dụng.
1.2.2. Các dạng tranh chấp hợp đồng tín dụng
Thực tiễn cho thấy các tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng là rất đa dạng và phức tạp. Tuy nhiên, thường tranh chấp phát sinh từ HĐTD có hai loại: tranh chấp HĐTD là tranh chấp về hợp đồng dân sự khi bên vay vốn là cá nhân, hộ gia đình hay tổ chức không có mục đích lợi nhuận và không có đăng ký kinh doanh; Tranh chấp HĐTD là tranh chấp kinh doanh thương mại khi bên vay vốn là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận.
Xét về phương diện lý thuyết, tranh chấp phát sinh từ HĐTD có các dạng cơ bản sau đây:
- Tranh chấp do các bên vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng:
+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên cho vay: HĐTD ngân hàng là một dạng của hợp đồng có hình thức bắt buộc thể hiện bằng văn bản. Do vậy, sau khi HĐTD ngân hàng có hiệu lực, việc giải ngân vốn mà hai bên đã thỏa thuận là nghĩa vụ của các ngân hàng thương mại (NHTM). Tuy nhiên vì một lý do nào đó (lý do khách quan hoặc lý do chủ quan) mà các NHTM đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân đối với bên vay. Điều này làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp, làm chậm tiến độ xây dựng, phá vỡ kế hoạch, mất cơ hội kinh doanh…của bên vay, dẫn tới những tổn thất về kinh tế, về uy tín và thương hiệu của bên vay. Do đó, bên vay có thể kiến nghị, đòi bồi thường cho những tổn thất đó, vì vậy mà tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng đã xảy ra.
+ Hành vi vi phạm nghĩa vụ trả lãi và thậm chí cả gốc và lãi của bên vay. Sau một thời gian thực hiện hợp đồng phía khách hàng sử dụng vốn vay không hiệu quả nên dẫn đến mất khả năng thanh toán nợ gốc và lãi. Trong những năm gần đây, loại tranh chấp phát sinh từ phía khách hàng vay vốn đang là dạng tranh chấp xảy ra nhiều nhất trong các loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng, tranh chấp này đã và đang gây không ít khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp để thu hồi vốn, giảm tỷ lệ nợ xấu xuống theo đúng tỷ lệ mà Ngân hàng nhà nước quy định tại các NHTM.
- Tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện hợp đồng tín dụng:
Tranh chấp này trên thực tế tương đối đa dạng và phức tạp nhất là trong những trường hợp có yếu tố nước ngoài. Điều này gây không ít khó khăn cho cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong quá trình ký kết HĐTD, việc xem xét tư cách chủ thể của bên vay vốn là một vấn đề quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của HĐTD. Trên thực tế, nếu TCTD không xác định đúng tư cách chủ thể (đặc biệt là trường hợp khách hàng vay là tổ chức, doanh nghiệp) dẫn đến việc ký hợp đồng tín dụng với chủ thể không có thẩm quyền ký kết. Hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu gây thiệt hại nặng cho các TCTD.
- Tranh chấp về đối tượng của hợp đồng tín dụng: bao gồm tranh chấp về quyền của các bên trong HĐTD ngân hàng hoặc hợp đồng bảo đảm tiền vay; Tranh chấp về nghĩa vụ của các bên trong HĐTD ngân hàng hoặc hợp đồng bảo đảm tiền vay; Tranh chấp về số tiền vay và lãi suất cho vay; Tranh chấp về thời hạn vay, thời hạn tính lãi quá hạn, thời hạn bảo đảm tiền vay; Tranh chấp về vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay…
- Tranh chấp xảy ra từ việc thực hiện biện pháp bảo đảm đối với HĐTD có bảo đảm bằng tài sản và định giá, xử lý tài sản bảo đảm:
Trong HĐTD có bảo đảm bằng tài sản, TCTD cho vay luôn có quyền ưu tiên theo đuổi tài sản bảo đảm để thu hồi nợ cho mình, bất luận tài sản bảo đảm đang nằm ở đâu và trong sự quản lý của ai. Quyền này của các TCTD được xác lập trên cơ sở giao dịch bảo đảm giữa TCTD (bên nhận bảo đảm) với bên vay hoặc bên thứ ba (bên bảo lãnh). Khi đến hạn mà bên vay không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ thì TCTD được quyền ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản bảo đảm. Chính bởi bản chất HĐTD mang tính rủi ro cao nên các TCTD coi bảo đảm tín dụng là nguồn thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ nhất (các lưu chuyển tiền tệ) không thể thanh toán được nợ. Hiện nay, theo quy định của pháp luật có ba hình thức bảo đảm tín dụng là cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Quá trình xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm và xử lý tài sản bảo đảm được quy định tại các điều từ 292 đến Điều 350 Bộ luật Dân sự năm 2015, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Nghị định 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện không phải lúc nào các bên cũng tuân thủ nghiêm túc những quy định của pháp luật nên rất dễ phát sinh tranh chấp.
Các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng này xảy ra tương đối nhiều chủ yếu liên quan đến việc định giá, xử lý tài sản bảo đảm. Đối với những HĐTD cho vay có bảo đảm, việc xác định tài sản bảo đảm thuộc sở hữu của vợ chồng, tài sản riêng của từng người hay tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình có ý nghĩa quan trọng đối với việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp bên vay không trả được nợ. Nếu trong trường hợp khi thẩm định hồ sơ vay vốn, nhân viên ngân hàng thẩm định không kỹ, kết quả thẩm định không chính xác dẫn đến chấp nhận những tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật khi thực hiện giao dịch bảo đảm thì sẽ dẫn đến những tranh chấp phát sinh khi TCTD về xử lý tài sản bảo đảm.
- Tranh chấp về pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng: Thường xảy ra tranh chấp trong trường hợp nếu như có yếu tố nước ngoài mà khi ký kết HĐTD các bên đã không thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng cũng như cơ quan giải quyết tranh chấp là trọng tài thương mại hoặc tòa án.
1.2.3. Nguyên nhân dẫn đến phát sinh tranh chấp hợp đồng tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, do nhu cầu vốn để phát triển kinh tế là rất lớn nên tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng cũng có xu hướng ngày càng tăng, đa dạng về chủng loại và phức tạp về tính chất, mức độ của quan hệ tranh chấp. Do vậy, việc tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là hết sức cần thiết để từ đó đánh giá và đưa ra những giải pháp, chính sách phù hợp nhất nhằm hạn chế tranh chấp, từ đó giảm chi phí giao dịch cho các bên liên quan đến HĐTD ngân hàng. Từ những đặc điểm và phân loại tranh chấp HĐTD ngân hàng có thể thấy nguyên nhân gây ra tranh chấp HĐTD rất đa dạng, được xem xét theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, về lý thuyết có thể phân chia các nguyên nhân này thành ba nhóm cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, nguyên nhân từ phía bên cho vay:
+ Nguyên nhân từ vấn đề giải ngân: Bên cho vay đã không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân theo đúng các điều kiện trong HĐTD đã ký làm hạn chế khả năng thực hiện kế hoạch kinh doanh như dự kiến, hiệu quả kinh doanh đạt được thấp gây ảnh hưởng đến việc trả lãi và gốc sau này của bên vay.
+ Bên cho vay chưa có chính sách phù hợp và quy trình cấp tín dụng hiệu quả, chặt chẽ, chưa có quy trình quản trị rủi ro hữu hiệu, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng, chấm điểm, xếp loại, xếp hạng khách hàng, phân loại rủi ro tín dụng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ của bên vay khi đến hạn hợp đồng.
+ Bên cho vay chưa chấp hành đầy đủ các điều kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay của Ngân hàng nhà nước, chưa phân tích, đánh giá các điều kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay. Nhiều TCTD khi đánh giá về biện pháp bảo đảm tiền vay chỉ dựa vào nguồn thông tin, hồ sơ, số liệu do khách hàng cung cấp mà chưa có sự kiểm chứng các sổ sách kế toán và kiểm tra thực tế.
+ Năng lực, phẩm chất, đạo đức của cán bộ tín dụng: do sự hạn chế về năng lực nghiệp vụ của các bộ ngân hàng, do các NHTM thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà không kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng vốn vay.
- Thứ hai, nguyên nhân từ phía bên vay:
+ Nguyên nhân khách quan: Là những yếu tố tác động ngoài ý chí, tầm kiểm soát của bên vay như do sự thay đổi của chính sách quản lý kinh tế, do thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn, điều chỉnh quy hoạch, do biến động thị trường, quan hệ cung cầu hàng hoá thay đổi…làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của bên vay không thực hiện như kế hoạch đã đề ra.
+ Nguyên nhân chủ quan: là những yếu tố xuất phát từ mỗi khách hàng. Có thể là do bên vay không nắm được thông tin cần thiết về kế hoạch đầu tư, sản xuất khi vay vốn dẫn đến việc sử dụng vốn vay về đầu tư không có hiệu quả. Có thể là do vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không đáp ứng nhu cầu, năng lực điều hành còn hạn chế, thiếu thông tin thị trường và thông tin về các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng tới quá trình sản xuất, công nghệ chưa được cải tiến, nâng cấp nên sản phẩm sản xuất ra chưa có tính cạnh tranh cao, hiệu quả kinh doanh kém, hậu quả là doanh nghiệp thua lỗ lâm vào tình trạng phá sản. Cũng có trường hợp do bên vay cố tình đưa ra những thông tin sai sự thật ngay từ khi vay vốn nên khi về đầu tư hay sử dụng vào mục đích của mình không có hiệu quả.
Nguyên nhân nữa là do bên vay còn thiếu hiểu biết về pháp luật, trình độ hiểu biết của bên vay còn hạn chế về những kiến thức pháp luật liên quan. Có trường hợp bên vay ký những hợp đồng trái luật trong khi bản thân không hiểu rõ về pháp luật, nên khả năng xảy ra những bất lợi cho mình là rất lớn.
- Thứ ba, nguyên nhân do quy định của pháp luật:
Các quy định của pháp luật còn chưa được thống nhất, dẫn đến mỗi bên hiểu theo những cách khác nhau nhằm bảo vệ cho quyền và lợi ích của mình, từ đó xảy ra tranh chấp khi các các bên nảy sinh bất đồng quan điểm, mâu thuẫn. Hiện nay pháp luật quy định bên cho vay nếu muốn từ chối cho vay khách hàng nào thì bắt buộc phải đưa ra lý do, căn cứ chính đáng. Nhưng trên thực tế chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Do vậy, phía bên cho vay cho rằng cho vay là quyền tự do kinh doanh của họ nên lý do có chính đáng hay không là do họ quyết định. Còn phía bên đi vay thì không chấp nhận với cách hiểu đó nên trong trường hợp bị từ chối cho vay họ sẵn sàng khiếu nại tới các cơ quan liên quan để đề nghị giải quyết.
Ngoài ra, còn nhiều quy định chồng chéo lẫn nhau đặc biệt là các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm. Hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều quy định không thể thực hiện được trên thực tế, như việc thế chấp tài sản là đất và tài sản gắn liền với đất nhưng trên giấy chứng nhận chỉ có đất, chưa chứng nhận quyền sở hữu tài sản trên đất chưa bổ sung trước bạ nhà nên khi công chứng hợp đồng thế chấp, đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ ghi quyền sử dụng đất mà không ghi phần tài sản trên đất. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán ở nhiều cơ quan khác nhau tạo ra sự không đồng bộ trong quá trình quản lý. Theo Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và Nghị định 11/2012/NĐ- CP sửa đổi nghị định 163/2006/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm, cho phép các TCTD được lựa chọn hình thức xử lý đa dạng như: bán tài sản thế chấp, nhận các khoản tiền và tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ, phương thức khác do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không tự thoả thuận được phương thức xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì các tài sản này được đem bán đấu giá nhưng để thực hiện được các bên lại phải ký hợp đồng uỷ quyền tại đơn vị bán đấu giá có thẩm quyền. Điều này thường không thực hịên được do bên thế chấp không đồng ý và khi đó các TCTD không có cơ chế nào để bảo vệ được quyền lợi của mình.
1.3. Phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng
Trên thế giới, tùy thuộc vào quan điểm, tư tưởng của các nhà lập pháp của từng quốc gia mà luật pháp mỗi nước có những quy định khác nhau về vấn đề giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng. Tuy vậy, hầu hết các quốc gia đều thừa nhận các hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại nói chung và giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng nói riêng bao gồm: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án.
Thực tế cho thấy, mỗi hình thức giải quyết tranh chấp nói trên đều có những điểm lợi thế và những điểm hạn chế nhất định.Tùy thuộc vào tính chất của tranh chấp, mức độ phức tạp của tranh chấp, khả năng và điều kiện cụ thể của các bên mà các chủ thể tranh chấp có thể lựa chọn hình thức này hay hình thức khác, hoặc sử dụng phối hợp nhiều hình thức khác nhau nhằm giải quyết tranh chấp đạt hiệu quả cao nhất.
1.3.1. Phương thức giải quyết tranh hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng thương lượng
Phương thức thương lượng là phương thức được các bên tranh chấp lựa chọn trước tiên trong quá trình giải quyết tranh chấp và trong thực tiễn phần lớn các tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng được giải quyết bằng phương thức này. Thông qua phương thức này, các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tự tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ giúp hay phán quyết của bất kỳ bên thứ ba nào. Phương thức tự thương lượng được Nhà nước khuyến khích áp dụng để giải quyết tranh chấp trên tinh thần hoàn toàn tôn trọng quyền thỏa thuận của các bên. Do vậy, cho đến thời điểm hiện tại pháp luật không đưa ra bất cứ quy định nào cho phương thức giải quyết này.
Phương pháp thương lượng được các bên tiến hành đầu tiên bởi ưu điểm của nó là sự thuận tiện, đơn giản, nhanh chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém về thời gian, tiền bạc, không bị ràng buộc bởi các thủ tục pháp lý phức tạp, hơn nữa còn đảm bảo bí mật kinh doanh, uy tín của các bên tranh chấp. Nếu thương lượng thành công không những các bên loại bỏ được những bất đồng, mâu thuẫn đã phát sinh mà ít gây phương hại đến quan hệ hợp tác vốn có của các bên thậm chí còn được tăng cường về sự hiểu biết và hợp tác lẫn nhau trong tương lai khi kết thúc cuộc thương lượng.
Hiện nay bên cạnh việc thương lượng truyền thống thì với sự phát triển của công nghệ thông tin các bên có thể thương lượng bằng trực tuyến. Tuy nhiên, tại Việt Nam phương thức này chưa được áp dụng phổ biến, đặc biệt là trong tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Song bên cạnh các ưu điểm trên, phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng cũng có những nhược điểm như: thương lượng thành công phụ thuộc vào sự hiểu biết và các bên có thái độ thiện chí, hợp tác muốn tìm giải pháp đối với tranh chấp. Trong trường hợp nếu bên vay muốn dùng hình thức thương lượng để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ thì thương lượng chỉ làm tốn kém và kéo dài thời gian giải quyết tranh chấp hơn. Mặt khác, kết quả quả thương lượng lại không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lý mang tính bắt buộc. Do đó, dù các bên có đạt được thỏa thuận để giải quyết vụ việc tranh chấp thì việc thực thi kết quả thương lượng vẫn phụ thuộc vào sự tự nguyện của bên phải thi hành. Nếu một bên không tự nguyện thì kết quả thương lượng cũng chỉ tồn tại trên giấy mang tính hình thức mà không có một cơ chế pháp lý nào bắt buộc thi hành đối với kết quả thương lượng của các bên. Điều này dễ dẫn đến bị lạm dụng trong thực tiễn giải quyết tranh chấp. Mặt khác, hình thức giải quyết khép kín, không công khai có khi lại nảy sinh những tiêu cực, trái pháp luật.
1.3.2. Phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng hòa giải
Việc giải quyết tranh chấp bằng hòa giải được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 22/2017/NĐ-CP ngày 24/2/2017 của Chính phủ về hòa giải thương mại.
Phương thức giải quyết tranh chấp bằng hoà giải là các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận để giải quyết các vấn đề tranh chấp và phải có sự hỗ trợ của bên thứ ba là hòa giải viên. Phương thức hòa giải cũng là một phương thức giải quyết tranh chấp không chịu sự điều chỉnh của pháp luật, được thực hiện hoàn toàn dựa trên thiện chí của các bên. Bên trung gian hòa giải có thể là cá nhân, tổ chức luật sư, tư vấn, hoặc các tổ chức khác do các bên thỏa thuận lựa chọn. Bên thứ ba trung lập chỉ hỗ trợ, thuyết phục các bên tìm kiếm giải pháp đưa ra thoả thuận, không có thẩm quyền đưa ra phán xét. Kết quả hòa giải hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện, tinh thần thiện chí của các bên tranh chấp và uy tín, kinh nghiệm, kỹ năng của trung gian hòa giải, quyết định cuối cùng của việc giải quyết tranh chấp không phải của trung gian hòa giải mà hoàn toàn phụ thuộc các bên tranh chấp. Trên thực tế, phương thức hòa giải đã được sử dụng, nhưng phạm vi và hiệu quả áp dụng còn ở mức khiêm tốn.
Phương pháp giải quyết tranh chấp bằng hoà giải có những ưu điểm như: có sự tham gia của bên trung gian là hòa giải viên là những người có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm và hiểu biết pháp luật. Hòa giải viên là trung gian góp phần làm cho các bên đưa ra thống nhất phương án giải quyết để loại trừ tranh chấp.Thủ tục hòa giải được tiến hành nhanh gọn không gò bó, tiết kiệm được thời gian, địa điểm hoà giải có thể được thỏa thuận và điều chỉnh do các bên tham gia giải quyết tranh chấp, các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm trung gian hòa giải có hiểu biết chuyên môn về vấn đề tranh chấp. Hòa giải mang tính thân thiện nhằm tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ kinh doanh vì lợi ích của cả hai bên. Trong hòa giải, các bên tranh chấp có thể nói chuyện, trao đổi, đàm phán và thảo luận về các giải pháp trong toàn bộ quá trình. Quá trình hòa giải tạo cơ hội cho mỗi bên bày tỏ quan điểm của mình về tranh chấp, không dẫn đến tình trạng đối đầu, thắng thua như quá trình kiện tụng tại tòa án, duy trì được mối quan hệ vốn có của các bên. Vì hòa giải xuất phát từ sự tự nguyện tham gia và tự do thỏa thuận của các bên, nên nội dung thỏa thuận luôn theo hướng tới lợi ích của tất cả các bên. Mặt khác, là khi giải quyết bằng hòa giải, các bên kiểm soát được những bí mật của mình bởi phiên họp hòa giải được tổ chức kín, trong khi giải quyết tại Tòa án thì các yêu cầu này không được đảm bảo do tòa án thực hiện xét xử theo nguyên tắc công khai.
Cũng giống như thương lượng, hiện nay hòa giải cũng áp dụng phương pháp hòa giải trực tuyến. Đây là phương pháp đang được áp dụng rộng rãi ở những quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Úc, Singapore …Tuy nhiên, cách thức triển khai này cũng chưa được áp dụng ở Việt Nam khi hiện tại mới chỉ có một số trung tâm hòa giải được thành lập, do đó luận văn cũng không đi sâu vào phương thức này. Bên cạnh những ưu điểm, giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng bằng phương pháp hòa giải vẫn còn tồn tại những hạn chế, nhược điểm nhất định như: giải quyết theo hình thức khép kín, không công khai nên rất dễ nảy sinh những tiêu cực, trái pháp luật. Việc hòa giải có được tiến hành hay không phụ thuộc vào sự nhất trí của các bên, hòa giải viên không có quyền đưa ra một quyết định ràng buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối với các bên tranh chấp thỏa thuận hòa giải, không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết của Trọng tài thương mại hay của Tòa án.Kết quả hòa giải cũng không được pháp luật bảo đảm thi hành, hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của các bên. Vì vậy, phương pháp này ít được sử dụng nếu các bên không có sự tin tưởng với nhau.
1.3.3. Phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng trọng tài thương mại
Phương thức giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng bằng trọng tài thương mại cũng bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự nguyện và được tiến hành theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010. Các bên được quyền thỏa thuận lựa chọn một Trọng tài phù hợp, chỉ định trọng tài viên để thành lập Hội đồng (hoặc Ủy ban) Trọng tài giải quyết tranh chấp với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu thuẫn tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc thi hành. Điều này khác với phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng và hòa giải.
Xuất phát từ thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng bằng trọng tài thương mại cho thấy những ưu điểm sau:
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thể hiện tính năng động, linh hoạt và mềm dẻo, tạo quyền chủ động cho các bên về địa điểm, thời gian giải quyết tranh chấp, tiết kiệm được thời gian có thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài trong khi Tòa án khi xét xử phải tuân thủ một cách đầy đủ và nghiêm ngặt các quy định có tính chất quy trình, thủ tục, trình tự được quy định trong BLTTDS và các văn bản hướng dẫn liên quan.
Thứ hai, phương thức giải quyết tranh chấp trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp có nguyên tắc xét xử không công khai (xử kín) nếu các bên không có thỏa thuận khác. Đây là một ưu điểm mà các bên tranh chấp luôn coi trọng bởi các bên không muốn các chi tiết của vụ tranh chấp bị đem ra công khai trước Tòa án, điều mà các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh doanh của mình. Việc xét xử tranh chấp bằng trọng tài thương mại trên thực tế đã làm giảm đáng kể mức độ xung đột, căng thẳng của những bất đồng bởi nó diễn ra trong một không gian kín, nhẹ nhàng, mang nặng tính trao đổi để tìm ra sự thật khách quan của vụ việc. Đó chính là những yếu tố tạo điều kiện để các bên duy trì được quan hệ đối tác, quan hệ thiện chí đối với nhau.
Thứ ba, quyết định của Trọng tài thương mại là chung thẩm và vì vậy nó có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên, các bên không thể chống án hay kháng cáo. Việc xét xử tại Trọng tài thương mại chỉ diễn ra ở một cấp xét xử, đó cũng chính là điều khác biệt cơ bản so với xét xử tại Tòa án bởi thông thường xét xử tại Tòa án diễn ra ở hai cấp. Hội đồng trọng tài sau khi tuyên phán quyết xong là đã hoàn thành nhiệm vụ của mình và chấm dứt sự tồn tại.
Thứ tư, giải quyết trọng tài không bị giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình.
Thứ năm, khả năng chỉ định trọng tài viên thành lập Hội đồng trọng tài giải quyết vụ việc giúp các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề đang tranh chấp để từ đó họ có thể giải quyết tranh chấp nhanh chóng, chính xác.
Bên cạnh đó phương phức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có những hạn chế như là: Thứ nhất, quyết định trọng tài thương mại không có tính cưỡng chế cao như quyết định của Toà án; Thứ hai, trọng tài không phải cơ quan quyền lực nhà nước nên khi xét xử, trong trường hợp cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo đảm chứng cứ, trọng tài không thể ra quyết định mang tính bắt buộc về điều đó mà phải yêu cầu tòa án thi hành các phán quyết trọng tài. Trọng tài có thể gặp khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp, đặc biệt là những tranh chấp phức tạp, về những vấn đề như: xác minh thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng…; Thứ ba, việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí tự nguyện, thiện chí, hợp tác giải quyết của các bên do vậy việc thi hành quyết định trọng tài thương mại không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như việc thi hành bản án; Thứ tư, giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài thì phí trọng tài càng cao.
1.3.4. Phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng Tòa án
Thông thường thì hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD thông qua Tòa án được tiến hành mà việc áp dụng cơ chế thương lượng và hòa giải không còn có hiệu quả và các bên bên tranh chấp cũng không tự thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại Trọng tài thương mại. Việc tự giải quyết tranh chấp của các bên thường gặp nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau và vì vậy sự cần thiết phải có sự can thiệp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà phổ biến ở đây là Tòa án. Mặt khác, khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, quyết định trọng tài không có tính cưỡng chế cao như quyết định của Tòa án, việc thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như thi hành bản án của Tòa mà phụ thuộc chủ yếu vào thiện chí và hợp tác giải quyết của các bên. Do đó, việc giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng thông qua Tòa án là hình thức cuối cùng mà các bên lựa chọn để giải quyết khi tranh chấp không còn lựa chọn nào khác.
Thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với tranh chấp HĐTD ngân hàng được quy định tại BLTTDS năm 2015 là:
- Tranh chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp về hợp đồng dân sự khi bên vay vốn là cá nhân hay tổ chức không có đăng ký kinh doanh và không có mục đích lợi nhuận. Thì tranh chấp này thuộc thẩm thuộc quyền giải quyết của Tòa án theo Khoản 3, Điều 26, BLTTDS năm 2015: “Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự”.
- Tranh chấp HĐTD ngân hàng là tranh chấp kinh doanh, thương mại khi bên vay vốn là cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận. Thì tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo Khoản 1, Điều 30, BLTTDS năm 2015 quy định:“Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận”.
Trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng được quy định rõ trong BLTTDS năm 2015:
- Thủ tục giải quyết vụ án tại toà sơ thẩm, gồm có: khởi kiện và thụ lý vụ án, hoà giải và chuẩn bị xét xử, phiên toà sơ thẩm.
- Thủ tục giải quyết vụ án tại toà phúc thẩm, gồm có: thụ lý vụ án và chuẩn bị xét xử, phiên tòa phúc thẩm.
- Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực của pháp luật, bao gồm: thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm.
Việc đưa tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng ra xét xử tại Tòa án có nhiều ưu điểm nhưng cũng có những nhược điểm nhất định như:
- Về ưu điểm:
+ Tòa án là cơ quan nhân danh Nhà nước để giải quyết tranh chấp, do đó phán quyết của Tòa án là phán quyết có tính bắt buộc phải thi hành trên phạm vi toàn lãnh thổ nơi giải quyết tranh chấp và được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Cơ quan thi hành án là một cơ quan chuyên trách và có đầy đủ bộ máy, phương tiện để thi hành các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Đặc điểm này được có thể coi là yếu tố quan trọng nhất khiến các bên tranh chấp thường tìm đến phương thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
+ Có tính pháp lý đáng tin cậy, dễ dàng thực hiện công tác thu thập chứng cứ phục vụ điều tra xác minh và có thể yêu cầu sự hỗ trợ từ các cơ quan, tổ chức khác.
+ Khi giải quyết tranh chấp tại Tòa án, việc giải quyết có thể qua nhiều cấp xét xử, vì thế nguyên tắc nhiều cấp xét xử bảo đảm cho quyết định của Tòa án được chính xác, công bằng, khách quan và đúng với pháp luật.
+ Chi phí cho việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án thấp hơn rất nhiều so với việc nhờ đến các tổ chức Trọng tài thương mại hay Trọng tài quốc tế.
+ Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án được mở rộng đến tất cả các ngành kinh tế. Chính vì thế, khi xảy ra tranh chấp, người ta thường nghĩ đến tòa án như là nơi bao quát giải quyết mọi vấn đề.
+ Quy định chặt chẽ về trình tự thủ tục và hệ thống xét xử.
- Về nhược điểm:
+ Khi lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, các bên phải nắm rõ được bản chất, vì việc giải quyết tranh chấp của tòa án phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định mang tính hình thức của pháp luật tố tụng vì vậy thời gian giải quyết khá dài, điều này đôi khi có thể gây trở ngại cho các bên tranh chấp vì tính chất của hoạt động tín dụng đòi hỏi mọi thủ tục phải rất linh hoạt và nhanh gọn.
+ Tòa án xét xử công khai. Điều này xuất phát từ bản chất của hoạt động xét xử là bảo vệ pháp chế và duy trì công lý đã được pháp luật quy định, xã hội thừa nhận. Mặt khác, hoạt động xét xử công khai của Tòa án còn có tác dụng răn đe, cảnh cáo những hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, để giữ bí mật Nhà nước hoặc bí mật nghề nghiệp theo yêu cầu chính đáng của đương sư, Tòa án có thể xử kín nhưng phải tuyên án công khai. Các doanh nghiệp làm ăn trên thương trường đều không muốn mất uy tín khi doanh nghiệp của mình phải ra Tòa để giải quyết tranh chấp, nó có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của họ, cho nên khuyết điểm này có thể coi là lớn nhất.
+ Mặc dù nguyên tắc xét xử nhiều cấp đảm bảo cho quyết định của Tòa án là chính xác, công bằng. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng sẽ khiến cho vụ việc có thể bị kéo dài, xử đi xử lại nhiều lần gây bất lợi cho đương sự, nhất là những tranh chấp hợp đồng tín dụng có giá trị lớn đòi hỏi phải giải quyết nhanh chóng, dứt điểm. Việc dây dưa, kéo dài vụ việc sẽ gây căng thẳng tâm lý, làm mất thời gian, tiền bạc của các bên tham gia tố tụng tại Tòa.
+ Khả năng tác động của các bên trong quá trình tố tụng rất hạn chế, đôi lúc nó không thể hiện được hết nguyện vọng của các bên tranh chấp.
Như vậy, có thể hiểu pháp luật giải quyết tranh chấp HĐTD ngân hàng tại Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán Nhà nước thực hiện. Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc bên có nghĩa vụ phải thi hành, kể cả bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước dựa trên cơ sở Pháp luật đã quy định về lĩnh vực tranh chấp hợp đồng tín dụng như: BLDS, Luật các TCTD, Luật thương mại, Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam... Do đó, các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của Tòa án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích của mình khi họ thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng hoặc hòa giải và cũng không muốn đưa vụ việc tranh chấp của họ để giải quyết bằng trọng tài thương mại.
Theo: Phạm Hồng Nhung
Link luận văn:
https://docs.google.com/document/d/1qQkaHfJtsyE3iU-EHl5qH66xAWcNMQs0/edit