PHƯƠNG HƯỚNG THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ THEO HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG
4.1 Phương hướng thực hiện các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
4.1.1 Đánh giá hiệu quả thực hiện các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
Phương hướng thực hiện các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định CPTPP bao gồm: nội luật hóa, tổ chức thực hiện, hợp tác quốc tế, và đặc biệt là đánh giá hiệu quả thực hiện các cam kết. Việc thực hiện các cam kết về quyền SHTT theo Hiệp định CPTPP cần được phân tích và hệ thống hóa nhằm đánh giá hiệu quả mà các cam kết này mang lại. Thông qua các báo cáo, số liệu thống kê, các quốc gia thành viên có thể đánh giá được hiệu quả của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định CPTPP. Việc đánh giá hiệu quả thực hiện cam kết về quyền SHTT sẽ là căn cứ cho phương hướng thực hiện các cam kết này trong tương lai khi Hiệp định CPTPP cho phép các quốc gia không phải là thành viên được phép đàm phán và xin gia nhập. Trên thực tế, với vị thế của Hiệp định CPTPP, đặc biệt với kết quả thực thi, đã có rất nhiều đối tác quan tâm tới hiệp định. Ngoài Vương quốc Anh, nhiều quốc gia khác đã nộp đơn xin gia nhập. Việt Nam là một trong các quốc gia có lợi thế là quốc gia đi đầu, xét đơn gia nhập của các đối tác mới [74].
Kể từ khi Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực, Việt Nam là một trong những quốc gia khai thác hiệu quả cơ hội tại thị trường của các quốc gia thành viên. Cụ thể, năm 2021, tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ các nước thành viên CPTPP đạt khoảng 45,5 tỷ đô la mỹ, tăng khoảng 37,6 % so với năm 2020. Trong khi đó, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên CPTPP đạt khoảng 45,7 tỷ đô la mỹ, tăng 18,1% so với năm 2020. Tính đến cuối năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước thành viên của Hiệp định CTPPP đạt 88,1 tỷ đô la mỹ, tăng khoảng 19,2% so với cùng kỳ năm 2021 [74]. Kết quả này phản ánh nỗ lực của Việt Nam khi là một trong những quốc gia “dũng cảm” đi đầu triển khai, nghiêm túc tổ chức thực hiện Hiệp định CPTPP. Tuy nhiên, các lợi thế này đã dần mất đi khi các quốc gia thành viên khác cũng đã phê chuẩn Hiệp định CPTPP, đồng thời một số nền kinh tế khác có thể sẽ tham gia trong thời gian sắp tới [74]. Do đó, bên cạnh việc tiếp tục đánh giá hiệu quả thực hiện các cam kết về quyền SHTT theo Hiệp định CPTPP qua từng năm, các quốc gia thành viên cũng cần đánh giá tác động từ việc gia nhập của các quốc khác, đặc biệt là các quốc gia phát triển như Vương Quốc Anh, Hoa Kỳ bởi chương 18 của Hiệp định CPTPP chỉ tạm hoãn thực hiện một số cam kết về quyền SHTT mà không loại bỏ hoàn toàn các cam kết này.
4.1.2 Phương hướng hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đáp ứng nhu cầu nội tại của quốc gia đang phát triển như Việt Nam
Hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Việt Nam nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng. Việc chỉnh sửa, bổ sung một số điều của Luật SHTT nhằm hướng tới mục tiêu thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bảo hộ thành quả sáng tạo của các chủ thể nhằm thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong sản xuất kinh doanh cũng như bảo đảm môi trường đầu tư, cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Việc sửa đổi Luật SHTT sẽ đảm bảo tính ổn định đồng bộ, minh bạch, khả thi, dễ tiếp cận, và hiệu quả của hệ thống pháp luật SHTT. Luật SHTT 2005 được ban hành như luật chuyên ngành thay thế cho những quy định về bảo hộ quyền SHTT nằm trong Bộ luật Dân sự trước đó đã phát huy tác dụng trong bối cảnh vai trò quyền SHTT trở nên hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh phát triển của khoa học kỹ thuật, đẩy mạnh giao thương quốc tế như hiện nay thì Luật SHTT năm 2005 liên tục được sửa đổi vào năm 2009 và 2019 vẫn chưa giải quyết được nhu cầu thực tiễn, nội tại của chính Việt Nam. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, SHTT được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, cụ thể: “…hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước.” [77].
Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật SHTT không chỉ thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà còn tạo khuôn khổ pháp lý phù hợp cho chính sách bảo hộ quyền SHTT của Việt Nam. Đây cũng là tiền đề hợp tác đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng. Về cơ bản, Việt Nam cần tập trung sửa đổi 07 nhóm chính sách lớn liên quan đến quyền SHTT xuất phát từ nhu cầu của chính Việt Nam.
Một là, pháp luật về SHTT phải đảm bảo quy định rõ về các tiêu chuẩn bảo hộ và nội dung quyền của các chủ thể [58].
Hai là, cần khuyến khích việc tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch được sử dụng từ ngân sách nhà nước [58]. Khi việc xác định quyền sở hữu và quyền khai thác đối với các nghiên cứu khoa học sử dụng nguồn vốn của nhà nước được quy định cụ thể và chi tiết hơn sẽ thúc đẩy việc khai thác các tài sản được bảo hộ quyền SHTT (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí).
Ba là, các thủ tục hành chính liên quan đến việc đăng ký và xác lập quyền cần được tinh giản, nhanh gọn, hiệu quả, và tiết kiệm nhằm hỗ trợ tối đa cho mục tiêu bảo hộ quyền SHTT [56].
Bốn là, mức độ bảo hộ phải dựa trên nguyên tắc thỏa đáng và cân bằng lợi ích của các bên liên quan. Các sửa đổi, bổ sung của luật SHTT sẽ hướng đến quyền tiếp cận các đối tượng của quyền SHTT của công chúng và giới hạn quyền của chủ sở hữu [47].
Năm là, tăng cường, đẩy mạnh hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ về SHTT. Các hoạt động này cần được chỉnh sửa theo hướng quy định rõ trách nhiệm và phân loại phạm vi hoạt động của các bên liên quan. Quy định hiện nay của pháp luật về SHTT vẫn còn nhiều điểm chưa tương thích, chồng chéo lên nhau từ đó gây khó khăn cho việc xác định trách nhiệm cũng như phạm vi công việc của các bên liên quan [58].
Sáu là, hiệu quả của các hoạt động thực thi quyền SHTT phụ thuộc vào sự cụ thể và khả thi của các quy định pháp luật [56]. Vậy nên luật SHTT cần được quy định chi tiết, cụ thể, và đặc biệt chú trọng các biện pháp dân sự. Các biện pháp về thực thi quyền SHTT trong môi trường số cần phải nhanh chóng hoàn thiện do các vi phạm về quyền SHTT hiện nay đang diễn ra trên môi trường số ngày càng tinh vi, phức tạp. Những quy định liên quan đến cách thức và phạm vi áp dụng các biện pháp kiểm soát biên giới đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu cũng cần phải được sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm thị trường cạnh tranh lành mạnh.
Cuối cùng, cần tập trung nguồn lực để xây dựng hệ thống SHTT trên cơ sở đảm bảo thực thi đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập quốc tế để tăng cường uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế [58].
4.1.3 Phương hướng hoàn thiện pháp luật tương thích với các cam kết của Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
Việt Nam với tư cách thành viên của Hiệp định CPTPP có nghĩa vụ phải nội luật hóa các cam kết về quyền SHTT, bao gồm việc ghi nhận các tiêu chuẩn bảo hộ tương đồng và thực hiện tốt nghĩa vụ thực thi quyền SHTT.
Các cam kết về tiêu chuẩn bảo hộ trong Hiệp định CPTPP không dàn trải đối với tất cả các đối tượng của quyền SHTT mà tập trung chủ yếu vào một số đối tượng như nhãn hiệu, sáng chế, quyền tác giả, kiểu dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý. Ngoài ra, còn có các cam kết dành riêng cho một số sản phẩm SHTT đặc thù như dược phẩm, nông hóa phẩm, và các vấn đề SHTT thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin.
Các cam kết về thực thi quyền SHTT theo Hiệp định CPTPP bao gồm các chuẩn mực chung tối thiểu về thực thi quyền SHTT trong Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền Sở hữu trí tuệ và các chuẩn mực cụ thể đối với từng biện pháp dân sự, hành chính, hình sự và kiểm soát biên giới. Hiệp định TRIPS được coi là điều ước quốc tế đa phương đầu tiên với các chuẩn mực đầy đủ, toàn diện về thực thi quyền SHTT, tuy nhiên thực tế hợp tác trong khu vực của Hiệp định CPTPP đòi hỏi phải tiếp tục nâng cao tính hiệu quả của cơ chế thực thi quyền SHTT đối với mỗi quốc gia thành viên. Các biện pháp thực thi quyền SHTT này tập trung tăng cường hiệu quả thực thi quyền SHTT theo các biện pháp đã được ghi nhận theo Hiệp định TRIPS nhưng nhấn mạnh các biện pháp áp dụng trong môi trường số cũng như một số chế tài xử lý nghiêm khắc hơn các xâm phạm quyền SHTT.
Việc đặt ra các tiêu chuẩn cao hơn Hiệp định TRIPS thông qua các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định CPTPP sẽ là giải pháp nhằm mở rộng phạm vi, đối tượng, và kéo dài thời hạn bảo hộ với cơ chế thực thi mạnh mẽ hơn, đồng thời làm suy yếu dần các quy định linh hoạt và ưu đãi cho các quốc gia đang phát triển và kém phát triển trong Hiệp định TRIPS. Tuy nhiên, trong số những cam kết về bảo hộ quyền SHTT nói chung cũng như thực thi quyền SHTT nói riêng của Hiệp định CPTPP mang tính nghiêm ngặt hơn các cam kết trước đó trong khuôn khổ WTO hay khuôn khổ khu vực, song phương khác đối với Việt Nam hiện đang tạm dừng thực hiện. Điều này không có nghĩa rằng pháp luật Việt Nam sẽ không buộc phải nội luật hóa những nội dung đó mà chỉ đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ có thời gian kéo dài thời gian chuyển tiếp cho việc hoàn thiện pháp luật trong tương lai.
Kể từ khi Hiệp định CPTPP chính thức có hiệu lực thì Việt Nam là quốc gia đối mặt với nhiều thách thức về bảo hộ SHTT. Mặc dù thời gian chuyển tiếp được ấn định đối với Việt Nam (ba (03) năm cho sửa đổi pháp luật, năm (05) năm cho xã hội thích ứng với việc kéo dài các thời hạn bảo hộ và mười hai (12) năm đối với tiêu chuẩn cao trong bảo hộ dữ liệu hóa phẩm và sinh phẩm) nhưng các cam kết chặt chẽ này sẽ tác động không nhỏ tới quá trình hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện tại Việt Nam.
Việc nâng cao các tiêu chuẩn bảo hộ sẽ làm gia tăng khả năng xác lập quyền đồng thời mở rộng và kéo dài quyền của chủ sở hữu. Đành rằng việc bảo hộ chặt chẽ các sản phẩm sáng tạo trí tuệ sẽ tạo động lực thúc đẩy tư duy đổi mới sáng tạo, tuy nhiên đối với Việt Nam thì đa phần các sáng chế là do chủ thể nước ngoài đăng ký bảo hộ nên việc hưởng lợi sẽ thiên về các nhà đầu tư nước ngoài. Các chỉ dẫn thương mại sau khi được bảo hộ sâu và rộng hơn sẽ tạo ra một thị trường cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người tiêu dùng. Tuy nhiên, đối với chỉ dẫn địa lý của một quốc gia có nhiều sản phẩm nông nghiệp phong phú như Việt Nam, khi chủ sở hữu nhãn hiệu có được các ưu thế khi khai thác quyền sẽ vô tình tạo ra rào cản đối với chỉ dẫn có được từ yếu tố tự nhiên.
Hiệu lực quyền SHTT trong thực tế sẽ được đảm bảo hơn nếu các tiêu chuẩn thực thi quyền SHTT nâng cao bởi nó sẽ ngăn không cho các chủ thể khác xâm phạm, đồng thời xử lý xâm phạm quyền SHTT hiệu quả hơn. Tuy nhiên, đây sẽ là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam bởi nó sẽ làm gia tăng chi phí sinh hoạt của người dân và khó khăn trong việc thích ứng với các tiêu chuẩn thực thi mới. Bên cạnh đó, việc hình sự hóa hành vi xâm phạm sẽ gia tăng gánh nặng cho Nhà nước khi xử lý xâm phạm và sẽ làm phát sinh hậu quả về mặt xã hội khi các hành vi xâm phạm khác thay bằng việc được xử lý bằng biện pháp dân sự thì lại hành chính hóa.
Từ những lý do nêu trên, Việt Nam cần có cách thức thực thi các cam kết về bảo hộ quyền SHTT theo Hiệp định CPTPP phù hợp với điều kiện và nhu cầu bảo hộ của một nước đang phát triển dựa trên việc Hiệp định CPTPP cho phép mỗi thành viên sẽ tự quyết định cách thức phù hợp trong phạm vi hệ thông pháp luật và tập quán của riêng mình [34].
4.1.4 Phương hướng nâng cao năng lực tổ chức thực hiện các cam kết bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và đẩy mạnh hợp tác quốc tế
Nhằm nâng cao năng lực tổ chức thực hiện các cam kết bảo hộ quyền SHTT theo Hiệp định CPTPP, Việt Nam cần tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây.
Thứ nhất, đối với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã cam kết gia nhập theo Hiệp định CPTPP, cần tập trung ra soát và đảm bảo đúng tiến độ gia nhập. Đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã gia nhập Hiệp ước về Quyền tác giả của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới; Hiệp ước về Biểu diễn và bản ghi âm của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới; Thoả ước La-hay về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp; và Hiệp ước Budapest về sự công nhận quốc tế đối với việc nộp lưu chủng vi sinh nhằm tiến hành các thủ tục về sáng chế. Hơn nữa, các Hiệp ước trên đều đã chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế nhận thức và sự hiểu biết về các Hiệp ước này vẫn còn hạn chế, đặc biệt là đối với các cơ quan chức năng liên quan cũng như các chủ thể quyền. Chính vì vậy, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phổ biến về nội dung, quy định của các điều ước này thông qua các lớp tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng hoặc phương tiện truyền thông đại chúng …
Thứ hai, cần tập trung nâng cao năng lực tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng và nhận thức của các cán bộ chuyên trách của hệ thống bảo hộ quyền SHTT. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm nâng cao nhận thức và ý thức của các chủ thể quyền và cán bộ tổ chức thực hiện các nghĩa vụ bảo hộ quyền SHTT theo Hiệp định CPTPP. Việc nâng cao năng lực nhận thức đối với công chức thuộc hệ thống các thiết chế bảo hộ quyền SHTT rất quan trọng, trong đó bao gồm các công chức thuộc cơ quan xác lập quyền như Cục SHTT, Cục bản quyền cũng như các công chức thực thi quyền SHTT tại khối các cơ quan hải quan, cơ quan thanh tra chuyên ngành, quản lý thị trường, cảnh sát kinh tế, ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính liên quan đến quyền SHTT cũng như Tòa án nhân dân các cấp. Đặc biệt, cần nâng cao nhận thức mới về quyền SHTT đối với các chủ thể quyền cũng như đối với các tổ chức đại diện SHTT để họ hỗ trợ hợp tác với chủ thể quyền trong việc bảo vệ quyền SHTT của mình. Đây là giải pháp nhằm giúp các chủ thể quyền tránh rơi vào thế bị động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ ba, tập trung hỗ trợ các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm với các nước phát triển trong lĩnh vực SHTT, đặc biệt là các thành viên của Hiệp định CPTPP. Các hoạt động hợp tác quốc tế về quyền SHTT được tổ chức rất bài bản và linh hoạt trong thời gian đại dịch Covid-19. Bên cạnh việc tham gia các Điều ước quốc tế nhằm thực hiện các cam kết theo Hiệp định CPTPP, Cục SHTT đã chủ động ký kết các thỏa thuận, triển khai dự án nhằm nâng cao năng lực về SHTT như “Thỏa thuận hợp tác về Môi trường sở hữu trí tuệ kiến tạo với WIPO” để hỗ trợ nâng cao năng lực về SHTT và đổi mới sáng tạo cho đội ngũ cán bộ của các viện nghiên cứu và trường đại học hay Dự án WIPO IPAS nhằm “Hiện đại hóa hệ quản trị đơn sở hữu công nghiệp của Cục Sở hữu trí tuệ” [26].
Cục SHTT cũng phối hợp với đối tác Canada để xây dựng, trình phê duyệt các đề xuất dự án Thực thi Hiệp định CTPPP trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ với Canada [22]. Các hoạt động trao đổi trực tuyến cấp cao được tổ chức với các cơ quan SHTT các nước Nhật Bản (JPO), Singapore (IPOS)…nhằm chia sẻ các biện pháp được triển khai để duy trì hoạt động quản lý nhà nước về SHTT trong tình trạng giãn cách xã hội đồng thời khẳng định cam kết duy trì quan hệ hợp tác với nội dung và hình thức phù hợp. Tuy nhiên, để đạt được yêu cầu theo cam kết về quyền SHTT trong Hiệp định CPTPP thì Việt Nam cần tổ chức và nâng cao năng lực của các thiết chế liên quan hơn nữa nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thành viên mà Việt Nam đã cam kết.
4.2 Giải pháp thực hiện các cam kết về quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
4.2.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu của Việt Nam và tương thích với các cam kết bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
4.2.1.1 Giải pháp hoàn thiện các quy định về xác lập và nội dung quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
Căn cứ các quy định trong chương 18 của Hiệp định CPTPP về tiêu chuẩn bảo hộ nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, quyền tác giả và quyền liên quan, Việt Nam đang thực hiện nghĩa vụ của mình bằng cách nội luật hóa những yêu cầu đó thông qua việc sửa đối bổ sung pháp luật hiện hành.
Bên cạnh đó, các quy định về thủ tục trong hoạt động xác lập và quản lý quyền của cơ quan nhà nước trong lĩnh vực SHTT cũng được nội luật hóa trong các văn bản hướng dẫn thi hành luật chuyên ngành liên quan.
Các tiêu chuẩn thực thi quyền SHTT bao gồm biện pháp và chế tài xử lý xâm phạm quyền đã và đang được nội luật hóa trong luật SHTT. Đối với chế tài áp dụng trong trường hợp xâm phạm quyền, cần nội luật hóa thông qua các văn bản liên quan như Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật Hình sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành. Nghĩa vụ mở rộng phạm vi áp dụng các biện pháp thực thi như biện pháp hình sự cũng cần được nội luật hóa trong pháp luật Việt Nam.
Luật SHTT sửa đổi năm 2022 được thông qua và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2023 [51] (trừ các điều khoản liên quan đến nhãn hiệu phi truyền thống có hiệu lực từ ngày 01 tháng 06 năm 2022) đã nội luật hóa các yêu cầu bảo hộ quyền SHTT theo Hiệp định CPTPP nhưng Việt Nam cũng cần ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các quy định chưa đủ cụ thể trong Luật 2022. Ngoài ra, như trên đã đề cập, có hơn 20 điều khoản thuộc chương 18 của Hiệp định CPTPP đang tạm dừng thực hiện nhưng không có nghĩa những yêu cầu này sẽ bị loại bỏ hoàn toàn đối với các quốc gia thành viên như Việt Nam. Vậy trong tương lai, Việt Nam vẫn cần ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của Luật sửa đổi năm 2022 cũng như thể chế hóa các quy định mà Việt Nam phải thực thi các nghĩa vụ hiện đang tạm dừng thực hiện. Chính vì vậy, kể cả sau khi Luật SHTT được sửa đổi năm 2022, Việt Nam vẫn cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật nhằm đáp ứng các cam kết của Hiêp định CPTPP cũng như nhu cầu nội tại của Việt Nam. Trong đó, những giải pháp cụ thể có thể liệt kê gồm các quy định dưới đây.
Một là, các quy định về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả trong môi trường Internet cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện [56]. Hiệp định CPTPP đã quy định rất rõ về các quy định bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan và trách nhiệm của các nhà cung cấp dịch vụ trung gian trong môi trường Internet (Internet Service Provider – “ISP”). Trong khi đó, pháp luật Việt Nam quy định còn tương đối sơ sài khi vấn đề này chỉ được điều chỉnh duy nhất tại Thông tư liên tịch số 07/2012/TTLTBTTTT- BVHTTDL ngày 19 tháng 6 năm 2012 của Bộ Thông tin và truyền thông, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian trong việc bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan trên môi trường mạng Internet và mạng viễn thông (Thông tư liên tịch số 07/2012) [69] và vẫn còn hiệu lực cho đến nay. Về nguyên tắc, việc quy định trách nhiệm của các ISP phải bảo đảm cân bằng giữa hai lợi ích: Một là, thúc đẩy sự phát triển các dịch vụ trung gian trực tuyến, và hai là, cho phép các chủ thể quyền đối phó một cách hiệu quả với hành vi xâm phạm bản quyền xảy ra trong môi trường Internet [34]. Chính vì vậy, các nước thành viên của Hiệp định CPTPP phải xây dựng pháp luật chặt chẽ, quy định rõ trách nhiệm của ISP đối với hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan của người sử dụng dịch vụ trung gian do mình cung cấp, mặt khác phải quy định rõ những “giới hạn an toàn” cho phép ISP được miễn trừ trách nhiệm [34].
Pháp luật Việt Nam hiện nay có quy định những trường hợp ISP phải chịu trách nhiệm nhưng đối với các giới hạn an toàn thì chưa. Bên cạnh đó, Thông tư số 07 chỉ quy định ISP phải gỡ bỏ và xoá nội dung vi phạm quyền tác giả, quyền liên quan, cắt, ngừng và tạm ngừng đường truyền Internet, đường truyền viễn thông khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu bằng văn bản, mà chưa quy định trách nhiệm gỡ bỏ nội dung vi phạm theo yêu cầu của chủ thể quyền, cũng như trách nhiệm bồi thường của người đã đưa ra yêu cầu gỡ bỏ hoặc cung cấp thông tin không đúng cho ISP [34]. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của ISP theo khoản 5 Điều 5 Thông tư liên tịch số 07/2012 chỉ thuần túy áp dụng trong trường hợp ISP là chủ thể trực tiếp thực hiện hành vi xâm phạm, mà chưa đặt ra trường hợp ISP là chủ thể gián tiếp đóng góp vào vi phạm. Trách nhiệm gián tiếp là nền tảng lý luận để buộc ISP phải chịu trách nhiệm đối với hành vi xâm phạm do người sử dụng thực hiện cho dù mức độ tham gia của ISP là hạn chế hoặc không đáng kể. Có như vậy hiệu quả thực thi quyền SHTT trong môi trường số mới được nâng cao Vì vậy, quy định hiện tại của Thông tư 07 cần được sửa đổi nhằm làm rõ trách nhiệm và giới hạn trách nhiệm của ISP trong việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan với nội dung phù hợp với quy định của Hiệp định CPTPP [56]. Ngoài ra, cần khuyến khích, hỗ trợ các tác giả chủ động áp dụng công nghệ để bảo vệ mình thay vì chỉ đơn thuần dựa vào pháp luật.
Hai là, pháp luật cần mở rộng phạm vi đối tượng được bảo hộ quyền SHTT. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ sẽ xuất hiện ngày càng nhiều các đối tượng SHTT mới cần được bảo hộ như những đối tượng phi truyền thống như âm thanh, mùi hương [34] thay vì chỉ bảo hộ đối với các đối tượng truyền thống [48]. Không chỉ Mỹ, các nước Châu Âu, hay thậm chí Trung Quốc cũng đã có những thay đổi về mặt pháp luật để bảo hộ những đối tượng phi truyền thống này. Ví dụ, Luật Nhãn hiệu Trung Quốc sửa đổi năm 2013 đã xóa bỏ điều kiện nhãn hiệu phải là dấu hiệu “nhìn thấy được” và bảo hộ đối với nhãn hiệu âm thanh [98].
Luật SHTT sửa đổi 2022 đã bảo hộ nhãn hiệu âm thanh. Cụ thể, Việt Nam đã sửa đổi khoản 1 điều 72 Luật SHTT rằng “dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ hoạ” đươc bảo hộ như nhãn hiệu, tuy nhiên sửa đổi này vẫn cần bổ sung nhằm phù hợp với thực tiễn pháp lý quốc tế bởi Mỹ hay Liên minh Châu Âu cho phép nhãn hiệu âm thanh có thể được mô tả qua lời văn, từ tượng thanh, nốt nhạc, khuông nhạc. Đồng thời, cần bổ sung quy định những trường hợp âm thanh không được bảo hộ do không đáp ứng được điều kiện khả năng phân biệt như các âm thanh thông thường hay âm thanh chỉ mang tính chức năng hoặc các âm thanh thuộc phạm vi bị loại trừ bảo hộ. Âm thanh thông thường có thể là tiếng cười, nói, tiếng chim hót, tiếng còi tàu,…Âm thanh mang tính chức năng là âm thanh được tạo ra bởi hoạt động bình thường của sản phẩm hoặc cần thiết cho mục đích sử dụng của sản phẩm hoặc dịch vụ. Cuối cùng, sửa đổi quy định đối với đơn đăng ký nhãn hiệu để phù hợp với nhãn hiệu âm thanh [81].
Theo quy định hiện nay của pháp luật Việt Nam, một nhãn hiệu được xác định là nổi tiếng khi xem xét số lượng quốc gia bảo hộ nhãn hiệu đó [51] và số lượng quốc gia công nhận nhãn hiệu là nổi tiếng [51]. Hiệp định CPTPP yêu cầu các nước không được lấy tiêu chí số lượng các quốc gia đã công nhận nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đã nằm trong danh mục nhãn hiệu nổi tiếng để quyết định việc có hay không bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng đó [34]. Tuy nhiên, luật SHTT 2022 không loại bỏ hai tiêu chí này mà chỉ sửa đổi câu mở đầu “Việc xem xét, đánh giá một nhãn hiệu là nổi tiếng được lựa chọn từ một số hoặc tất cả các tiêu chí sau đây:”. Sửa đổi này sẽ gây khó khăn cho các chủ thể bởi họ sẽ không nắm được trong trường hợp nào một số tiêu chí được áp dụng hoặc khi nào tất cả các tiêu chí được áp dụng khi xác định nhãn hiệu nổi tiếng. Vì vậy, Việt Nam cần loại bỏ hai tiêu chí này nhằm đáp ứng yêu cầu nội luật hoá của Hiệp định CPTPP. Đồng thời, cần có hướng dẫn chi tiết tại các văn bản dưới luật về phương pháp áp dụng các tiêu chí.
Đối với sáng chế, Việt Nam mới chỉ bảo hộ đối với sáng chế dạng sản phẩm và quy trình [51] trong khi Hiệp định CTTPP bảo hộ sáng chế dạng sử dụng tức là những giải pháp đã được biết đến nếu như chúng được sử dụng theo một cách mới hoặc là phương pháp mới của một sản phẩm đã được biết đến [34]. Vì vậy, Việt Nam cần phải mở rộng đối tượng được bảo hộ đối với sáng chế, vốn chưa được nội luật hoá trong luật SHTT 2022. Ngoài ra, đối với kiểu dáng công nghiệp Việt Nam cũng cần mở rộng phạm vi, đối tượng bảo hộ đối với kiểu dáng được chứa đựng trong một phần sản phẩm thay vì chỉ bảo hộ kiểu dáng tổng thể bên ngoài của sản phẩm [34] bởi đây là quy định của Hiệp định CPTPP nhưng chưa đưa vào luật SHTT 2022.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về quy trình thẩm định, xác lập quyền sở hữu công nghiệp để thích ứng với việc mở rộng phạm vi bảo hộ cho nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi, kiểu dáng công nghiệp của một phần sản phẩm, sáng chế dạng sử dụng… Những quy trình xác lập quyền phải đảm bảo tính hiệu quả, đơn giản, minh bạch, và tạo thuận lợi bên nộp đơn và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.
Bốn là, đối với việc sử dụng tài sản trí tuệ vào giao dịch bảo đảm, pháp luật về giao dịch bảo đảm cần quy định rõ hơn các loại tài sản trí tuệ có thể sử dụng làm tài sản bảo đảm. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp dễ dàng hơn khi tiếp cận các nguồn vốn đầu tư. Cùng với đó, Việt Nam cũng cần học hỏi kinh nghiệm từ các nước phát triển nhằm thúc đẩy hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản trí tuệ.
Năm là, cần hoàn thiện pháp luật theo hướng cân bằng giữa lợi ích việc bảo hộ quyền SHTT, cụ thể là đối với Dữ liệu bí mật hoặc Các dữ liệu khác liên quan đến dược phẩm và quyền tiếp cận thuốc của cộng đồng. Tại Tuyên bố Doha 2001 [76], tất cả các thành viên của WTO, bao gồm các quốc gia thành viên CPTPP [34] đã ghi nhận tầm quan trọng, sự cần thiết và phù hợp đạo đức của việc áp dụng linh hoạt các quy định của TRIPS nhằm bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Lạm dụng độc quyền sáng chế đối với dược phẩm đã vấp phải rất nhiều sự phản đối ngay từ những vòng đàm phán đầu tiên của Hiệp định TPP, và sau này là Hiệp định CPTPP khi nó trực tiếp ảnh hưởng đến quyền tiếp cận thuốc của cộng đồng, đặc biệt là tại các quốc gia nghèo, hoặc đang phát triển.
Trên cơ sở vận dụng linh hoạt các điều khoản tùy nghi của Hiệp định TRIPS, tinh thần của Tuyên bố Doha trên cơ sở phù hợp với các cam kết trong Hiệp định CPTPP, Việt Nam cần áp dụng một số biện pháp để bảo vệ sức khỏe cộng đồng và ngăn chặn việc lạm dụng độc quyền sáng chế đối với dược phẩm. Các quy định về chuyển giao quyền sử dụng sáng chế bắt buộc trong lĩnh vực dược phẩm cần được nới lỏng. Theo đó, Việt Nam có thể áp dụng linh hoạt điều 18.40 của Hiệp định CPTPP nhằm cho phép chuyển giao quyền sử dụng sáng chế trong lĩnh vực dược phẩm. Hiện nay, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng đã quy định cụ thể các căn cứ bắt buộc chuyển giao sáng chế như: áp dụng sáng chế vì mục đích công cộng, đảm bảo đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của xã hội; Chủ sở hữu sáng chế không thực hiện nghĩa vụ sử dụng sáng chế hoặc thực hiện hành vi phản cạnh tranh… Tuy nhiên, không phải lúc nào cơ quan có thẩm quyền cũng có đầy đủ căn cứ nhằm bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế. Đồng thời người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế dược phẩm theo quyết định bắt buộc khi thực hiện sản xuất cũng bị hạn chế rất nhiều về quy mô sản xuất và phạm vi sử dụng.
Để đáp ứng yêu cầu của xã hội đặc biệt trong bối cảnh dịch bệnh, việc nhập khẩu song song dược phẩm sẽ là một giải pháp và pháp luật hiện hành của Việt Nam đã cho phép việc nhập khẩu này trên cơ sở học thuyết cạn quyền đối với nhãn hiệu. Thực tế tại Việt Nam, đối với các loại thuốc nước ngoài, đặc biệt là các loại thuốc được sản xuất theo quyết định bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế, thường có giá thấp hơn so với thuốc được sản xuất theo sự cho phép của chủ sở hữu sáng chế, mặc dù đã bao gồm thuế nhập khẩu. Mặc dù cơ chế này đã được tạo điều kiện thông qua Luật sở hữu trí tuệ, tuy nhiên, việc cấp phép lưu hành, mức thuế áp dụng, hay cơ chế điều chỉnh giá thuốc…vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng nhiều tổ chức, doanh nghiệp không mấy mặn mà với chính sách nhập khẩu song song này. Vì vậy, Việt Nam cần tạo điều kiện thuận lợi thông qua các hành lang pháp lý nhằm cân bằng lợi ích trong bối cảnh bình thường với bối cảnh dịch bệnh khẩn cấp, đối với việc nhập khẩu song song các loại dược phẩm. Việt Nam cũng nên xem xét việc quy định hành vi lạm dụng quyền SHTT là một trong những hành vi phản cạnh tranh, đặc biệt đối với trường hợp độc quyền sử dụng sáng chế. Trong thực tế, việc độc quyền sử dụng sáng chế không những đem về các lợi ích kinh tế cho chủ sở hữu quyền mà còn rất nhiều đặc ân đi kèm.
Tuy nhiên, để cân bằng lợi ích giữa các chủ thể, pháp luật về SHTT vẫn trao cho chủ sở hữu quyền những độc quyền trong một thời gian nhất định. Thời hạn đó là chấp nhận được khi nó đã được nghiên cứu kỹ dựa trên cơ sở cân bằng lợi ích của công chúng và chủ sở hữu.
Cuối cùng, mặc dù Việt Nam đã nội luật hoá hầu hết các cam kết về quyền SHTT theo Hiệp định CPTPP thông qua việc sửa đổi, bổ sung luật SHTT 2022, tuy nhiên cần phải chi tiết hoá để các quy định đó mang tính khả thi. Cụ thể, Việt Nam cần nhanh chóng đưa ra các hướng dẫn chi tiết cho những quy định mới trong luật SHTT 2022 thông qua các văn bản dưới luật như Nghị định, Thông tư, Quyết định, hay văn bản hướng dẫn. Điều này sẽ tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc, có tính liên kết không những giúp chủ sở hữu quyền mà còn bao gồm các cơ quan chức năng thực hiện quyền SHTT. Chủ sở hữu quyền SHTT sẽ hiểu được quyền, nghĩa vụ, và lợi ích hợp pháp của mình, qua đó giúp họ chủ động hơn trong việc bảo hộ và khai thác quyền. Các cơ quan chức năng hoặc chuyên trách sẽ có đầy đủ cơ sở pháp lý trong quá trình bảo hộ quyền SHTT, tránh những trường hợp như chồng chéo trách nhiệm trong công tác quản lý, thực thi quyền SHTT hoặc chậm trễ trong việc giải quyết hồ sơ đăng ký bảo hộ.
4.2.1.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
Nhằm nâng cao năng lực thực thi quyền SHTT, Việt Nam cần tập trung chính vào các nhiệm vụ dưới đây.
Một là, đầu mối của cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính cần được tinh giảm [64]. Theo quy định hiện tại của pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật SHTT, Tòa án, Thanh tra chuyên ngành, Công an, Hải quan, Quản lý thị trường, Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT. Điều này cho thấy hệ thống cơ quan có thẩm quyền để xử phạt hành chính trong lĩnh vực SHTT hiện nay còn cồng kềnh, phức tạp, với nhiều đầu mối dễ gây nên sự chồng chéo khi thực hiện xử phạt.
Một trong số những ví dụ điển hình hiện nay đó là có trường hợp không phân biệt được trách nhiệm giữa nhiệm vụ theo chức năng thường xuyên (nhiệm vụ điều tra và xác minh của cơ quan công an) và thẩm quyền được trao thêm (thẩm quyền xử phạt hành chính). Cụ thể, khi có hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý quy định tại Điều 12 và 13 của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP thuộc thẩm quyền xử phạt của cả 04 cơ quan là Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ, Quản lý thị trường, Hải quan, và Công an [52]. Trong khi đó, đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHCN nêu tại Điều 14 của Nghị định số 99/2013/NĐ-CP thuộc thẩm quyền xử phạt của 03 cơ quan là Thanh tra Bộ Khoa học và Công nghệ, Quản lý thị trường, Hải quan [52].
Có thể thấy, sự chồng chéo về phạm vi, trách nhiệm, và thẩm quyền trong quy định của pháp luật đã gây ra sự lúng túng cho các cơ quan có thẩm quyền khi xử lý vi phạm. Ngoài những vấn đều nêu trên thì năng lực của các cơ quan thực thi hành chính cũng còn hạn chế. Nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật mới chỉ đáp ứng được một số nhiệm vụ cơ bản. Tại một số địa phương, cơ quan thực thi hành chính thậm chí còn chưa có lực lượng chuyên trách về SHTT. Vì vậy, khi phát sinh các tranh chấp hoặc các hành vi xâm phạm quyền SHTT, đội ngũ này vẫn phải phụ thuộc vào ý kiến giám định của tổ chức giám định hoặc ý kiến của cơ quan chuyên môn dẫn đến tình trạng rất nhiều vụ việc bị kéo dài thời gian xử lý, chất lượng giải quyết chưa cao.
Vì vậy, việc cấp thiết lúc này là phải sắp xếp lại bộ máy các cơ quan có thẩm quyền xử lý xâm phạm quyền SHTT bằng biện pháp hành chính theo hướng tinh giảm, thu gọn các đầu mối [58]. Cụ thể, phải thực hiện việc rà soát, đánh gia năng lực, hiệu quả của từng đơn vị chuyên trách để từ đó làm căn cứ xây dựng, thực hiện phương án sắp xếp, phân công lại trong bộ máy thực thi quyền SHTT [56]. Cần lưu ý rằng, việc thu gọn các đầu mối xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT phải thực hiện song song với việc phân định rõ phạm vi, chức năng, và thẩm quyền của mỗi cơ quan chuyên trách, tăng cường chất lượng hoạt động trên cơ sở thực hiện chuyên môn hóa về tổ chức và nhân sự trong các cơ quan này. Điều này không chỉ hướng đến việc thu gọn các đầu mối các cơ quan có thẩm quyền, tiết kiệm tài lực của Nhà nước mà còn cần tiếp cận vấn đề xuất phát từ bản chất dân sự của quyền SHTT, xóa bỏ tình trạng hành chính hóa các quan hệ dân sự về SHTT.
Bên cạnh việc sắp xếp lại thì việc thiết lập một cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin chuyên môn giữa các cơ quan bảo vệ quyền SHTT là cần thiết. Điều này nhằm tạo sự thống nhất, nhất quán trong nhận định và cách thức xử lý các vụ việc có cùng nội dung, bản chất vi phạm. Cuối cùng, các cơ quan bảo vệ quyền SHTT cũng cần công bố công khai các vụ việc được xử lý để qua đó rút kinh nghiệm trong hoạt động của mỗi cơ quan.
Hai là, nâng cao hiệu quả thực hiện các biện pháp kiểm soát biên giới đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất liên quan đến SHTT [56]. Cuối năm 2019, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan đã ban hành Chỉ thị số 7988/CT-TCHQ, Kế hoạch 441/KH-TCHQ chỉ đạo các đơn vị trong ngành triển khai thực hiện, nhằm tăng cường quản lý nhà nước về hải quan, chủ động phát hiện, ngăn chặn và xử lý hành vi gian lận, giả mạo xuất xứ, ghi nhãn hàng hóa không đúng quy định, xâm phạm quyền SHTT. Theo quy định hiện nay thì việc tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT được áp dụng đối với tất cả các đối tượng quyền SHTT. Tuy nhiên, quy định này thậm chí còn cao hơn tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS hay thậm chí là Hiệp định CPTPP.
Đối với Hiệp định TRIPS, các quốc gia thành viên được yêu cầu áp dụng biện pháp tạm dừng làm thủ tục thông quan đối với hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và sao chép lậu quyền tác giả. Thậm chí, Hiệp định CPTPP cũng chỉ yêu cầu mở rộng biện pháp này đối với hàng hóa mang nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn. Thực tế nếu áp dụng các biện pháp này đối với các đối tượng như sáng chế, thiết kế bố trí mạch tích hợp, bí mật thương mại… là không khả thi và thiếu hiệu quả vì việc xác định các yếu tố xâm phạm đối với những đối tượng nêu trên là không dễ. Điều này làm gián đoạn quá trình lưu thông hàng hóa tại cửa khẩu, thậm chí một vài cơ quan hải quan tại cửa khẩu không đủ điều kiện để thực hiện. Hơn nữa, quy định này sẽ tạo ra một loạt các thủ tục hành chính, có khả năng bị lạm dụng, trong khi mục tiêu của Hiệp định CPTPP là tinh gọn và đơn giản hóa chính các thủ tục này. Việc ngăn chặn hàng hóa nghi ngờ vi phạm quyền SHTT vẫn có thể thực hiện được sau khi thông quan vì cơ quan chức năng bảo vệ quyền SHTT vẫn còn đủ thời gian và điều kiện để xác định các hành vi xâm phạm [56].
Có thể thấy, quy định hiện nay vô hình trung đã tạo ra gánh nặng không cần thiết cho cơ quan hải quan trong việc kiểm tra, giám sát hàng hoá tại biên giới. Hơn nữa đối với các hạn chế của hải quan về mặt thiết bị, phương tiện kỹ thuật, và nguồn nhân lực rất dễ dẫn đến tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho doanh nghiệp, ảnh hưởng chung đến việc lưu thông hàng hóa. Vì vậy, để tăng cường hiệu quả của các biện pháp kiểm soát biên giới đối với hàng hóa xuất nhập khẩu liên quan đến SHTT, cần phải sửa đổi quy định của Luật SHTT theo hướng thu hẹp phạm vi và đối tượng hàng hoá về SHTT bị kiểm soát tại biên giới [56]. Kiểm soát biên giới chỉ nên áp dụng đối với hàng hoá bị nghi ngờ giả mạo nhãn hiệu, hàng hóa mang nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn, hoặc hàng hóa được sao chép lậu quyền tác giả. Tổng cục Hải quan có thể trực tiếp tham khảo, lấy ý kiến của các doanh nghiệp thường xuyên bị thiệt hại do hàng hóa bị giả mạo nhãn hiệu và sao chép lậu quyền tác giả để xây dựng danh sách hàng hóa phải lưu ý kiểm soát trong quá trình làm thủ tục hải quan.
Số liệu và danh sách hàng hóa thường xuyên bị xâm phạm cũng có thể được lấy từ chính các vụ việc do Tổng cục Hải quan hoặc cơ quan chức năng các tỉnh xử lý. Ví dụ, Cục Kiểm tra sau thông quan sẽ trực tiếp kiểm tra sau thông quan tại trụ sở người khai hải quan để làm rõ hành vi gian lận, giả mạo xuất xứ, ghi nhãn hàng hóa không đúng quy định, xâm phạm quyền SHTT, chuyển tải bất hợp pháp và xử lý theo quy định đối với các nhóm mặt hàng. Các nhóm mặt hàng sẽ được tập trung kiểm tra theo chuyên đề bao gồm: nhóm mặt hàng thép (khớp nối bằng thép; bánh xe thép; thép tiền chế; ống đồng); nhóm mặt hàng điện tử (mạch điện; máy xử lý dữ liệu; sản phẩm điện tử và linh kiện); nhóm máy móc, thiết bị (máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng; máy hút bụi; máy cắt cỏ); nhóm mặt hàng giày dép và túi xách [37]. Ngoài ra, Vụ Thanh tra - Kiểm tra của Tổng cục Hải quan có trách nhiệm điều tra, xác minh đối với các trường hợp có dấu hiệu rủi ro cao về gian lận, giả mạo xuất xứ, ghi nhãn không đúng quy định, chuyển tải bất hợp pháp. Theo đó, Vụ sẽ tập trung xử lý các nhóm mặt hàng bao gồm: Nhóm mặt hàng điện tử, mạch điện; máy xử lý dữ liệu; sản phẩm điện tử và linh kiện; nhóm mặt hàng xe đạp, xe đạp điện và linh kiện; pin năng lượng mặt trời; bao và túi nhựa; ghim đóng thùng; vỏ bình ga [55].
Bên cạnh việc thu gọn đối tượng hàng hóa kiểm soát tại biên giới thì Luật SHTT đã bổ sung thẩm quyền cho phép Hải quan được chủ động tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu bị nghi ngờ giả mạo nhãn hiệu, hàng hóa mang nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn, hoặc hàng hóa được sao chép lậu quyền tác giả để đáp ứng cam kết của Hiệp định CPTPP [56]. Quy định này cho phép Hải quan chủ động trong việc xử lý hành vi xâm phạm, tránh trường hợp bỏ lọt tội phạm, mất thời gian, chi phí trong khi chờ đợi yêu cầu từ chủ thể quyền.
Tuy nhiên, quy định trên cũng cần được sửa đổi và hướng dẫn chi tiết theo Luật Hải quan để bảo đảm tính khả thi trong công tác kiểm soát biên giới. Bên cạnh đó, Tổng cục Hải quan cũng cần nâng cao năng lực chuyên môn của cán bộ hải quan thông qua các buổi tập huấn, đào tạo nghiệp vụ, bồi dưỡng chuyên môn trong việc phân loại, nhận biết hàng hóa có khả năng hoặc nghi ngờ giả mạo nhãn hiệu, hàng hóa mang nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn, hoặc hàng hóa được sao chép lậu quyền tác giả. Chỉ khi năng lực của cán bộ cơ quan hải quan được nâng cao, việc bổ sung thẩm quyền chủ động tạm dừng làm thủ tục hải quan mới phát huy hiệu quả trong việc kiểm soát hàng hóa nghi ngờ giả mạo nhãn hiệu, hàng hóa mang nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn, hoặc hàng hóa được sao chép lậu quyền tác giả.
Ba là, quy định các chế tài xử phạt theo hướng đủ mạnh, đảm bảo tính răn đe, và ngăn ngừa các hành vi tái phạm trong tương lai. Tuy nhiên, các chế tài này vẫn phải đảm bảo việc tránh lạm dụng các thủ tục hành chính, gây phiền hà đối với hoạt động thương mại. Cần nghiên cứu bổ sung vào Luật SHTT quy định về bồi thường thiệt hại trong những trường hợp khó xác định thiệt hại với mức bồi thường thiệt hại theo luật định đủ lớn để bảo đảm tính răn đe. Ngoài ra, đối với các hành vi cố ý xâm phạm thì tòa án phải có thẩm quyền buộc bên xâm phạm phải trả một khoản tiền bồi thường bổ sung, với tính chất trừng phạt, đặc biệt là các vụ kiện về hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan, giả mạo nhãn hiệu, và xâm phạm quyền đối với sáng chế [56]. Nhằm đáp ứng yêu cầu trên, Việt Nam phải sửa đổi Điều 205 luật SHTT vì điều này chỉ quy định một cách chung chung về mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Tòa án ấn định nhưng không quá 500 triệu đồng [48], và không cho phép tòa án tăng mức bồi thường đối với hành vi cố ý xâm phạm. Đối với chế tài hình sự, cần từng bước hình sự hóa thêm một số hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đã được liệt kê theo yêu cầu của Hiệp định CPTPP [34]. Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 chỉ có 2 điều quy định [10] về Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với rất ít loại hành vi.
Theo: Nguyễn Khắc Chinh
Link luận văn:
https://docs.google.com/document/d/1l51iHjaYdrdeKCzZAwzxe-GKl573QTKe/edit