YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP N NG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ TRONG PHÒNG, CHỐNG TỘI MUA BÁN NGƯỜI, TỘI MUA BÁN TRẺ EM
1.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự trong phòng, chống tội mua bán người, tội mua bán trẻ em
1.1.1. Yêu cầu đảm bảo sự minh bạch, rõ ràng trong các quy định của Bộ luật hình sự và sự thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật
Nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của sự minh bạch, rõ ràng trong các quy định pháp luật cũng như sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đã xác định rõ tại Nghị quyết số 48/2005/NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 là xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân133. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định “hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, đảm bảo kỷ cương xã hội” là định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 và là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII134. Rõ ràng, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và coi pháp luật là công cụ hữu hiệu để thực hiện vai trò quyền lực của mình, hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện trên lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật. Trong hệ thống pháp luật thì pháp luật hình sự, mà cụ thể là BLHS được coi là một trong những bộ luật “rường cột” để bảo đảm an ninh, chủ quyền quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Chính vì thế, sự minh bạch, rõ ràng trong mỗi quy định của BLHS cũng như tính đồng bộ, thống nhất của BLHS với các đạo luật khác trong hệ thống pháp luật có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS, trong đó có quy định về tội mua bán người, tội mua bán trẻ em.
Tuy nhiên, như đã phân tích tại tiểu mục 2.2.5 mục 2.2 Chương 2 Luận án thì quy định về tội mua bán người tại Điều 150 và tội mua bán người dưới 16 tuổi tại Điều 151 BLHS vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập nhất định, trong đó có những tồn tại là do nội dung quy định của điều luật chưa thực sự minh bạch, rõ ràng dẫn tới khó khăn trong việc xác định chính xác tội danh (giữa tội danh mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi với tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người tại Điều 154; giữa tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi với tội giết người tại Điều 123) hoặc bất cập trong việc phân hóa trách nhiệm hình sự của người phạm tội khi thực hiện cùng loại hành vi tương tự nhưng có trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội danh (tội mua bán người/tội mua bán người dưới 16 tuổi hoặc tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người), có trường hợp lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự về cả hai tội danh (tội mua bán người/tội mua bán người dưới 16 tuổi và tội hiếp dâm/tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi; hoặc tội mua bán người/tội mua bán người dưới 16 tuổi và tội cưỡng bức lao động). Bên cạnh đó, quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS cũng chưa đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, như với pháp luật về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 hoặc pháp luật về nuôi con nuôi. Những tồn tại, hạn chế này của Điều 150 và Điều 151 BLHS sẽ tác động và gây ra một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng vào thực tiễn đấu tranh với tội mua bán người, tội mua bán trẻ em trong tình hình mới. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả đấu tranh với các loại tội phạm, trong đó có tội mua bán người và tội mua bán trẻ em.
1.1.2. Yêu cầu đảm bảo quyền con người
Quyền con người, quyền công dân đã được nhà nước ta ghi nhận ngay tại bản Hiến pháp đầu tiên của nước CHXHCN Việt Nam năm 1946 và tiếp tục được khẳng định tại các bản Hiến pháp tiếp theo vào năm 1959, 1980 và 1992. Tuy nhiên, đến bản Hiến pháp năm 2013 thì các quy định về quyền con người đã có những sửa đổi, bổ sung và phát triển quan trọng. Nếu như trong Hiến pháp năm 1992 chưa có quy định riêng về quyền con người, mà các quyền con người về chính trị, dân sự và kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện trong các quyền công dân quy định tại chương V, thì bản Hiến pháp năm 2013 đã có sự phân biệt giữa quyền con người và quyền công dân và được quy định tại Chương 2, ngay sau Chương quy định về Chế độ chính trị. Cách quy định này như một lời tuyên bố đầy đủ nhất, rõ ràng nhất, thể hiện quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta là quyền con người, quyền công dân chính là giá trị phổ cập của nhân loại, là quyền tự nhiên vốn có của con người cần phải được coi trọng và ưu tiên bảo vệ. Với tư cách là quyền tự nhiên vốn có của con người, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định, ở nước CHXHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật135.
Có thể thấy, Hiến pháp năm 2013 đã quy định đầy đủ về các quyền con người, quyền công dân liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống, bao gồm các nhóm quyền cơ bản: (1) quyền sống; (2) quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; (3) quyền bình đẳng; (4) các quyền tự do dân chủ, (5) các quyền trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình; (6) các quyền về kinh tế, văn hoá, xã hội, lao động, (7) các quyền liên quan đến trẻ em. Đặc biệt, trong đó có những quyền lần đầu tiên được ghi nhận trực tiếp trong Hiến pháp như: quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; quyền tiếp cận thông tin; quyền được sống trong môi trường trong lành; quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác cũng như quyền quyết định việc cho phép tiến hành thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể mình. Đồng thời, lần đầu tiên, một bản Hiến pháp đã khẳng định rõ, việc hạn chế quyền con người, quyền công dân chỉ được quy định bằng luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội và sức khỏe của cộng đồng.
Với tư cách là công cụ sắc bén, hữu hiệu nhất trong việc bảo vệ chế độ, bảo vệ trật tự an toàn xã hội và bảo vệ quyền con người, BLHS năm 2015 đã quán triệt sâu sắc những yêu cầu mới mà Hiến pháp năm 2013 đặt ra về quyền con người và đã có những quy định phù hợp để đáp ứng những yêu cầu đó. Ở góc độ chung nhất, có thể đánh giá rằng, nội dung Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi đã có những quy định cụ thể, rõ ràng để bảo vệ quyền con người, quyền công dân bằng các quy định cụ thể về cấu thành tội phạm cũng như các tình tiết định khung tăng nặng và hình phạt đối với hai tội danh này. Tuy nhiên, so với tinh thần và nội dung mới của Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người, quyền công dân thì quy định của BLHS năm 2015 về hai tội danh này vẫn cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân thông qua những quy định có tính minh bạch hơn, rõ ràng hơn, phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế và đáp ứng thực tiễn đấu tranh với loại tội phạm này, đảm bảo sự thống nhất, nhất quán trong áp dụng pháp luật, tránh tối đa tình trạng áp dụng pháp luật tùy tiện, đặc biệt trong vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt.
1.1.3. Yêu cầu cải cách tư pháp
Ngày 12/03/2014, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 92-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó khẳng định “Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 về cơ bản là đúng đắn. Các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương cần phát huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, vướng mắc, tiếp tục thực hiện mục tiêu, quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX vẫn còn phù hợp”.
Theo Nghị quyết số 49/2005/NQ-TW thì mục tiêu của cải cách tư pháp là để “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Để thực hiện mục tiêu này, Nghị quyết số 49/2005/NQ-TW đã đề ra các nhiệm vụ cải cách tư pháp, trong đó có nhiệm vụ “hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và nhiệm vụ “tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp”.
Có thể thấy rằng, BLHS năm 2015 đã thể hiện được các quan điểm của Đảng về chính sách hình sự đã được xác định trong Nghị quyết 49/2005/NQ-TW như đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm; hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm; khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm; quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế thông qua quy định tại các điều luật cụ thể. Đặc biệt, với những quy định tại Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi, BLHS năm 2015 đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng là “cải cách tư pháp phải bảo đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; cải cách tư pháp phải kế thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa Việt Nam: tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội trong tương lai”.
Tuy nhiên, với nhiệm vụ về tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp mà Nghị quyết số 49/2005/NQ-TW đề ra, như “tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc tế mà Nhà nước ta đã tham gia; tiếp tục ký kết hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền thống; tăng cường sự phối hợp chung trong hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có yếu tố quốc tế và khủng bố quốc tế với các tổ chức INTERPOL, ASEANPOL,… với cảnh sát các nước láng giềng và khu vực, với cảnh sát một số quốc gia có nhiều công dân Việt Nam sinh sống, lao động, học tập” thì chính sách, pháp luật về hình sự, trong đó có quy định về tội mua bán người, tội mua bán trẻ em cần tiếp tục được nghiên cứu, hoàn thiện. Bởi lẽ, với những chuyển biến mới về tình hình kinh tế - xã hội khi Việt Nam đang trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dù kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển ổn định và bền vững, thoát khỏi tình trạng nước kém phát triển và bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, nhưng so với các quốc gia trong khu vực thì khoảng cách phát triển kinh tế - xã hội vẫn còn xa. Bên cạnh đó, mặc dù vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao trong nhiều năm qua, nhưng quá trình hội nhập quốc tế cũng đặt ra nhiều thách thức, đặc biệt là sự tương thích của hệ thống pháp luật Việt nam với pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của các nước trong khu vực và trên thế giới. Thêm vào đó, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng đang tạo ra những thay đổi mạnh mẽ trong đời sống kinh tế xã hội, làm nảy sinh những vấn đề mới trong công tác cải cách tư pháp nói chung và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói riêng. Chính vì vậy, hoạt động cải cách tư pháp cần được tiếp tục đẩy mạnh để thích ứng tốt hơn với điều kiện mới, chúng ta cần hoàn thiện thể chế, pháp luật theo chiều sâu, đề cao việc kiểm soát, nâng cao chất lượng văn bản pháp luật, gỡ bỏ những mâu thuẫn, chồng chéo để tạo ra hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định và dễ tiếp cận. Đối với pháp luật hình sự cần tiếp tục được hoàn thiện nhằm tăng cường bảo đảm, bảo vệ quyền con người, bảo đảm sự tích cực, chủ động hội nhập quốc tế trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, phù hợp với xu hướng chung của các nước trong khu vực và trên thế giới về đấu tranh với các tội phạm có tính chất xuyên quốc gia, trong đó có tội mua bán người, tội mua bán trẻ em.
1.1.4. Yêu cầu phòng, chống tội phạm
1.1.4.1. Tình hình tội mua bán người, tội mua bán trẻ em trên thế giới
Theo Báo cáo toàn cầu về nạn buôn bán người năm 2018 của Cơ quan LHQ về chống ma tuý và tội phạm (UNODC) trên cơ sở thu thập thông tin từ 142 quốc gia với hơn 94% dân số thế giới từ năm 2003 đến năm 2016 thì buôn bán người có quy mô toàn cầu, nó ảnh hưởng đến mọi người thuộc các chủng tộc, tôn giáo, tầng lớp xã hội và giáo dục. Ở tất cả các các quốc gia, số nạn nhân bị mua bán người được phát hiện đều tăng qua từng năm. Tính riêng năm 2016, số nạn nhân bị mua bán được phát hiện tăng thêm khoảng 40% so với năm 2011137. Còn theo Báo cáo của Tổ chức Lao động quốc tế thì trên toàn cầu đến năm 2005 có 12,3 triệu nạn nhân bị buôn bán, đến năm 2012 số nạn nhân bị buôn bán là 21 triệu người và trong năm 2016 thì con số này là 40,3 triệu, một phần tư trong số này là trẻ em dưới 18 tuổi138. Khu vực có số nạn nhân bị buôn bán người lớn nhất là khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, tiếp theo là Châu Phi và Châu Mỹ La tinh139. Theo UNODC thì việc tăng cường biện pháp phòng, chống mua bán người ở các quốc gia đã làm gia tăng số nạn nhân bị mua bán người được phát hiện và số người phạm tội bị kết án. Nạn nhân bị mua bán là phụ nữ và trẻ em gái có xung hướng tiếp tục tăng và có thể chiếm tới hơn 70% số nạn nhân bị mua bán, có tới 50% nạn nhân bị bóc lột tình dục, 38% nạn nhân bị bóc lột lao động và 12% nạn nhân được phát hiện bị các hình thức bóc lột khác như lấy nội tạng cơ thể, bắt làm ăn xin 140.
Những vấn đề được cho là nguyên nhân đã, đang và sẽ tiếp tục làm gia tăng tình trạng buôn bán người ở tất cả các khu vực, các quốc gia trên thế giới là:
- Chiến tranh, xung đột và bạo lực: Một số khu vực và quốc gia như Trung Phi, Nam Sudan, Syria, Libya, Iraq, Venezuela xảy ra một số cuộc khủng hoảng đã dẫn tới việc hàng triệu người dân phải rời bỏ nhà ồ ạt như người tị nạn hoặc người di cư di để đi tìm cuộc sống tốt hơn. Sự dịch chuyển với quy mô lớn như vậy làm gia tăng số người rơi vào tình trạng dễ bị tổn thương về tình cảm, về tài chính khi họ bị tước mọi sự hỗ trợ về tài chính hoặc sinh kế để bảo vệ bản thân và gia đình họ. Điều này làm gia tăng tình hình buôn bán người.
- Buôn bán người tạo ra nguồn lợi nhuận khổng lồ: Nguồn lợi nhuận khổng lồ từ việc buôn bán người để khai thác tình dục đã thúc đẩy sự gia tăng của nạn buôn bán người. Theo Tổ chức Lao động thế giới thì mỗi năm những kẻ buôn bán người thu về lợi nhuận là 150 tỷ đô la Mỹ, trong đó có hai phần ba đến từ việc khai thác tình dục nạn nhân bị mua bán, phần còn lại đến từ việc cưỡng bức lao động, lấy nội tạng cơ thể và một số hình thức bóc lột khác.
- Tác động của biến đổi khí hậu và khủng hoảng môi trường: Người dân ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa trong một quốc gia hoặc người dân vùng khó khăn ở các khu vực khác nhau trên thế giới từ bỏ nghề làm nông truyền thống và di cư đến các thành phố lớn tìm kiếm phương cách sinh tồn. Tại môi trường sống mới, họ dễ bị tổn thương và dễ dàng rơi vào tay của những kẻ buôn bán người với những lời hứa hẹn về cơ hội việc làm, tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn.
- Nhu cầu lao động giá rẻ: Một số lĩnh vực kinh tế như nhà hàng, lao động trong nước, nông nghiệp thường đòi hỏi lực lượng lao động giá rẻ. Điều này tác động không nhỏ đến người lao động khi họ được hứa hẹn tìm kiếm cơ hội việc làm với mức công lao động cao hơn. Nhiều người lao động rời bỏ công việc mình đang làm, rời bỏ nhà, bỏ quê hương, đất nước để tìm kiếm cơ hội việc làm tốt hơn và chính điều này lại tạo cơ hội cho những kẻ buôn bán người.
- Dịch bệnh trên khắp thế giới: năm 2020 là năm dịch bệnh Covid-19 đã bùng phát ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Dịch bệnh dẫn tới tình trạng gia tăng mạnh mẽ tỷ lệ thất nghiệp và là một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng buôn bán người gia tăng, đặc biệt ở những quốc gia mà tình trạng thất nghiệp kéo dài và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng. Những người thất nghiệp ở các quốc gia này sẵn sàng tìm kiếm cơ hội việc làm ở những quốc gia khác và điều này dẫn tới khả năng trở thành nạn nhân bị buôn bán người dễ dàng hơn.
1.1.4.2. Tình hình tội mua bán người, tội mua bán trẻ em tại Việt Nam
Theo nhận định của Bộ Công an tại Báo cáo về tình hình thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán người giai đoạn 2012 -2017144 thì mua bán người, mua bán trẻ em là loại tội phạm có độ ẩn cao, tồn tại dưới nhiều dạng nguy cơ và có khả năng xảy ra trên nhiều địa bàn khác nhau như khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, vùng đồng bào dân tộc ít người. Loại tội phạm này xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội, như lĩnh vực cho nhận con nuôi, kết hôn có yếu tố nước ngoài, xuất khẩu lao động, di cư (hợp pháp hoặc bất hợp pháp) ra nước ngoài làm thuê, du lịch, chữa bệnh, thăm thân, du học… với nhiều mục đích khác nhau như làm mại dâm; bóc lột sức lao động tại các công trường, khu khai thác than, trên các thuyền đánh bắt cá tại các vùng biển; chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể; ép buộc mang thai thuê…
Tại Phiên giải trình về “tình hình thực hiện pháp luật về phòng, chống mua bán người” do Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức ngày 28/9/2018, lãnh đạo Uỷ ban Tư pháp của Quốc hội đã đưa ra nhận định trên cơ sở tổng hợp các Báo cáo của Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao , Bộ Quốc phòng, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và kết quả khảo sát tại một số địa phương như Lào Cai, Lạng Sơn, An Giang, Cần Thơ, Hà Giang, Lai Châu và Tây Ninh. Theo đó, tội mua bán người, tội mua bán trẻ em đã phát hiện ở cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Việt Nam không chỉ là nơi xuất phát của tội phạm nguồn mà còn là địa bàn trung chuyển mua bán người từ một số quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực đi nước thứ ba. Mua bán người ở Việt Nam xảy ra dưới hai dạng là mua bán người trong nước và mua bán người ra nước ngoài như đã phân tích tại tiểu mục 1.2.2 mục 1.2 Chương 1 Luận án về cơ sở thực tiễn của việc quy định tội mua bán người và tội mua bán trẻ em/mua bán người dưới 16 tuổi.
Theo đánh giá của các cơ quan tiến hành tố tụng thì tình hình tội mua bán người, tội mua bán trẻ em vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp, đa dạng với quy mô ngày càng lớn và thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Nhiều vụ án có quy mô lớn, có sự câu kết chặt chẽ giữa người mua và người bán, môi giới, dẫn dắt và thậm chí hình thành các đường dây tội phạm liên tỉnh hoặc xuyên quốc gia. Đã xuất hiện nhiều trường hợp phạm tội mua bán người thông qua di cư trái phép ra nước ngoài với đa dạng các thủ đoạn. Bên cạnh đó, cũng đã xuất hiện việc mua bán người nước ngoài trung chuyển qua Việt Nam do người nước ngoài chủ mưu, cầm đầu. Tình trạng mua bán trẻ em hoặc tìm đến phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, mang thai ngoài ý muốn để mua trẻ sơ sinh xảy ra nhiều ở các tỉnh phía Bắc151.
Qua báo cáo của các Bộ, ngành về tình hình thực hiện pháp luật phòng, chống mua bán người, đặc biệt là Báo cáo của các cơ quan Công an, Toà án, Kiểm sát thì thấy rằng, công tác điều tra, truy tố, xét xử tội mua bán người, tội mua bán trẻ em trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng kể, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường sống an toàn, lành mạnh và ổn định cho mọi người dân và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Tuy nhiên, với nguồn lợi nhuận khổng lồ mà loại tội phạm này mang lại cho những kẻ phạm tội, đặc biệt là lợi nhuận từ ngành công nghiệp tình dục, cưỡng bức lao động hoặc lấy bộ phận cơ thể người thì tình trạng mua bán người, mua bán trẻ em còn có những diễn biến phức tạp với quy mô ngày càng lớn hơn, tính chất, mức độ sẽ ngày càng tinh vi, xảo quyệt và chặt chẽ hơn. Điều này xuất phát từ một số lý do sau:
Một là, nguồn thu bất hợp pháp mà loại tội phạm này mang lại là rất lớn, bởi mục tiêu của việc mua bán người là để phục vụ cho hoạt động của ngành công nghiệp tình dục, cưỡng bức lao động hoặc lấy bộ phận cơ thể hay vì những mục đích vô nhân đạo khác. Theo nhận định từ Bộ Công an, mỗi năm các tổ chức tội mua bán người thu về khoảng 150 tỷ đô la Mỹ.
Hai là, phần lớn người thực hiện tội mua bán người, tội mua bán trẻ em là đưa nạn nhân ra nước ngoài, được thực hiện theo đường dây có tổ chức xuyên quốc gia, có sự chỉ đạo, điều hành chặt chẽ với những tính toán tỉ mỉ, chi tiết và phân chia công đoạn thực hiện cho từng đối tượng. Hơn nữa, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, đặc biệt là sự bùng nổ của các mạng xã hội, điện thoại thông minh cũng như sự hội nhập sâu rộng giữa các quốc gia thì việc điều hành, chỉ đạo hay thậm chí là thực hiện hành vi mua bán người, mua bán trẻ em sẽ trở nên dễ dàng hơn và khó bị phát hiện hơn.
Ba là, Việt Nam có khu vực biên giới đất liền trải dài 25 tỉnh với trên 4.000 km, tiếp giáp với ba nước là Lào, Campuchia và Trung Quốc với nhiều đường mòn, đường tiểu ngạch, lối tắt qua lại, nhất là biên giới Việt Nam - Trung Quốc mang đậm nét về mối quan hệ dân tộc, thân tộc lâu đời, cùng với những đặc điểm, yếu tố đặc thù về địa lý, tự nhiên, kinh tế - xã hội là núi liền núi, sông liền sông rất thuận lợi cho nhân dân hai bên biên giới qua lại giao lưu, buôn bán, thăm thân. Bên cạnh đó, việc cưới vợ ở Trung Quốc còn nhiều hủ tục, chính sách dân số của Trung Quốc dẫn tới tình trạng mất cân bằng giới tính, tỷ lệ chênh lệch nam nhiều hơn nữ rất cao, nhất là số nam giới đang trong độ tuổi kết hôn không có khả năng lấy vợ trong nước.
Bốn là, tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, sự phân hoá giàu nghèo, chênh lệch phát triển giữa thành thị và nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Tình trạng thiếu việc làm cộng với trình độ dân trí thấp, thiếu hiểu biết của một bộ phận người dân, nhất là phụ nữ và trẻ em sẽ là môi trường lý tưởng cho tội mua bán người và tội mua bán trẻ em.
Năm là, Việt Nam tiếp tục tăng cường mở cửa hội nhập quốc tế và khu vực toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, nước ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức về vấn đề tội phạm có tính chất quốc tế. Sự gia tăng của các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các tội phạm do người nước ngoài thực hiện, trong đó có tội mua bán người, mua bán trẻ em trong những năm qua đã và đang đặt ra những thách thức rất lớn cho các cơ quan chức năng của Việt Nam.
1.1.5. Yêu cầu tăng cường hợp tác quốc tế
Mua bán người và đưa người di cư trái phép xảy ra ở tất cả các quốc gia trên thế giới, số lượng vụ việc, quy mô ngày càng gia tăng và đã trở thành một vấn nạn mang tính toàn cầu, bất chấp những biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa cũng như những nỗ lực của cộng đồng quốc tế cũng như của từng quốc gia đã và đang thực hiện. Cùng với mua bán người, hoạt động đưa người di cư trái phép là hoạt động dễ bị các đối tượng mua bán người lợi dụng để biến các nạn nhân của di cư trái phép thành nạn nhân của mua bán người. Trong bối cảnh an ninh quốc gia, mua bán người là một trong những vấn đề ngày càng trở nên quan trọng đối với các nước trên thế giới, mà Việt Nam cũng phải đối mặt với hàng loạt những thách thức cụ thể liên quan đến những vấn đề này do vừa là nước nguồn, vừa là nước quá cảnh nên vấn đề ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Theo báo cáo của Bộ Công an, tại Việt Nam tội mua bán người, mua bán trẻ em đã phát hiện xảy ra ở cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước dưới hai dạng là mua bán người trong nước, chiếm khoảng 15% số vụ việc và mua bán người ra nước ngoài, chiếm khoảng 85% số vụ việc, trong đó trên 75% là mua bán sang Trung Quốc, 11% mua bán sang Lào và Campuchia, còn lại là mua bán sang một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác như Thái Lan, Nga, Malaysia…153. Do tính chất "xuyên quốc gia" của loại tội phạm này mà việc đấu tranh phòng, chống mua bán người, mua bán trẻ em đòi hỏi phải có sự hợp tác song phương và đa phương tích cực giữa các quốc gia. Chính vì vậy, nhiều văn kiện quốc tế đã ra đời, mà đặc biệt là NĐT về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em là một nỗ lực lớn của cộng đồng quốc tế, tạo ra khung pháp lý chung để phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với loại tội phạm này. Tuy nhiên, để đấu tranh thật hiệu quả với tội phạm buôn bán người đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ và hiệu quả giữa các quốc gia, mà một trong những yếu tố bảo đảm thuận lợi cho điều này chính là sự hài hòa, tương thích giữa pháp luật quốc gia và quốc tế.
Một trong những điều kiện tiên quyết để bảo đảm hiệu quả hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống mua bán người chính là sự tương thích của pháp luật quốc gia, trong đó có pháp luật hình sự với các chuẩn mực quốc tế có liên quan. Tuy nhiên, như phân tích, đánh giá tại tiết 2.2.5.1 tiểu mục 2.2.5 mục 2.2 Chương 2 Luận án này thì giữa quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi vẫn chưa hoàn toàn hài hòa, tương thích và phù hợp với yêu cầu của pháp luật quốc tế, mà cụ thể là của một số văn kiện quốc tế như Công ước TOC, NĐT về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, NĐT không bắt buộc về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em, Công ước ASEAN về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, ….Điều này sẽ dẫn tới một số khó khăn, vướng mắc nhất định khi hợp tác đấu tranh với tội phạm này, đặc biệt là khi quốc gia khác coi hành vi đó là tội mua bán người, tội mua bán trẻ em nhưng theo quy định của pháp luật Việt Nam thì hành vi đó lại không cấu thành tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi hoặc một tội phạm nào khác. Ví dụ như: hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người bằng việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn nào khác nhằm mục đích bóc lột, nếu theo pháp luật hình sự Việt Nam thì sẽ không cấu thành tội mua bán người, nhưng theo pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia khác như: Liên bang Nga, Liên bang Đức, Canada, Philippine, Thái Lan… thì đã đủ cấu thành tội mua bán người; hoặc hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chuyển giao hoặc tiếp nhận người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì theo pháp luật Việt Nam sẽ không cấu thành tội mua bán người nếu người thực một trong các hiện hành vi này không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc bất cứ thủ đoạn nào khác, cũng không cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi bởi người bị mua bán là người đã trên 16 tuổi, trong khi đó, cũng với hành vi này thì theo pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia khác như Liên bang Đức, Vương quốc Campuchia, Philippine, Malaysia, Thailan, Indonesia…đã đủ cấu thành tội mua bán trẻ em.
Như vậy, sự chưa tương thích, chưa hài hòa giữa pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế cũng như với pháp luật một số quốc gia sẽ dẫn tới khó khăn trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự khi cùng một hành vi vi phạm nhưng theo chuẩn mực quốc tế và nhiều quốc gia khác thì đó là tội phạm hình sự, nhưng theo quy định của pháp luật Việt Nam thì hành vi đó lại không cấu thành tội phạm. Bên cạnh đó, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đã gia nhập nhiều công ước quốc tế đấu tranh với nạn buôn bán người, buôn bán trẻ em, trong đó phải kể tới là Công ước TOC; NĐT về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; NĐT không bắt buộc về mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em; Công ước ASEAN về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; Công ước nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (Công ước 182). Đồng thời, Việt Nam cũng đã ký kết và tham gia nhiều hiệp định song phương và đa phương với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới về phòng, chống mua bán người. Nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới đã tuân thủ và nội luật hoá những yêu cầu này của các chuẩn mực quốc tế vào pháp luật nước mình (như đã phân tích tại Chương II). Như vậy, hiệu quả của hoạt động hợp tác quốc tế trong đấu tranh với tội mua bán người, tội mua bán trẻ em với Như: Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam với một số quốc gia và vùng lãnh thổ như Cu Ba, Hunggari, Bungari, Ba Lan, Liên bang Nga, Cộng hòa Pháp, Ucraina…; Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước CHND Trung Hoa về tăng cường hợp tác phòng, chống buôn bán người năm 2010; Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ hoàng gia Campuchia năm 2005 về hợp tác song phương để loại trừ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em và giúp đỡ nạn nhân bị buôn bán (Hiệp định này đã được điều chỉnh năm 2013); Thoả thuận hợp tác giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ hoàng gia Campuchia về quy trình xác định và hồi hương nạn nhân bị buôn bán; Biên bản ghi nhớ về hợp tác chống mua bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em giữa Việt Nam và Campuchia năm 2007; Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Thái Lan năm 2008 về hợp tác song phương nhằm xoá bỏ tình trạng mua bán người, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em và trợ giúp các nạn nhân; Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước CHDCND Lào năm 2010 về hợp tác phòng, chống buôn bán người và bảo vệ nạn nhân bị buôn bán; Biên bản ghi nhớ hợp tác với Bộ Nhập cư và bảo vệ biên giới Australia về ngăn ngừa nạn đưa người di cư trái phép; Tuyên bố chung (lần thứ ba) cấp Bộ trưởng các nước Tiểu vùng sông Mê Công về phòng, chống buôn bán người các quốc gia trong khu vực và trên thế giới phụ thuộc nhiều vào tính tương thích, phù hợp và đồng bộ của hệ thống pháp luật Việt Nam với pháp luật các quốc gia đó.
Như vậy, rõ ràng Chính phủ Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới và cả cộng đồng quốc tế đã thể hiện rõ thái độ cương quyết, cứng rắn trong cuộc đấu tranh xóa bỏ loại tội phạm này. Tuy nhiên, dù Chính phủ Việt Nam nói riêng và cả cộng đồng quốc tế nói chung đã rất nỗ lực trong đấu tranh với loại tội phạm nguy hiểm này, nhưng diễn biến của tội phạm này ngày càng phức tạp, nguy hiểm và khó lường, nó không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của mỗi người dân, đến an ninh, an toàn của mỗi quốc gia riêng lẻ mà nó còn ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị, kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới. Do vậy, vấn đề hợp tác quốc tế trong khu vực và trên thế giới trong đấu tranh với loại tội phạm này là vấn đề then chốt. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống mua bán người, mà đặc biệt là pháp luật hình sự sao cho phù hợp, hài hòa với pháp luật quốc tế, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động hợp tác quốc tế trong đấu tranh với loại tội phạm này và trở thành một công cụ sắc bén, hữu hiệu nhất trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội mua bán người, tội mua bán trẻ em nói riêng.
Theo : Lê Thị Vân Anh
Link luận án:
https://docs.google.com/document/d/1bAJCIP8lEBJjb5g5cSJq6ExZ7fNcQoTC/edit