0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file648b1c8bc2a5c-_HOÀN-THIỆN-QUY-ĐỊNH-CỦA-BỘ-LUẬT-HÌNH-SỰ-VỀ-TỘI-MUA-BÁN-NGƯỜI.jpg.webp

HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI

 

3.2.1.  Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự và văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự

3.2.1.1. Sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật hình sự

Qua nghiên cứu các quy định của chuẩn mực quốc tế cũng như kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia và vùng lãnh thổ tại Chương 1, các quy định hiện hành của BLHS về tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi, những bất cập, hạn chế trong các quy định này và những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này như đã phân tích, đánh giá ở Chương 2, cũng như những những yêu cầu phải hoàn thiện quy định của BLHS về tội mua bán người, tội mua bán trẻ em nhằm đáp ứng thực tiễn đấu tranh với loại tội phạm này trong tình hình mới thì việc sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS là đòi hỏi tất yếu. Để đáp ứng các các yêu cầu như đã phân tích tại mục 3.1 nêu trên thì Điều 151 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của BLHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng sau:

a) Bổ sung chủ thể chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi là pháp nhân thương mại

Như đã phân tích tại mục tiểu mục 2.2.5.2 mục 2.2.5 tại Chương 2 Luận án, hiện nay, mặc dù BLHS năm 2015 đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, tuy nhiên, đối với tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi thì pháp nhân thương mại không phải chịu trách nhiệm hình sự. Vì thế, việc bổ sung pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi sẽ khắc phục được một số bất cập, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật sau:

Một là, như đã phân tích ở Phần nghiên cứu tổng quan, đặc điểm nổi bật của tội mua bán người và tội mua bán trẻ em là tính chất xuyên quốc gia. Mặc dù khi tham gia Công ước TOC, Việt Nam tuyên bố không bị ràng buộc về quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, nhưng theo quy định tại Điều 10 Công ước này, các quốc gia thành viên phải ban hành những biện pháp cần thiết phù hợp với những nguyên tắc pháp lý của nước mình, để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc thực hiện những hành vi phạm tội như thực hiện tội phạm nghiêm trọng liên quan đến việc tham gia nhóm tội phạm có tổ chức. Đồng thời tuỳ theo những nguyên tắc pháp lý của mình, việc xử lý pháp nhân vi phạm có thể là trách nhiệm hình sự, dân sự hay trách nhiệm hành chính. Tuy nhiên, tại Việt Nam, hành vi thực hiện một tội phạm nghiêm trọng liên quan đến việc tham gia nhóm tội phạm có tổ chức nói chung và hành vi mua bán người, mua bán trẻ em nói riêng luôn được coi là tội phạm hình sự mà không phải là hành vi vi phạm hành chính. Do đó, việc không quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân khi phạm tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi sẽ dẫn tới bỏ sót việc xử lý hành vi vi phạm của pháp nhân khi thực hiện các tội phạm này.

Hai là, qua nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thì đa số các nước theo hệ thống thông luật như Hoa Kỳ, Canada, Australia, New Zealand, … hoặc một số quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc hệ thống luật thành văn như Bỉ, Hà Lan, Thuỵ Sĩ, Phần Lan, … khi quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thì đều quy định pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi tội phạm. Một số quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Philippines… và ngay cả Trung Quốc - quốc gia láng giềng với Việt Nam và cũng là một trong những điểm đến chủ yếu của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi - cũng quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân và không loại trừ trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội mua bán người và mua bán người dưới 16 tuổi155. Như vậy, việc không quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi có khả năng dẫn tới khó khăn trong hợp tác quốc tế do xung đột pháp luật giữa các quốc gia. Đặc biệt có thể dẫn tới tình trạng bất bình đẳng trong trường hợp pháp nhân nước ngoài thực hiện hành vi mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi tại Việt Nam thì chúng ta không có cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân đó.

Chính vì thế, từ khuyến nghị của chuẩn mực quốc tế, kinh nghiệm lập pháp của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ tới yêu cầu của thực tiễn trong đấu tranh với loại tội phạm này, đặc biệt là yêu cầu về hợp tác quốc tế thì việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân khi thực hiện tội mua bán người, tội mua người dưới 16 tuổi là cần thiết. Việc bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào Điều 150 và Điều 151 BLHS không chỉ đáp ứng được yêu cầu đảm bảo phù hợp với chuẩn mực quốc tế mà còn tạo thuận lợi cho hoạt động hợp tác quốc tế trong đấu tranh với loại tội phạm này, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà BLHS năm 2015 hiện đang chỉ cho phép truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại mà không phải là với tất cả các pháp nhân, để đảm bảo phù hợp và thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật, trước mắt cần nghiên cứu bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại đối với tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi.

b) Mở rộng phạm vi xử lý hình sự về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi đối với hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác

Như đã phân tích tại tiết 2.2.5.1 tiểu mục 2.2.5 mục 2.2 Chương 2 Luận án thì quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS khi mô tả cấu thành cơ bản của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi là chưa hoàn toàn phù hợp và tương thích với chuẩn mực quốc tế cũng như chưa hài hòa với pháp luật của nhiều quốc gia và vũng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới khi không quy định hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác là hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi. Điều này sẽ dẫn tới một thực tế là trường hợp một người thực hiện hành vi tuyển mộ, vận chuyển hoặc chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức sức lao động hoặc lấy bộ phận cơ thể thì không thể vận dụng quy định tại Điều 150 hoặc Điều 151 BLHS để bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi. Nghiên cứu các quy định khác của BLHS năm 2015 thì có thể thấy, trường hợp người thực hiện hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác trái pháp luật nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức sức lao động hoặc lấy bộ phận cơ thể thì tùy từng trường hợp, có thể vận dụng quy định tại Điều 157 BLHS về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật hoặc có thể vận dụng một số tội danh khác trong trường hợp phạm tội chưa đạt để xử lý, như tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội cưỡng bức lao động (Điều 297), tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154). Tuy nhiên, việc vận dụng các tội danh này để xử lý sẽ không phản ánh đúng bản chất, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. Hơn nữa, việc vận dụng một trong các tội danh này để xử lý đối với hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác cũng sẽ có sự khác biệt tương đối lớn trong chính sách xử lý đối với người thực hiện hành vi phạm tội giữa trường hợp phạm tội chưa đạt của một trong các tội danh trên với trường hợp phạm tội hoàn thành của tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi.

Bên cạnh đó, với bản chất của tội mua bán người, tội mua bán trẻ em là loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tỷ lệ các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em ra nước ngoài của Việt Nam lên tới 85% trong tổng số vụ án156 thì hoạt động hợp tác quốc tế trong đấu tranh với loại tội phạm này là rất quan trọng và cần thiết. Việc không tương thích với chuẩn mực quốc tế và pháp luật một số quốc gia và vùng lãnh thổ sẽ gây nhiều khó khăn cho chúng ta trong hoạt động hợp tác quốc tế, tương trợ tư pháp để đấu tranh với loại tội phạm này. Vì thế, việc mở rộng phạm vi xử lý hình sự về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi đối với hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác là rất cần thiết. Với hướng sửa đổi này, nội dung điểm c khoản 1 Điều 150 và điểm c khoản 1 Điều 151 cần quy định  hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người không chỉ để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 mà còn để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.

c) Bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151

Một trong những bất cập, hạn chế của Điều 150 và Điều 151 BLHS dẫn tới khó khăn, vướng mắc trong việc phân định và phân hóa một cách minh bạch, rõ ràng trách nhiệm hình sự giữa tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với một số tội phạm khác trong BLHS như đã nêu tại tiểu mục 2.2.5.3 Mục 2.2.5 Chương 2 Luận án đó là quy định tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại khoản 3 Điều 150 và khoản 3 Điều 151 BLHS. Chính vì thế, việc bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 BLHS là giải pháp để giải quyết những khó khăn, vướng mắc này, cụ thể:

Một là, theo quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS thì lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân là mục đích của người phạm tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi và là dấu hiệu bắt buộc tại cấu thành cơ bản của hai tội danh này. Khi mục đích lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân được người phạm tội được thực hiện trên thực tế thì sẽ trở thành tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” quy định tại khoản 3 của hai điều luật này. Để hướng dẫn tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự này, Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/02/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của BLHS quy định “đã lấy bộ phân cơ thể của nạn nhân là trường hợp người phạm tội mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi sau đó đã lấy đi bộ phận cơ thể của nạn nhân. Trường hợp người phạm tội đã lấy bộ phận cơ thể quyết định sự sống của nạn nhân như tim, buồng gan… làm nạn nhân chết thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS”157.

Phân tích kỹ quy định này của Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP thì có thể thấy rằng, nội dung này của Nghị quyết chưa thực sự thống nhất và phù hợp với quy định tại Điều 123 BLHS, lại chưa đảm bảo phản ánh đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Bởi lẽ, theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS về tội giết người thì việc lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Hành vi giết người được thực hiện trước, sau khi nạn nhân chết thì người phạm tội tiếp tục thực hiện hành vi lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân. Trong khi đó, người phạm tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi đã thực hiện đầy đủ các hành vi được mô tả trong cấu thành cơ bản của tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi và việc lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân bị mua bán được thực hiện khi nạn nhân đang còn sống. Như vậy, với quy định của Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP thì việc lấy đi bộ phận cơ thể quyết định sự sống của nạn nhân dẫn tới nạn nhân bị chết thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người (điểm h khoản 1 Điều 123), trong khi đó, cùng với hành vi phạm tội như nhau, nhưng lấy đi bộ phận cơ thể không quyết định sự sống của nạn nhân thì lại truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người (điểm b khoản 3 Điều 150).

Nếu bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 BLHS thì trường hợp người thực hiện hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi, sau đó lấy đi bộ phận cơ thể quyết định sự sống của nạn nhân thì cùng với tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi, người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS; trường hợp thực hiện hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi, sau đó lấy đi bộ phận cơ thể không quyết định sự sống của nạn nhân thì cùng với tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi, người đó còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người tại Điều 154 BLHS. Quy định này sẽ đảm bảo sự minh bạch, rõ ràng trong việc phân định trách nhiệm hình sự của người phạm tội, cũng như đảm bảo sự phù hợp, thống nhất giữa các điều luật của BLHS.

Hai là, BLHS năm 2015 quy định mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người là một tội danh độc lập tại Điều 154, theo đó, người nào mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người quy định tại Điều 154 BLHS. Như đã phân tích về sự khác biệt giữa tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người tại tiết 2.2.1.3 tiểu mục 2.2.1 Mục 2.2 Chương 2 Luận án thì việc phân biệt giữa các tội danh này mới chỉ căn cứ vào cấu thành cơ bản của tội phạm. Nếu căn cứ vào tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi thì rất khó phân biệt giữa tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người, bởi hành vi khách quan của các tội danh này có sự tương đồng, đó là hành vi chuyển giao người hoặc tiếp nhận người để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác và bộ phận cơ thể người đã được lấy đi. Trong trường hợp này, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội mua bán người/tội mua bán người dưới 16 tuổi hoặc về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người đều phù hợp và đúng với quy định của pháp luật hình sự.

Nếu bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 BLHS thì việc phân biệt giữa tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người tại Điều 154 sẽ được rõ ràng, minh bạch hơn. Theo đó, trường hợp người thực hiện hành vi mua bán người, sau đó lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân (bộ phận không quyết định sự sống của người đó) thì cùng với tội mua bán người, người đó phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người quy định tại Điều 154 BLHS. Điều này cũng sẽ phù hợp với cách quy định đối với các tình tiết “để bóc lột tình dục”, “để cưỡng bức lao động” hoặc “vì mục đích vô nhân đạo khác” của Điều 150 và Điều 151 khi chỉ quy định các dấu hiệu này ở cấu thành cơ bản của tội phạm mà không tiếp tục quy định là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự như phân tích ngay đoạn dưới đây.

Ba là, theo quy định tại khoản 1 Điều 150 và khoản 1 Điều 151 thì mục đích của người thực hiện hành vi mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi là một trong ba yếu tố bắt buộc trong cấu thành cơ bản của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi. Theo đó, người thực hiện hành vi mua bán người vì nhiều mục đích khác nhau, trong đó có các mục đích “để bóc lột tình dục”, “để cưỡng bức lao động” hoặc “để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân”. Trong số ba mục đích này thì mục đích “để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại cấu thành cơ bản của tội phạm tiếp tục được quy định là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội nếu mục đích đó được thực hiện trên thực tế là “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151. Tuy nhiên, với hai mục đích còn lại là “để bóc lột tình dục” và “để cưỡng bức lao động” thì cả hai điều luật này lại không tiếp tục quy định là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự nếu việc bóc lột tình dục hoặc cưỡng bức lao động đã được thực hiện trên thực tế là “đã bóc lột tình dục” hoặc “đã cưỡng bức lao động” tương tự như cách quy định về tình tiết “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân”. Điều này dẫn tới một bất cập, đó là trường hợp người thực hiện hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi, nếu sau đó lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi theo khoản 3 Điều 150 hoặc khoản 3 Điều 151 với tình tiết định khung tăng nặng là “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân”. Tuy nhiên, cũng tương tự như vậy, trường hợp người thực hiện hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi, sau đó hiếp dâm nạn nhân hoặc ép buộc nạn nhân phục vụ nhu cầu tình dục cho cả nhà họ hoặc ép buộc họ phải lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại thì cùng với việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự cả về tội hiếp dâm/hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 141 hoặc Điều 142 BLHS hoặc tội cưỡng bức lao động quy định tại Điều 297 BLHS. Như vậy, với trường hợp này thì chính sách hình sự là chưa đảm bảo sự công bằng, minh bạch, bởi hành vi phạm tội là như nhau, nhưng người phạm tội mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi nếu sau đó đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội, nhưng người phạm tội mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi nếu sau đó cưỡng bức lao động nạn nhân hoặc bóc lột tình dục nạn nhân thì lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội danh khác nhau với chính sách tổng hợp hình phạt.

Chính vì thế, việc bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 sẽ đảm bảo được chính sách hình sự công bằng, minh bạch giữa các trường hợp phạm tội như đã nêu ở trên.

Bốn là, tại tiết 2.2.5.3 tiểu mục 2.2.5 mục 2.2 Chương 2 Luận án có nêu một trong những bất cập, hạn chế của Điều 150 và Điều 151 đó là quy định tình tiết "lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân" tại cấu thành cơ bản cũng như tại khung tăng nặng trách nhiệm hình sự của Điều 150 và Điều 151 là chưa thực sự phù hợp với quy định tại Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006. Theo quy định của Luật này thì mô và bộ phận cơ thể người đều có thể được hiến, lấy, ghép từ cơ thể người này sang cơ thể người khác. Như vậy, có thể thấy mô không được coi là bộ phận cơ thể nhưng cũng có thể được lấy, ghép, hiến tặng cho người khác. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS thì “lấy bộ phận cơ thể” hoặc “đã lấy bộ phận cơ thể nạn nhân” là dấu hiệu trong cấu thành cơ bản hoặc tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Theo đó, bộ phận cơ thể quy định tại hai điều luật này được hiểu là những bộ phận cơ thể người được quy định tại Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 mà không bao gồm mô. Điều này dẫn tới thực tế là trường hợp người phạm tội mua bán người hoặc phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi vì mục đích “lấy mô” thì mục đích này không được coi là đã thoả mãn yếu tố bắt buộc trong cấu thành cơ bản của hai tội phạm này hoặc trường hợp “đã lấy mô của nạn nhân” cũng không được coi là phạm tội thuộc trường hợp có tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” quy định tại khoản 3 Điều 150 và khoản 3 Điều 151.

Do vậy, cùng với việc bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể người” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 thì bên cạnh mục đích “lấy bộ phận cơ thể người” tại cấu thành cơ bản của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi, Điều 150 và Điều 151 cũng cần bổ sung mục đích lấy mô của nạn nhân. Việc sửa đổi, bổ sung này sẽ đảm bảo thống nhất, phù hợp với quy định của Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 và phù hợp với quy định tại Điều 154 BLHS về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người, đồng thời bao quát các trường hợp phạm tội có thể xảy ra trong thực tiễn cuộc sống.

Từ những phân tích, đánh giá trên, có thể thấy, việc bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 BLHS sẽ là phương án tối ưu nhất để giải quyết những bất cập, hạn chế của BLHS cũng như giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.

d) Nâng độ tuổi nạn nhân bị mua bán tại Điều 151 là người dưới 18 tuổi thay vì quy định là người dưới 16 tuổi và sửa tên tội danh cho phù hợp

Theo Công ước của LHQ về quyền trẻ em thì “trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”158. Mặc dù Công ước của LHQ về quyền trẻ em không bắt buộc mọi quốc gia phải tuân thủ yêu cầu quy định độ tuổi của trẻ em là người dưới 18 tuổi, nhưng việc coi trẻ em là người dưới 18 tuổi đã được cả cộng đồng quốc tế công nhận và tuân thủ. Việc khẳng định độ tuổi của trẻ em được quy định lại tại Điều 3 NĐT về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em theo đó, “trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi”. Với quan điểm này, Điều 3 và Điều 5 NĐT yêu cầu các quốc gia thành viên phải hình sự hoá hành vi buôn bán trẻ em là người dưới 18 tuổi. Như vậy, theo NĐT thì hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp, chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 18 tuổi nhằm mục đích bóc lột được coi là phạm tội buôn bán trẻ em khi những hành vi này được thực hiện mà không dùng đến bất cứ phương thức hoặc thủ đoạn nào. Đây là điểm khác biệt với quy định về tội buôn bán người mà NĐT đưa ra (nạn nhân là những người từ đủ 18 tuổi trở lên).

Trong khi đó, pháp luật Việt Nam quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi159. Theo đó, mua bán trẻ em là mua bán người dưới 16 tuổi và được quy định tại Điều 151 BLHS về tội mua bán người dưới 16 tuổi. Như đã phân tích tại tiết 2.2.1.2 tiểu mục 2.2.1 Mục 2.2 Chương 2 Luận án về dấu hiệu định tội của tội mua bán người dưới 16 tuổi thì với tội phạm này, chỉ cần đủ hai yếu tố là hành vi và mục đích mà không cần yếu tố thủ đoạn. Như vậy, yếu tố cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi của BLHS năm 2015 là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của NĐT về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Tuy nhiên, đối với trường hợp mua bán người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (mà NĐT coi là trẻ em) thì quy định của pháp luật hình sự Việt Nam chưa tương thích, phù hợp với NĐT. Bởi lẽ, theo quy định của BLHS năm 2015 thì hành vi mua bán người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không thuộc phạm vi điều chỉnh của tội mua bán trẻ em mà thuộc phạm vi điều chỉnh của tội mua bán người và để cấu thành tội này thì cần phải có đầy đủ ba yếu tố là: hành vi, thủ đoạn và mục đích. Trường hợp chỉ có hai yếu tố: hành vi và mục đích mà không có yếu tố thủ đoạn thì hành vi mua bán người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không cấu thành tội mua bán người. Trong khi đó, theo quy định của NĐT thì hành vi buôn bán người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi chỉ cần hai yếu tố là hành vi và mục đích là đã cấu thành nên tội buôn bán trẻ em.

Như vậy, quy định tại Điều 151 BLHS chưa tương thích, phù hợp với pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới về độ tuổi của trẻ em sẽ tạo ra nhiều khó khăn, thách thức cho việc đấu tranh với loại tội phạm này, đồng thời chưa tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ triệt để quyền và lợi ích của người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Vì thế, giải pháp nâng độ tuổi trẻ em lên 18 tuổi nói chung và sửa đổi quy định tại Điều 151 BLHS theo hướng mở rộng đối tượng nạn nhân được bảo vệ theo điều luật này là những người dưới 18 tuổi thay cho 16 tuổi như quy định hiện hành không chỉ đáp ứng yêu cầu của chuẩn mực quốc tế, phù hợp với pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, góp phần tăng cường hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động hợp tác quốc tế để đấu tranh với các loại tội phạm, trong đó có tội mua bán trẻ em, mà còn tạo ra những chính sách pháp luật để bảo vệ tốt hơn cho các em trong độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, đó là những người chưa phát triển đầy đủ, trọn vẹn về thể chất và tinh thần. Với sửa đổi, bổ sung này thì tên gọi và nội dung điều luật sẽ có những sửa đổi phù hợp.

đ) Bỏ quy định “trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo” tại Điều 151

Tại tiết 2.2.5.4 tiểu mục 2.2.5 mục 2.2 Chương 2 Luận án đã nhận diện một trong những bất cập, hạn chế của Điều 151 BLHS đó chính là quy định “trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo” tại cấu thành cơ bản của tội mua bán người dưới 16 tuổi, vì quy định này chưa đảm bảo sự thống nhất và phù hợp với pháp luật về Nuôi con nuôi và pháp luật về Hôn nhân và Gia đình.

Theo quy định tại Điều 151 BLHS thì một trong các hành vi cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi là “chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo”. Để thuận lợi cho việc áp dụng quy định này trong thực tiễn, Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/9/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật hình sự đã hướng dẫn trường hợp “vì mục đích nhân đạo” quy định tại Điều 151 BLHS là “người biết người khác thực sự có nhu cầu nuôi con nuôi (do hiếm muộn hoặc có lòng yêu trẻ) đã môi giới cho người này xin con nuôi của người có hoàn cảnh gia đình khó khăn không có điều kiện nuôi con, muốn cho con đẻ của mình đi làm con nuôi và nhận một khoản tiền từ việc cho con và việc môi giới. Đây là trường hợp vì mục đích nhân đạo nên người môi giới, người cho con mình đi làm con nuôi và người nhận con nuôi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi”.

Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì trong mọi trường hợp, việc cho, nhận con nuôi phải đáp ứng các điều kiện và tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Luật Nuôi con nuôi. Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và Luật Hôn nhân và Gia đình thì quan hệ nuôi con nuôi giữa cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi chỉ được xác lập theo quy định của Luật Nuôi con nuôi, nghĩa là pháp luật chỉ thừa nhận quan hệ nuôi con nuôi khi được thực hiện theo đúng quy định của Luật Nuôi con nuôi. Bên cạnh đó, một trong các hành vi bị cấm mà Luật Nuôi con nuôi quy định tại Điều 13 đó là “lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật”. Như vậy, việc quy định loại trừ trường hợp “vì mục đích nhân đạo” tại Điều 151 BLHS và được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP nêu trên là chưa đảm bảo phù hợp và thống nhất trong hệ thống pháp luật, thậm chí quy định này còn có khả năng dẫn tới tình trạng bị lợi dụng để thực hiện hành vi mua bán người dưới 16 tuổi. Chính vì thế, việc bỏ quy định “trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo” tại điểm a khoản 1 Điều 151 BLHS về tội mua bán người dưới 16 tuổi là cần thiết để đảm bảo không có kẽ hở trong quy định của pháp luật, cũng như có sự thống nhất trong hệ thống pháp luật. Theo đó, trong mọi trường hợp cho, nhận con nuôi mà không tuân thủ đúng quy định của Luật Nuôi con nuôi đều bị coi là vi phạm pháp luật và tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở những đề xuất nêu trên, Điều 150 và Điều 151 BLHS sẽ được sửa đổi. 

3.2.1.2. Nghiên cứu khả năng sửa đổi Điều 1, Điều 2 và Điều 8 BLHS theo hướng cho phép quy định tội phạm và hình phạt tại các đạo luật chuyên ngành, trong đó có Luật Phòng, chống mua, bán người

Có thể thấy, trong khoảng thời gian gần 40 năm kể từ khi được ban hành lần đầu tiên vào năm 1985, BLHS của Nhà nước ta đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung (các năm 1989, 1997, 1999, 2009, 2015 và 2017), trong đó có hai lần sửa đổi cơ bản, toàn diện vào năm 1999 và năm 2015. Bên cạnh ưu điểm là làm cho các quy định của BLHS đáp ứng kịp thời với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong từng giai đoạn phát triển, thì việc sửa đổi, bổ sung quá nhiều lần trong một khoảng thời gian ngắn làm cho các quy định của BLHS không có tính ổn định cao. Điều này gây khó khăn lớn trong quá trình áp dụng các quy định của BLHS vào thực tiễn. Hơn nữa, mặc dù sửa đổi, bổ sung nhiều lần như vậy nhưng nhìn chung BLHS vẫn còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với yêu cầu thực tiễn. Một trong những nguyên nhân do BLHS quy định tất cả các tội phạm thuộc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tương đối ổn định nhưng có nhiều lĩnh vực có tính biến động cao, đặc biệt là các phương thức, thủ đoạn phạm tội cũng như quy mô, tính chất, mức độ nguy hiểm ngày một thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, nhất là trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bên cạnh đó, việc quy định tất cả các tội phạm thuộc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong BLHS còn dẫn tới tình trạng thiếu sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, mà cụ thể là giữa quy định của BLHS với quy định của các đạo luật chuyên ngành, nếu BLHS không được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Điều này dẫn tới thực trạng là mỗi khi pháp luật chuyên ngành của một lĩnh vực nào đó có thay đổi thì đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung BLHS, nếu không sẽ nảy sinh bất cập, vướng mắc. Điều này tạo ra một áp lực không nhỏ về quy trình sửa đổi, bổ sung các quy định của BLHS với ý nghĩa là một trong những Bộ luật quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật ở nước ta.

Qua nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của tội mua bán người, tội mua bán trẻ em tại Chương 2 Luận án này, có thể thấy rằng, mua bán người và mua bán trẻ em là loại tội phạm có nhiều biến động cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, trong khu vực và trên toàn thế giới. Điều này thể hiện ở việc BLHS Việt Nam đã qua sáu lần sửa đổi, bổ sung kể từ năm 1985 đến nay thì có tới bốn lần sửa đổi, bổ sung có sửa đổi, bổ sung tội mua bán người và tội mua bán trẻ em. Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới quy định về tội phạm và hình phạt của tội mua bán người, tội mua bán trẻ em tại Chương 2 Luận án thấy rằng, một số quốc gia trên thế giới như Liên bang Nga, Liên bang Đức, Canada hay Australia đều quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi mua bán người, mua bán trẻ em ngay tại BLHS, nhưng một số quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia trong khu vực như Campuchia, Myanmar, Phillippine, Thái Lan, Malaysia, Sierra Leone... thì lại quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi mua bán người, mua bán trẻ em tại đạo luật riêng về phòng, chống mua bán người. Với mỗi cách quy định sẽ có những ưu điểm nhất định, tuy nhiên, việc quy định tại một đạo luật chuyên ngành như một số quốc gia sẽ tạo điều kiện quy định cụ thể hơn, chi tiết các hành vi phạm tội, vừa bảo đảm tính ổn định của BLHS vừa đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong các lĩnh vực nhờ hệ thống các luật “vệ tinh”. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng, việc quy định tội phạm và hình phạt đối với một số tội danh cụ thể tại các đạo luật chuyên ngành cần phải tuân thủ đầy đủ và trên cơ sở các quy định tại Phần chung và các quy định khác của BLHS.

Với hướng nghiên cứu này, cùng với việc quy định tội phạm và hình phạt của một số tội danh trong một số lĩnh vực cụ thể tại các đạo luật chuyên ngành thì cần nghiên cứu sửa đổi nội dung quy định tại một số điều luật của BLHS, cụ thể là Điều 1 về nhiệm vụ của BLHS; Điều 2 về cơ sở của trách nhiệm hình sự và Điều 8 về khái niệm tội phạm với chủ trương bất cứ người nào hoặc pháp nhân thương mại nào đều phải chịu trách nhiệm hình sự nếu phạm một tội đã được quy định tại BLHS hoặc tại một đạo luật chuyên ngành có quy định tội phạm và hình phạt.

Theo: Lê Thị Vân Anh

Link luận án: 

https://docs.google.com/document/d/1bAJCIP8lEBJjb5g5cSJq6ExZ7fNcQoTC/edit

avatar
Đặng Quỳnh
584 ngày trước
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI MUA BÁN NGƯỜI
 3.2.1.  Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự và văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự3.2.1.1. Sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật hình sựQua nghiên cứu các quy định của chuẩn mực quốc tế cũng như kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia và vùng lãnh thổ tại Chương 1, các quy định hiện hành của BLHS về tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi, những bất cập, hạn chế trong các quy định này và những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xét xử loại tội phạm này như đã phân tích, đánh giá ở Chương 2, cũng như những những yêu cầu phải hoàn thiện quy định của BLHS về tội mua bán người, tội mua bán trẻ em nhằm đáp ứng thực tiễn đấu tranh với loại tội phạm này trong tình hình mới thì việc sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS là đòi hỏi tất yếu. Để đáp ứng các các yêu cầu như đã phân tích tại mục 3.1 nêu trên thì Điều 151 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của BLHS cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng sau:a) Bổ sung chủ thể chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi là pháp nhân thương mạiNhư đã phân tích tại mục tiểu mục 2.2.5.2 mục 2.2.5 tại Chương 2 Luận án, hiện nay, mặc dù BLHS năm 2015 đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại, tuy nhiên, đối với tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi thì pháp nhân thương mại không phải chịu trách nhiệm hình sự. Vì thế, việc bổ sung pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi sẽ khắc phục được một số bất cập, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật sau:Một là, như đã phân tích ở Phần nghiên cứu tổng quan, đặc điểm nổi bật của tội mua bán người và tội mua bán trẻ em là tính chất xuyên quốc gia. Mặc dù khi tham gia Công ước TOC, Việt Nam tuyên bố không bị ràng buộc về quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, nhưng theo quy định tại Điều 10 Công ước này, các quốc gia thành viên phải ban hành những biện pháp cần thiết phù hợp với những nguyên tắc pháp lý của nước mình, để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc thực hiện những hành vi phạm tội như thực hiện tội phạm nghiêm trọng liên quan đến việc tham gia nhóm tội phạm có tổ chức. Đồng thời tuỳ theo những nguyên tắc pháp lý của mình, việc xử lý pháp nhân vi phạm có thể là trách nhiệm hình sự, dân sự hay trách nhiệm hành chính. Tuy nhiên, tại Việt Nam, hành vi thực hiện một tội phạm nghiêm trọng liên quan đến việc tham gia nhóm tội phạm có tổ chức nói chung và hành vi mua bán người, mua bán trẻ em nói riêng luôn được coi là tội phạm hình sự mà không phải là hành vi vi phạm hành chính. Do đó, việc không quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân khi phạm tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi sẽ dẫn tới bỏ sót việc xử lý hành vi vi phạm của pháp nhân khi thực hiện các tội phạm này.Hai là, qua nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của một số quốc gia trên thế giới về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thì đa số các nước theo hệ thống thông luật như Hoa Kỳ, Canada, Australia, New Zealand, … hoặc một số quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc hệ thống luật thành văn như Bỉ, Hà Lan, Thuỵ Sĩ, Phần Lan, … khi quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thì đều quy định pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi tội phạm. Một số quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Philippines… và ngay cả Trung Quốc - quốc gia láng giềng với Việt Nam và cũng là một trong những điểm đến chủ yếu của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi - cũng quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân và không loại trừ trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội mua bán người và mua bán người dưới 16 tuổi155. Như vậy, việc không quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi có khả năng dẫn tới khó khăn trong hợp tác quốc tế do xung đột pháp luật giữa các quốc gia. Đặc biệt có thể dẫn tới tình trạng bất bình đẳng trong trường hợp pháp nhân nước ngoài thực hiện hành vi mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi tại Việt Nam thì chúng ta không có cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân đó.Chính vì thế, từ khuyến nghị của chuẩn mực quốc tế, kinh nghiệm lập pháp của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ tới yêu cầu của thực tiễn trong đấu tranh với loại tội phạm này, đặc biệt là yêu cầu về hợp tác quốc tế thì việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân khi thực hiện tội mua bán người, tội mua người dưới 16 tuổi là cần thiết. Việc bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào Điều 150 và Điều 151 BLHS không chỉ đáp ứng được yêu cầu đảm bảo phù hợp với chuẩn mực quốc tế mà còn tạo thuận lợi cho hoạt động hợp tác quốc tế trong đấu tranh với loại tội phạm này, góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi. Tuy nhiên, trong bối cảnh mà BLHS năm 2015 hiện đang chỉ cho phép truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại mà không phải là với tất cả các pháp nhân, để đảm bảo phù hợp và thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật, trước mắt cần nghiên cứu bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại đối với tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi.b) Mở rộng phạm vi xử lý hình sự về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi đối với hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khácNhư đã phân tích tại tiết 2.2.5.1 tiểu mục 2.2.5 mục 2.2 Chương 2 Luận án thì quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS khi mô tả cấu thành cơ bản của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi là chưa hoàn toàn phù hợp và tương thích với chuẩn mực quốc tế cũng như chưa hài hòa với pháp luật của nhiều quốc gia và vũng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới khi không quy định hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác là hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi. Điều này sẽ dẫn tới một thực tế là trường hợp một người thực hiện hành vi tuyển mộ, vận chuyển hoặc chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức sức lao động hoặc lấy bộ phận cơ thể thì không thể vận dụng quy định tại Điều 150 hoặc Điều 151 BLHS để bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi. Nghiên cứu các quy định khác của BLHS năm 2015 thì có thể thấy, trường hợp người thực hiện hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác trái pháp luật nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức sức lao động hoặc lấy bộ phận cơ thể thì tùy từng trường hợp, có thể vận dụng quy định tại Điều 157 BLHS về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật hoặc có thể vận dụng một số tội danh khác trong trường hợp phạm tội chưa đạt để xử lý, như tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội cưỡng bức lao động (Điều 297), tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154). Tuy nhiên, việc vận dụng các tội danh này để xử lý sẽ không phản ánh đúng bản chất, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác. Hơn nữa, việc vận dụng một trong các tội danh này để xử lý đối với hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác cũng sẽ có sự khác biệt tương đối lớn trong chính sách xử lý đối với người thực hiện hành vi phạm tội giữa trường hợp phạm tội chưa đạt của một trong các tội danh trên với trường hợp phạm tội hoàn thành của tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi.Bên cạnh đó, với bản chất của tội mua bán người, tội mua bán trẻ em là loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tỷ lệ các vụ án mua bán người, mua bán trẻ em ra nước ngoài của Việt Nam lên tới 85% trong tổng số vụ án156 thì hoạt động hợp tác quốc tế trong đấu tranh với loại tội phạm này là rất quan trọng và cần thiết. Việc không tương thích với chuẩn mực quốc tế và pháp luật một số quốc gia và vùng lãnh thổ sẽ gây nhiều khó khăn cho chúng ta trong hoạt động hợp tác quốc tế, tương trợ tư pháp để đấu tranh với loại tội phạm này. Vì thế, việc mở rộng phạm vi xử lý hình sự về tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi đối với hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người nhằm mục đích bóc lột tình dục, bóc lột sức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác là rất cần thiết. Với hướng sửa đổi này, nội dung điểm c khoản 1 Điều 150 và điểm c khoản 1 Điều 151 cần quy định  hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người không chỉ để thực hiện hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 mà còn để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.c) Bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151Một trong những bất cập, hạn chế của Điều 150 và Điều 151 BLHS dẫn tới khó khăn, vướng mắc trong việc phân định và phân hóa một cách minh bạch, rõ ràng trách nhiệm hình sự giữa tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với một số tội phạm khác trong BLHS như đã nêu tại tiểu mục 2.2.5.3 Mục 2.2.5 Chương 2 Luận án đó là quy định tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại khoản 3 Điều 150 và khoản 3 Điều 151 BLHS. Chính vì thế, việc bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 BLHS là giải pháp để giải quyết những khó khăn, vướng mắc này, cụ thể:Một là, theo quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS thì lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân là mục đích của người phạm tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi và là dấu hiệu bắt buộc tại cấu thành cơ bản của hai tội danh này. Khi mục đích lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân được người phạm tội được thực hiện trên thực tế thì sẽ trở thành tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” quy định tại khoản 3 của hai điều luật này. Để hướng dẫn tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự này, Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/02/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của BLHS quy định “đã lấy bộ phân cơ thể của nạn nhân là trường hợp người phạm tội mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi sau đó đã lấy đi bộ phận cơ thể của nạn nhân. Trường hợp người phạm tội đã lấy bộ phận cơ thể quyết định sự sống của nạn nhân như tim, buồng gan… làm nạn nhân chết thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS”157.Phân tích kỹ quy định này của Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP thì có thể thấy rằng, nội dung này của Nghị quyết chưa thực sự thống nhất và phù hợp với quy định tại Điều 123 BLHS, lại chưa đảm bảo phản ánh đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Bởi lẽ, theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS về tội giết người thì việc lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Hành vi giết người được thực hiện trước, sau khi nạn nhân chết thì người phạm tội tiếp tục thực hiện hành vi lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân. Trong khi đó, người phạm tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi đã thực hiện đầy đủ các hành vi được mô tả trong cấu thành cơ bản của tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi và việc lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân bị mua bán được thực hiện khi nạn nhân đang còn sống. Như vậy, với quy định của Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP thì việc lấy đi bộ phận cơ thể quyết định sự sống của nạn nhân dẫn tới nạn nhân bị chết thì truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người (điểm h khoản 1 Điều 123), trong khi đó, cùng với hành vi phạm tội như nhau, nhưng lấy đi bộ phận cơ thể không quyết định sự sống của nạn nhân thì lại truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người (điểm b khoản 3 Điều 150).Nếu bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 BLHS thì trường hợp người thực hiện hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi, sau đó lấy đi bộ phận cơ thể quyết định sự sống của nạn nhân thì cùng với tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi, người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS; trường hợp thực hiện hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi, sau đó lấy đi bộ phận cơ thể không quyết định sự sống của nạn nhân thì cùng với tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi, người đó còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người tại Điều 154 BLHS. Quy định này sẽ đảm bảo sự minh bạch, rõ ràng trong việc phân định trách nhiệm hình sự của người phạm tội, cũng như đảm bảo sự phù hợp, thống nhất giữa các điều luật của BLHS.Hai là, BLHS năm 2015 quy định mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người là một tội danh độc lập tại Điều 154, theo đó, người nào mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người khác thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người quy định tại Điều 154 BLHS. Như đã phân tích về sự khác biệt giữa tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người tại tiết 2.2.1.3 tiểu mục 2.2.1 Mục 2.2 Chương 2 Luận án thì việc phân biệt giữa các tội danh này mới chỉ căn cứ vào cấu thành cơ bản của tội phạm. Nếu căn cứ vào tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi thì rất khó phân biệt giữa tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người, bởi hành vi khách quan của các tội danh này có sự tương đồng, đó là hành vi chuyển giao người hoặc tiếp nhận người để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất khác và bộ phận cơ thể người đã được lấy đi. Trong trường hợp này, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội mua bán người/tội mua bán người dưới 16 tuổi hoặc về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người đều phù hợp và đúng với quy định của pháp luật hình sự.Nếu bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 BLHS thì việc phân biệt giữa tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi với tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người tại Điều 154 sẽ được rõ ràng, minh bạch hơn. Theo đó, trường hợp người thực hiện hành vi mua bán người, sau đó lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân (bộ phận không quyết định sự sống của người đó) thì cùng với tội mua bán người, người đó phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người quy định tại Điều 154 BLHS. Điều này cũng sẽ phù hợp với cách quy định đối với các tình tiết “để bóc lột tình dục”, “để cưỡng bức lao động” hoặc “vì mục đích vô nhân đạo khác” của Điều 150 và Điều 151 khi chỉ quy định các dấu hiệu này ở cấu thành cơ bản của tội phạm mà không tiếp tục quy định là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự như phân tích ngay đoạn dưới đây.Ba là, theo quy định tại khoản 1 Điều 150 và khoản 1 Điều 151 thì mục đích của người thực hiện hành vi mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi là một trong ba yếu tố bắt buộc trong cấu thành cơ bản của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi. Theo đó, người thực hiện hành vi mua bán người vì nhiều mục đích khác nhau, trong đó có các mục đích “để bóc lột tình dục”, “để cưỡng bức lao động” hoặc “để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân”. Trong số ba mục đích này thì mục đích “để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại cấu thành cơ bản của tội phạm tiếp tục được quy định là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội nếu mục đích đó được thực hiện trên thực tế là “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151. Tuy nhiên, với hai mục đích còn lại là “để bóc lột tình dục” và “để cưỡng bức lao động” thì cả hai điều luật này lại không tiếp tục quy định là tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự nếu việc bóc lột tình dục hoặc cưỡng bức lao động đã được thực hiện trên thực tế là “đã bóc lột tình dục” hoặc “đã cưỡng bức lao động” tương tự như cách quy định về tình tiết “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân”. Điều này dẫn tới một bất cập, đó là trường hợp người thực hiện hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi, nếu sau đó lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi theo khoản 3 Điều 150 hoặc khoản 3 Điều 151 với tình tiết định khung tăng nặng là “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân”. Tuy nhiên, cũng tương tự như vậy, trường hợp người thực hiện hành vi mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi, sau đó hiếp dâm nạn nhân hoặc ép buộc nạn nhân phục vụ nhu cầu tình dục cho cả nhà họ hoặc ép buộc họ phải lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại thì cùng với việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người hoặc tội mua bán người dưới 16 tuổi, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự cả về tội hiếp dâm/hiếp dâm người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 141 hoặc Điều 142 BLHS hoặc tội cưỡng bức lao động quy định tại Điều 297 BLHS. Như vậy, với trường hợp này thì chính sách hình sự là chưa đảm bảo sự công bằng, minh bạch, bởi hành vi phạm tội là như nhau, nhưng người phạm tội mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi nếu sau đó đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội, nhưng người phạm tội mua bán người hoặc mua bán người dưới 16 tuổi nếu sau đó cưỡng bức lao động nạn nhân hoặc bóc lột tình dục nạn nhân thì lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội danh khác nhau với chính sách tổng hợp hình phạt.Chính vì thế, việc bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 sẽ đảm bảo được chính sách hình sự công bằng, minh bạch giữa các trường hợp phạm tội như đã nêu ở trên.Bốn là, tại tiết 2.2.5.3 tiểu mục 2.2.5 mục 2.2 Chương 2 Luận án có nêu một trong những bất cập, hạn chế của Điều 150 và Điều 151 đó là quy định tình tiết "lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân" tại cấu thành cơ bản cũng như tại khung tăng nặng trách nhiệm hình sự của Điều 150 và Điều 151 là chưa thực sự phù hợp với quy định tại Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006. Theo quy định của Luật này thì mô và bộ phận cơ thể người đều có thể được hiến, lấy, ghép từ cơ thể người này sang cơ thể người khác. Như vậy, có thể thấy mô không được coi là bộ phận cơ thể nhưng cũng có thể được lấy, ghép, hiến tặng cho người khác. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 150 và Điều 151 BLHS thì “lấy bộ phận cơ thể” hoặc “đã lấy bộ phận cơ thể nạn nhân” là dấu hiệu trong cấu thành cơ bản hoặc tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự. Theo đó, bộ phận cơ thể quy định tại hai điều luật này được hiểu là những bộ phận cơ thể người được quy định tại Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 mà không bao gồm mô. Điều này dẫn tới thực tế là trường hợp người phạm tội mua bán người hoặc phạm tội mua bán người dưới 16 tuổi vì mục đích “lấy mô” thì mục đích này không được coi là đã thoả mãn yếu tố bắt buộc trong cấu thành cơ bản của hai tội phạm này hoặc trường hợp “đã lấy mô của nạn nhân” cũng không được coi là phạm tội thuộc trường hợp có tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” quy định tại khoản 3 Điều 150 và khoản 3 Điều 151.Do vậy, cùng với việc bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể người” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 thì bên cạnh mục đích “lấy bộ phận cơ thể người” tại cấu thành cơ bản của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi, Điều 150 và Điều 151 cũng cần bổ sung mục đích lấy mô của nạn nhân. Việc sửa đổi, bổ sung này sẽ đảm bảo thống nhất, phù hợp với quy định của Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006 và phù hợp với quy định tại Điều 154 BLHS về tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người, đồng thời bao quát các trường hợp phạm tội có thể xảy ra trong thực tiễn cuộc sống.Từ những phân tích, đánh giá trên, có thể thấy, việc bỏ tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự “đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” tại điểm b khoản 3 Điều 150 và điểm d khoản 3 Điều 151 BLHS sẽ là phương án tối ưu nhất để giải quyết những bất cập, hạn chế của BLHS cũng như giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.d) Nâng độ tuổi nạn nhân bị mua bán tại Điều 151 là người dưới 18 tuổi thay vì quy định là người dưới 16 tuổi và sửa tên tội danh cho phù hợpTheo Công ước của LHQ về quyền trẻ em thì “trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”158. Mặc dù Công ước của LHQ về quyền trẻ em không bắt buộc mọi quốc gia phải tuân thủ yêu cầu quy định độ tuổi của trẻ em là người dưới 18 tuổi, nhưng việc coi trẻ em là người dưới 18 tuổi đã được cả cộng đồng quốc tế công nhận và tuân thủ. Việc khẳng định độ tuổi của trẻ em được quy định lại tại Điều 3 NĐT về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em theo đó, “trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi”. Với quan điểm này, Điều 3 và Điều 5 NĐT yêu cầu các quốc gia thành viên phải hình sự hoá hành vi buôn bán trẻ em là người dưới 18 tuổi. Như vậy, theo NĐT thì hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp, chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 18 tuổi nhằm mục đích bóc lột được coi là phạm tội buôn bán trẻ em khi những hành vi này được thực hiện mà không dùng đến bất cứ phương thức hoặc thủ đoạn nào. Đây là điểm khác biệt với quy định về tội buôn bán người mà NĐT đưa ra (nạn nhân là những người từ đủ 18 tuổi trở lên).Trong khi đó, pháp luật Việt Nam quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi159. Theo đó, mua bán trẻ em là mua bán người dưới 16 tuổi và được quy định tại Điều 151 BLHS về tội mua bán người dưới 16 tuổi. Như đã phân tích tại tiết 2.2.1.2 tiểu mục 2.2.1 Mục 2.2 Chương 2 Luận án về dấu hiệu định tội của tội mua bán người dưới 16 tuổi thì với tội phạm này, chỉ cần đủ hai yếu tố là hành vi và mục đích mà không cần yếu tố thủ đoạn. Như vậy, yếu tố cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi của BLHS năm 2015 là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của NĐT về ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Tuy nhiên, đối với trường hợp mua bán người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (mà NĐT coi là trẻ em) thì quy định của pháp luật hình sự Việt Nam chưa tương thích, phù hợp với NĐT. Bởi lẽ, theo quy định của BLHS năm 2015 thì hành vi mua bán người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không thuộc phạm vi điều chỉnh của tội mua bán trẻ em mà thuộc phạm vi điều chỉnh của tội mua bán người và để cấu thành tội này thì cần phải có đầy đủ ba yếu tố là: hành vi, thủ đoạn và mục đích. Trường hợp chỉ có hai yếu tố: hành vi và mục đích mà không có yếu tố thủ đoạn thì hành vi mua bán người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không cấu thành tội mua bán người. Trong khi đó, theo quy định của NĐT thì hành vi buôn bán người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi chỉ cần hai yếu tố là hành vi và mục đích là đã cấu thành nên tội buôn bán trẻ em.Như vậy, quy định tại Điều 151 BLHS chưa tương thích, phù hợp với pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới về độ tuổi của trẻ em sẽ tạo ra nhiều khó khăn, thách thức cho việc đấu tranh với loại tội phạm này, đồng thời chưa tạo cơ sở pháp lý vững chắc để bảo vệ triệt để quyền và lợi ích của người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Vì thế, giải pháp nâng độ tuổi trẻ em lên 18 tuổi nói chung và sửa đổi quy định tại Điều 151 BLHS theo hướng mở rộng đối tượng nạn nhân được bảo vệ theo điều luật này là những người dưới 18 tuổi thay cho 16 tuổi như quy định hiện hành không chỉ đáp ứng yêu cầu của chuẩn mực quốc tế, phù hợp với pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, góp phần tăng cường hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động hợp tác quốc tế để đấu tranh với các loại tội phạm, trong đó có tội mua bán trẻ em, mà còn tạo ra những chính sách pháp luật để bảo vệ tốt hơn cho các em trong độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, đó là những người chưa phát triển đầy đủ, trọn vẹn về thể chất và tinh thần. Với sửa đổi, bổ sung này thì tên gọi và nội dung điều luật sẽ có những sửa đổi phù hợp.đ) Bỏ quy định “trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo” tại Điều 151Tại tiết 2.2.5.4 tiểu mục 2.2.5 mục 2.2 Chương 2 Luận án đã nhận diện một trong những bất cập, hạn chế của Điều 151 BLHS đó chính là quy định “trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo” tại cấu thành cơ bản của tội mua bán người dưới 16 tuổi, vì quy định này chưa đảm bảo sự thống nhất và phù hợp với pháp luật về Nuôi con nuôi và pháp luật về Hôn nhân và Gia đình.Theo quy định tại Điều 151 BLHS thì một trong các hành vi cấu thành tội mua bán người dưới 16 tuổi là “chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo”. Để thuận lợi cho việc áp dụng quy định này trong thực tiễn, Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/9/2019 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật hình sự đã hướng dẫn trường hợp “vì mục đích nhân đạo” quy định tại Điều 151 BLHS là “người biết người khác thực sự có nhu cầu nuôi con nuôi (do hiếm muộn hoặc có lòng yêu trẻ) đã môi giới cho người này xin con nuôi của người có hoàn cảnh gia đình khó khăn không có điều kiện nuôi con, muốn cho con đẻ của mình đi làm con nuôi và nhận một khoản tiền từ việc cho con và việc môi giới. Đây là trường hợp vì mục đích nhân đạo nên người môi giới, người cho con mình đi làm con nuôi và người nhận con nuôi không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán người dưới 16 tuổi”.Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì trong mọi trường hợp, việc cho, nhận con nuôi phải đáp ứng các điều kiện và tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Luật Nuôi con nuôi. Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi và Luật Hôn nhân và Gia đình thì quan hệ nuôi con nuôi giữa cha nuôi, mẹ nuôi và con nuôi chỉ được xác lập theo quy định của Luật Nuôi con nuôi, nghĩa là pháp luật chỉ thừa nhận quan hệ nuôi con nuôi khi được thực hiện theo đúng quy định của Luật Nuôi con nuôi. Bên cạnh đó, một trong các hành vi bị cấm mà Luật Nuôi con nuôi quy định tại Điều 13 đó là “lợi dụng việc nuôi con nuôi để vi phạm pháp luật”. Như vậy, việc quy định loại trừ trường hợp “vì mục đích nhân đạo” tại Điều 151 BLHS và được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP nêu trên là chưa đảm bảo phù hợp và thống nhất trong hệ thống pháp luật, thậm chí quy định này còn có khả năng dẫn tới tình trạng bị lợi dụng để thực hiện hành vi mua bán người dưới 16 tuổi. Chính vì thế, việc bỏ quy định “trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo” tại điểm a khoản 1 Điều 151 BLHS về tội mua bán người dưới 16 tuổi là cần thiết để đảm bảo không có kẽ hở trong quy định của pháp luật, cũng như có sự thống nhất trong hệ thống pháp luật. Theo đó, trong mọi trường hợp cho, nhận con nuôi mà không tuân thủ đúng quy định của Luật Nuôi con nuôi đều bị coi là vi phạm pháp luật và tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở những đề xuất nêu trên, Điều 150 và Điều 151 BLHS sẽ được sửa đổi. 3.2.1.2. Nghiên cứu khả năng sửa đổi Điều 1, Điều 2 và Điều 8 BLHS theo hướng cho phép quy định tội phạm và hình phạt tại các đạo luật chuyên ngành, trong đó có Luật Phòng, chống mua, bán ngườiCó thể thấy, trong khoảng thời gian gần 40 năm kể từ khi được ban hành lần đầu tiên vào năm 1985, BLHS của Nhà nước ta đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung (các năm 1989, 1997, 1999, 2009, 2015 và 2017), trong đó có hai lần sửa đổi cơ bản, toàn diện vào năm 1999 và năm 2015. Bên cạnh ưu điểm là làm cho các quy định của BLHS đáp ứng kịp thời với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm trong từng giai đoạn phát triển, thì việc sửa đổi, bổ sung quá nhiều lần trong một khoảng thời gian ngắn làm cho các quy định của BLHS không có tính ổn định cao. Điều này gây khó khăn lớn trong quá trình áp dụng các quy định của BLHS vào thực tiễn. Hơn nữa, mặc dù sửa đổi, bổ sung nhiều lần như vậy nhưng nhìn chung BLHS vẫn còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với yêu cầu thực tiễn. Một trong những nguyên nhân do BLHS quy định tất cả các tội phạm thuộc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tương đối ổn định nhưng có nhiều lĩnh vực có tính biến động cao, đặc biệt là các phương thức, thủ đoạn phạm tội cũng như quy mô, tính chất, mức độ nguy hiểm ngày một thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, nhất là trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bên cạnh đó, việc quy định tất cả các tội phạm thuộc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong BLHS còn dẫn tới tình trạng thiếu sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, mà cụ thể là giữa quy định của BLHS với quy định của các đạo luật chuyên ngành, nếu BLHS không được sửa đổi, bổ sung kịp thời. Điều này dẫn tới thực trạng là mỗi khi pháp luật chuyên ngành của một lĩnh vực nào đó có thay đổi thì đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung BLHS, nếu không sẽ nảy sinh bất cập, vướng mắc. Điều này tạo ra một áp lực không nhỏ về quy trình sửa đổi, bổ sung các quy định của BLHS với ý nghĩa là một trong những Bộ luật quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật ở nước ta.Qua nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của tội mua bán người, tội mua bán trẻ em tại Chương 2 Luận án này, có thể thấy rằng, mua bán người và mua bán trẻ em là loại tội phạm có nhiều biến động cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, trong khu vực và trên toàn thế giới. Điều này thể hiện ở việc BLHS Việt Nam đã qua sáu lần sửa đổi, bổ sung kể từ năm 1985 đến nay thì có tới bốn lần sửa đổi, bổ sung có sửa đổi, bổ sung tội mua bán người và tội mua bán trẻ em. Nghiên cứu kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới quy định về tội phạm và hình phạt của tội mua bán người, tội mua bán trẻ em tại Chương 2 Luận án thấy rằng, một số quốc gia trên thế giới như Liên bang Nga, Liên bang Đức, Canada hay Australia đều quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi mua bán người, mua bán trẻ em ngay tại BLHS, nhưng một số quốc gia khác, đặc biệt là các quốc gia trong khu vực như Campuchia, Myanmar, Phillippine, Thái Lan, Malaysia, Sierra Leone... thì lại quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi mua bán người, mua bán trẻ em tại đạo luật riêng về phòng, chống mua bán người. Với mỗi cách quy định sẽ có những ưu điểm nhất định, tuy nhiên, việc quy định tại một đạo luật chuyên ngành như một số quốc gia sẽ tạo điều kiện quy định cụ thể hơn, chi tiết các hành vi phạm tội, vừa bảo đảm tính ổn định của BLHS vừa đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong các lĩnh vực nhờ hệ thống các luật “vệ tinh”. Tuy nhiên, cũng cần phải khẳng định rằng, việc quy định tội phạm và hình phạt đối với một số tội danh cụ thể tại các đạo luật chuyên ngành cần phải tuân thủ đầy đủ và trên cơ sở các quy định tại Phần chung và các quy định khác của BLHS.Với hướng nghiên cứu này, cùng với việc quy định tội phạm và hình phạt của một số tội danh trong một số lĩnh vực cụ thể tại các đạo luật chuyên ngành thì cần nghiên cứu sửa đổi nội dung quy định tại một số điều luật của BLHS, cụ thể là Điều 1 về nhiệm vụ của BLHS; Điều 2 về cơ sở của trách nhiệm hình sự và Điều 8 về khái niệm tội phạm với chủ trương bất cứ người nào hoặc pháp nhân thương mại nào đều phải chịu trách nhiệm hình sự nếu phạm một tội đã được quy định tại BLHS hoặc tại một đạo luật chuyên ngành có quy định tội phạm và hình phạt.Theo: Lê Thị Vân AnhLink luận án: https://docs.google.com/document/d/1bAJCIP8lEBJjb5g5cSJq6ExZ7fNcQoTC/edit