0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file649013b11ad6e-LÝ-LUẬN-VỀ-KẾT-HÔN-TRÁI-PHÁP-LUẬT-.jpg.webp

LÝ LUẬN VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT


 

2.1. Lý luận về kết hôn trái pháp luật

2.1.1. Khái niệm kết hôn

Theo từ điển tiếng Việt, “kết hôn” được hiểu là “việc nam, nữ chính thức lấy nhau thành vợ, chồng”10. Dưới góc độ xã hội, “kết hôn” được hiểu là “một nghi thức xác lập quan hệ vợ chồng”11. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, “kết hôn” được hiểu là “sự liên kết giữa một người nam và một người nữ trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện theo điều kiện và trình tự nhất định, nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc hòa thuận”12. Theo cách định nghĩa này, kết hôn được hiểu dưới góc độ pháp lý, do đó, khái niệm kết hôn đã bị thu hẹp.

Khi xã hội loài người mới được hình thành, chưa có quan hệ HN&GĐ, chưa tồn tại khái niệm kết hôn. Quan hệ giữa người đàn ông và người đàn bà gọi là quan hệ tính giao. Ban đầu, quan hệ ấy mang tính chất bầy đàn và bừa bãi, tức là chưa có sự lựa chọn ngôi thứ thích thuộc, mọi người đàn bà đều thuộc về mọi người đàn ông và ngược lại.

Sau đó, các hình thái HN&GĐ dần dần xuất hiện, đầu tiên là gia đình huyết tộc. Trong gia đình này bắt đầu có sự ngăn cấm quan hệ tính giao giữa cha mẹ và con. Hôn nhân được hình thành theo thế hệ. Cha mẹ là một nhóm quan hệ hôn nhân và con cái là một nhóm quan hệ hôn nhân, quan hệ tính giao chỉ được thực hiện trong phạm vi nhóm đó. Như vậy, vẫn tồn tại quan hệ tính giao giữa nhiều người, anh chị em có thể quan hệ tính giao với nhau. Tiếp theo, là gia đình Punaluan, trong gia đình này có sự ngăn cấm quan hệ tính giao giữa anh chị em ruột với nhau. Anh chị em ruột được tính theo đằng mẹ vì không thể xác định được cha của một đứa trẻ. Gia đình Punaluan trải qua nhiều thế hệ, dần dần hình thành thị tộc mẫu quyền, trong đó bao gồm những người có cùng huyết thống về đằng mẹ và không có quyền lấy nhau. Gia đình huyết tộc và gia đình Punaluan gọi chung là chế độ quần hôn. Trong đó vẫn tồn tại việc chung chạ vợ chồng, trên cơ sở nền kinh tế công hữu nguyên thủy. Bước phát triển tiếp theo là gia đình đối ngẫu hay còn gọi là gia đình cặp đôi, tồn tại tình trạng quan hệ tính giao theo từng cặp “những kiểu kết hôn từng cặp đã trở thành tập quán như thế nhất định là càng thêm vững chắc. Chế độ quần hôn ngày càng không thể thực hiện được; chế độ ấy bị gia đình cặp đôi thay thế”13. Gia đình này phát triển theo hướng tồn tại tình trạng một người đàn ông chung sống với một người đàn bà. Ở hình thái gia đình này, trong thời gian chung sống, các bên vẫn phải tuân theo những thông lệ đặc biệt “…Người phụ nữ phải triệt để chung tình trong thời gian chung sống với chồng, và tội ngoại tình của họ sẽ bị trừng trị một cách tàn ác”14. Đây chính là cơ sở để sau này hình thành gia đình một vợ một chồng. Có thể thấy rằng, với việc mở rộng phạm vi ngăn cấm quan hệ tính giao giữa những người cùng huyết thống là tiền đề quan trọng để xác định tính hợp pháp của quan hệ kết hôn sau này. Trong tiến trình phát triển của xã hội đã xuất hiện sự tư hữu, chế độ thị tộc và nhà nước ra đời, gia đình một vợ một chồng cổ điển xuất hiện. Gia đình một vợ một chồng là một đơn vị kinh tế độc lập, không còn phụ thuộc vào nền kinh tế thị tộc như gia đình đối ngẫu nữa, quan hệ vợ chồng chặt chẽ hơn, các bên không thể tuỳ ý phá vỡ quan hệ. Nhưng chế độ một vợ một chồng thời kỳ này không hề cản trở việc có nhiều vợ công khai hay bí mật của người chồng. Đối với người vợ chính thức, họ phải giữ trinh tiết và lòng trung thành với chồng một cách nghiêm cẩn nhất. Như vậy, bản chất của nó là chỉ một vợ một chồng về phía người phụ nữ chứ không phải về phía người đàn ông. Với bản chất ấy đã làm cho chế độ một vợ một chồng trở nên mâu thuẫn và giả tạo. Như vậy, khi nhà nước xuất hiện, gia đình một vợ một chồng được hình thành. Đó là sự liên kết giữa hai người: nam và nữ để hình thành nên mối quan hệ HN&GĐ. Đây được coi là cơ sở lịch sử xã hội để hình thành nên khái niệm kết hôn.

Trong cổ luật Việt Nam cũng như quan niệm xã hội về kết hôn, người ta thường dùng thuật ngữ “giá thú” hoặc “hôn thú”. Đây là từ Hán Việt, “theo quan niệm cổ luật ở Việt Nam, giá thú là sự phối hợp được pháp luật công nhận, giữa một người đàn ông và một người đàn bà với mục đích lập gia đình, sinh con để nối dõi và thờ phụng tổ tiên”15.

Về bản chất pháp lý của giá thú, cần xem xét là “một khế ước hay một định chế? Trong việc giá thú, sự ưng thuận của hai vợ chồng là một điều kiện căn bản, vì vậy người ta có thể coi giá thú như một khế ước do sự thoả thuận của hai bên kết lập mà thành. Tuy nhiên, xét cho kỹ, bản chất của giá thú không giống bản chất của các khế ước khác. Hai vợ chồng không thể tự mình ấn định các điều kiện và hiệu lực của giá thú theo ý riêng cũng như trong các khế ước. Trái lại, điều kiện và hiệu lực đối với hai vợ chồng cũng như đối với các con đã do các điều khoản trong luật quy định sẵn; các điều khoản đó thường liên quan đến trật tự chung trong xã hội, các đương sự không thể sửa chữa được, thay đổi ý riêng. Vì lẽ ấy, một phần học lý đã coi giá thú là một định chế (une institution) chứ không phải một khế ước (un contract).”16. Cách lập luận này cho thấy giá thú có những điểm khác biệt so với một khế ước (một hợp đồng). Giá thú không chỉ nói lên sự thoả thuận tự nguyện của các bên nam nữ mà còn hướng tới một trật tự công, phù hợp với phong tục tập quán và đạo đức truyền thống. Đây cũng được coi là cơ sở lý luận để giải quyết vấn đề kết hôn trái pháp luật và biện pháp xử lý đối với việc kết hôn trái pháp luật khi vi phạm trật tự công và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác có liên quan.

Trong xã hội hiện đại, quan niệm về kết hôn cũng khác nhau và trên thực tế sẽ có các trường hợp: Hai bên nam, nữ thỏa thuận về chung sống với nhau, bản thân họ tự coi nhau là vợ chồng; Hai bên nam, nữ tổ chức lễ cưới được họ hàng và bạn bè xung quanh thừa nhận; Hai bên nam, nữ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn, được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Như vậy, có nhiều hình thức được hai bên nam nữ lựa chọn để chung sống với nhau. Mối quan hệ giữa họ có thể được họ hàng, bạn bè, những người xung quanh thừa nhận hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận. Xét theo nghĩa rộng, tất cả các trường hợp trên đều được coi là kết hôn để xác lập quan hệ hôn nhân, quan hệ vợ chồng. Bởi từ góc độ quyền con người, quyền kết hôn là một trong những quyền tự do của cá nhân, họ có thể thể hiện quyền tự do kết hôn theo cách mà họ mong muốn để tham gia vào một quan hệ kết hôn. Theo nguyên tắc đề cao quyền con người, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn….. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng….”17. Ở đây, nhà làm luật đã dùng cụm từ “nam, nữ” mà không dùng cụm từ “mọi người” hoặc “công dân” như các điều luật khác để thể hiện thái độ và quan điểm lập pháp trong việc thừa nhận quyền tự do kết hôn của nam, nữ. Tuy nhiên, do việc kết hôn không chỉ phát sinh hậu quả đối với hai người kết hôn mà còn liên quan đến người khác, đến đạo đức xã hội và luân thường đạo lý nên quyền tự do kết hôn của cá nhân phải được đặt trong những giới hạn cần thiết theo nguyên tắc không xâm phạm lợi ích của người khác và lợi ích chung của xã hội. Chẳng hạn, việc kết hôn giữa anh chị em con chú, con bác vừa gây ra hậu quả xấu đối với con cái, vừa xâm phạm nghiêm trọng đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Do đó, quyền tự do kết hôn của nam, nữ phải được thực hiện trong những điều kiện nhất định và phải thực hiện theo trình tự, thủ tục nhất định18. Điều đó hoàn toàn không hạn chế quyền tự do kết hôn, đồng thời vẫn đảm bảo lợi ích của gia đình và xã hội.

Trong hệ thống pháp luật nước ta trước năm 1945 chưa có văn bản chính thức nào đề cập đến khái niệm kết hôn19. Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986 cũng không đưa ra khái niệm kết hôn. Theo cách quy định trong chế định kết hôn và các chế định có liên quan thì Luật HN&GĐ năm 1959 chỉ thừa nhận hình thức kết hôn được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền:“Việc kết hôn phải được Uỷ ban hành chính cơ sở nơi trú quán của bên người con trai hoặc bên người con gái công nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị về mặt pháp luật”20. Tuy nhiên, một số các điều luật khác lại thể hiện việc thừa nhận cả hình thức kết hôn theo phong tục tập quán: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”21. Điều này có nghĩa là kể từ thời điểm tổ chức lễ cưới, tài sản của vợ hoặc chồng có trước khi cưới trở thành tài sản chung của vợ chồng. Và khi đã là vợ chồng, sau khi cưới thì vợ, chồng không có tài sản riêng. Mọi tài sản riêng của vợ hoặc chồng có trước khi cưới thì sau khi cưới đều là tài sản chung của hai vợ chồng, được sử dụng để đảm bảo những nhu cầu chung của gia đình. Quy định này vô hình chung đã thừa nhận đám cưới theo phong tục tập quán chính là nghi thức để xác lập quan hệ vợ chồng.

Trong thời gian Luật HN&GĐ năm 1959 được áp dụng, TANDTC thừa nhận hôn nhân thực tế qua hình thức kết hôn theo phong tục tập quán khi đáp ứng các yêu cầu nhất định. Luật HN&GĐ năm 1986 cũng quy định tương tự như vậy. Luật HN&GĐ năm 2000 đã đưa ra khái niệm kết hôn như sau: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”23. Từ khái niệm này cho thấy, để được coi là kết hôn thì một điều kiện bắt buộc là phải có đăng ký kết hôn, nếu hai bên nam nữ không đăng ký kết hôn thì không thể gọi là kết hôn, giữa họ không tồn tại quan hệ hôn nhân. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cụ thể hơn “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”24. Như vậy, khái niệm kết hôn hợp pháp là: tuân thủ điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hôn và nhằm mục đích xác lập quan hệ vợ chồng.

Tuy nhiên, khái niệm kết hôn có thể hiểu từ hai góc độ: xã hội và pháp lý. Dưới góc độ pháp lý, có thể xem xét từ hai khía cạnh: kết hôn với tư cách là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân và kết hôn với tư cách là một quan hệ pháp luật:

* Kết hôn với tư cách là sự kiện pháp lý:

Với tư cách là một sự kiện pháp lý, kết hôn là một cấu thành sự kiện. “Trong Luật HN&GĐ, với tư cách và điều kiện làm phát sinh quan hệ pháp luật, trước hết, phải kể đến cấu thành sự kiện, nghĩa là tổng hợp các sự kiện pháp lý. Cấu thành sự kiện thông thường hỗn hợp, có thể là sự kiện, có thể là hành vi… Cấu thành sự kiện làm phát sinh quan hệ pháp luật HN&GĐ thường có hai, ba sự kiện…”25. Đây cũng là một đặc thù của sự kiện pháp lý trong các quan hệ HN&GĐ. Trong việc kết hôn, yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy hai bên nam nữ kết hôn với nhau là tình cảm - tình yêu chân chính. Nhưng cái thể hiện ra bên ngoài là hành vi của hai bên nam nữ qua hồ sơ đăng ký kết hôn, thể hiện ý chí tự nguyện; kèm theo đó còn phải là hành vi của cán bộ cơ quan đăng ký hộ tịch kiểm tra tính hợp pháp của việc kết hôn và ký giấy đăng ký kết hôn thì mới đủ cơ sở để xác lập quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Như vậy, sự kiện hai bên nam nữ mong muốn trở thành vợ chồng phải đi kèm với một thủ tục pháp lý nhất định mới đủ cơ sở để kết hôn và trở thành vợ chồng của nhau. Sự kiện kết hôn là mối quan hệ giữa hai chủ thể có đầy đủ các điều kiện theo luật định mới có thể tham gia vào quan hệ kết hôn. Việc hình thành một quan hệ pháp luật HN&GĐ nói chung, quan hệ pháp luật giữa vợ chồng nói riêng, luôn có một nét đặc thù là phải có sự chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này nhằm đảm bảo lợi ích của các chủ thể, của gia đình và lợi ích chung của xã hội. Đây cũng là yếu tố để khẳng định sự khác nhau giữa hành vi pháp lý đơn phương với việc kết hôn. Ngay cả trong trường hợp một bên bị cưỡng ép  kết hôn thì cuối cùng họ vẫn phải thể hiện ý chí ra bên ngoài bằng hành vi muốn kết hôn với một ai đó. Pháp luật không thể kiểm soát được tình cảm của họ trong việc kết hôn.

Vậy, với tư cách là sự kiện pháp lý, kết hôn là việc hai bên nam nữ trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc xác lập quan hệ vợ chồng theo trình tự, thủ tục luật định.

* Kết hôn với tư cách là quan hệ pháp luật

Trong việc kết hôn sẽ nảy sinh các mối quan hệ giữa các chủ thể với nhau, giữa các chủ thể với cơ quan đăng ký kết hôn. Trong đó, các bên chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhằm đạt được những lợi ích và mục đích nhất định. Những mối quan hệ này được các qui phạm pháp luật nội dung và các qui phạm pháp luật hình thức điều chỉnh. Trong quá trình thực hiện việc kết hôn, các bên chủ thể cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền luôn phải căn cứ vào pháp luật nội dung, tức là căn cứ vào các quy phạm pháp luật HN&GĐ để xem xét các bên có đủ điều kiện kết hôn hay không; căn cứ vào quy phạm pháp luật về hộ tịch áp dụng thủ tục đăng ký kết hôn.

Như vậy, với tư cách là quan hệ pháp luật, kết hôn là các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể kết hôn với nhau, giữa các chủ thể kết hôn với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn được các quy phạm pháp luật điều chỉnh.

Kết hôn với tư cách là quan hệ pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau:

- Kết hôn là quan hệ xã hội, tồn tại một cách khách quan, bị chi phối bởi phong tục, tập quán, truyền thống, tình cảm và đạo đức xã hội. Pháp luật điều chỉnh quan hệ này để nó phát triển theo một trật tự nhất định, đảm bảo sự dung hoà giữa lợi ích của cá nhân, gia đình với lợi ích chung của xã hội;

- Kết hôn là một quan hệ ý chí vì nó thể hiện ý chí, tình cảm của hai bên kết hôn với nhau và ý chí của họ với nhà nước thông qua việc đăng ký kết hôn. Nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với việc kết hôn thông qua kiểm tra, xác minh sự tuân thủ điều kiện kết hôn của các bên kết hôn, thủ tục kết hôn và hành vi đăng ký kết hôn của cán bộ tư pháp hộ tịch.

- Với tư cách là một quan hệ pháp luật, kết hôn cũng mang những yếu tố cấu thành một quan hệ pháp luật. Bởi vì:

Thứ nhất, về chủ thể: bao gồm chủ thể trong việc kết hôn (hai bên nam, nữ kết hôn) và các bên kết hôn với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do quan điểm lập pháp của Việt Nam chưa thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nên hai chủ thể tham gia việc kết hôn phải là nam và nữ. Quan hệ giữa chủ thể kết hôn với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn chính là quan hệ giữa hai bên nam nữ mong muốn kết hôn với người có thẩm quyền đăng ký kết hôn. Đó là quyền và nghĩa vụ giữa công dân với nhà nước trong việc kết hôn.

Thứ hai, về khách thể: Xác định khách thể trong việc kết hôn là cần thiết bởi đó chính là yếu tố làm nên mục đích của việc kết hôn là nhằm xác lập quan hệ vợ chồng, xây dựng gia đình bền vững. Khách thể của quan hệ vợ chồng là những lợi ích tinh thần và lợi ích vật chất như thực hiện quyền làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ… mà hai chủ thể khi tham gia vào quan hệ kết hôn cùng hướng tới. Khách thể của quan hệ kết hôn là trật tự quản lý nhà nước về hộ tịch, thông qua mối quan hệ giữa chủ thể kết hôn với cơ quan đăng ký kết hôn. Qua đó đảm bảo được quyền, lợi ích của các bên kết hôn cũng như lợi ích của nhà nước. Lợi ích của các bên kết hôn là quan hệ vợ chồng của họ được pháp luật, nhà nước công nhận và bảo vệ. Lợi ích của nhà nước là đảm bảo được trật tự, lợi ích công cộng.

Thứ ba, về nội dung: là các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể. Quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong việc kết hôn được thể hiện trong quy phạm pháp luật của pháp luật Hộ tịch điều chỉnh việc đăng ký kết hôn, luôn phải đảm bảo tính khách quan, chính xác và phù hợp với thực tế đời sống. Như vậy, việc kết hôn mới đảm bảo tính hợp pháp. Quyền của chủ thể trong việc kết hôn là khả năng của chủ thể được kết hôn theo qui định của pháp luật. Bằng chính hành vi của mình, các chủ thể kết hôn sẽ thực hiện quyền kết hôn trên thực tế. Quyền của chủ thể trong việc kết hôn gắn liền với nhân thân của chủ thể kết hôn, không thể chuyển giao cho người khác và không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Khi chủ thể trong quan hệ kết hôn thực hiện quyền kết hôn không được làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, của chính chủ thể còn lại trong quan hệ kết hôn; đồng thời phải đảm bảo không làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của gia đình và xã hội.

Nghĩa vụ của chủ thể trong việc kết hôn là những xử sự mang tính chủ động của chủ thể phải thực hiện để kết hôn và phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không tuân thủ các quy định của pháp luật. Trong pháp luật HN&GĐ nói chung và pháp luật HN&GĐ hiện hành nói riêng, tính chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể trong việc kết hôn được quy định rất rõ ràng. Xét trong mối quan hệ nội dung giữa hai bên kết hôn, họ có nghĩa vụ tuân thủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật HN&GĐ. Giữa các bên phải tự nguyện thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí mong muốn trở thành vợ chồng, không được phép cưỡng ép, lừa dối nhau trong việc kết hôn. Xét trong mối quan hệ giữa hai bên kết hôn với cơ quan đăng ký kết hôn thì quyền và nghĩa vụ của các bên được xác định như sau: Các bên kết hôn phải là người trực tiếp (không được cử người đại diện trong kết hôn) đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn nộp hồ sơ yêu cầu xem xét và tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn, cán bộ hộ tịch có quyền yêu cầu các bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, xuất trình giấy tờ minh chứng cho việc kết hôn, kiểm tra việc tuân thủ điều kiện kết hôn qua hồ sơ đăng ký kết hôn. Nếu các bên kết hôn đủ điều kiện kết hôn thì sẽ tiến hành tổ chức việc đăng ký kết hôn theo quy định.

2.1.2. Khái niệm điều kiện kết hôn

Điều kiện có thể hiểu là cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra; điều kiện cũng có thể hiểu là điều nêu ra như một đòi hỏi trước khi thực hiện một việc nào đó. Như vậy, điều kiện được hiểu là những yêu cầu đặt ra mà chủ thể phải đáp ứng khi định làm một việc gì đó.

Khi nghiên cứu về kết hôn, C.Mác đã viết "không ai bị buộc phải kết hôn, nhưng ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết hôn... Hôn nhân không thể phục tùng sự tùy tiện của người kết hôn mà trái lại sự tùy tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân"27. Dù trong bất kỳ xã hội nào, quyền kết hôn cũng là một trong những quyền tự do của cá nhân, là quyền dân sự cơ bản của con người. Tuy nhiên, do kết hôn không chỉ phát sinh hậu quả đối với hai người kết hôn mà còn liên quan đến người khác, đến đạo đức xã hội và luân thường đạo lý, nên quyền tự do kết hôn của nam, nữ phải tuân thủ những điều kiện nhất định để đảm bảo không xâm phạm lợi ích của người khác và lợi ích chung của toàn xã hội. Như vậy, dưới góc độ pháp lý, việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện nhất định mới có giá trị. Việc nhà nước dùng pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn, tức là nhà nước đã đặt ra những điều kiện cần và đủ mà các chủ thể khi tham gia quan hệ kết hôn phải thực hiện nhằm đảm bảo cho việc kết hôn nói riêng và quan hệ HN&GĐ nói chung phát triển theo chiều hướng nhà nước mong muốn.

Điều kiện kết hôn là những quy định của pháp luật nên vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ quan. Để đặt ra điều kiện kết hôn, nhà nước phải dựa vào rất nhiều các yếu tố như phong tục tập quán, đạo đức truyền thống, tình hình thực tế về HN&GĐ, điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật… do đó, điều kiện kết hôn mang tính khách quan. Bên cạnh đó, pháp luật là ý chí của nhà nước nên bản chất của pháp luật thể hiện trước hết ở tính giai cấp. Tính giai cấp của pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trong xã hội. Nội dung ý chí đó được quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là yếu tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo một mục tiêu, một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Vì vậy, nhà nước luôn định hướng cho các quan hệ kết hôn phát triển theo chiều hướng mà nhà nước mong muốn. Do đó, điều kiện kết hôn mang tính chủ quan. Đây cũng là lý do để giải thích tại sao điều kiện kết hôn ở mỗi thời kỳ khác nhau, ở mỗi quốc gia khác nhau có những quy định khác nhau.

Nghiên cứu điều kiện kết hôn, có thể thấy kỹ thuật lập pháp của nhà làm luật khi nhóm các điều kiện kết hôn theo một logic nhất định. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện và áp dụng các điều kiện kết hôn đối với các bên kết hôn và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều kiện kết hôn được phân thành 2 nhóm như sau:

Thứ nhất, các điều kiện liên quan đến chính bản thân các bên kết hôn, bao gồm độ tuổi kết hôn, sự tự nguyện kết hôn và mức độ nhận thức, điều khiển hành vi của các bên kết hôn. Đây là các điều kiện mà tự thân các bên kết hôn phải đáp ứng được khi muốn tham gia vào quan hệ kết hôn. Có thể gọi đây là yếu tố nội thân của chủ thể kết hôn. Điều kiện này có thể thay đổi theo thời gian và khi xem xét các yếu tố này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đặt nó trong sự vận động và phát triển thì mới đảm bảo tính chính xác khi áp dụng pháp luật về điều kiện kết hôn.

Thứ hai, điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật, đó là các hành vi cấm kết hôn như: Kết hôn giả tạo; Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; Vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng… Đây là những trường hợp mà các bên kết hôn phải loại trừ khi muốn tham gia vào quan hệ hôn nhân. Nếu giữa họ có tình cảm cũng không thể tiến tới việc kết hôn, vì điều đó ảnh hưởng đến những quan hệ khác, trong đó có các mối quan hệ gia đình cần phải giữ gìn, cũng như ảnh hưởng đến trật tự công cộng. Tuy nhiên, các điều kiện kết hôn này, luôn phải được xem xét trong sự vận động và phát triển. Bởi vì, theo nhận thức xã hội, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, điều kiện kinh tế xã hội, hay nói cách khác là sự phát triển chung về mọi mặt của đời sống xã hội, pháp luật sẽ quy định những điều kiện kết hôn cho phù hợp, đảm bảo lợi ích chung, lợi ích của gia đình và cá nhân.

Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về điều kiện kết hôn như sau: “Điều kiện kết hôn là những yêu cầu do pháp luật quy định đối với các bên kết hôn mà các bên kết hôn phải đáp ứng khi tham gia vào quan hệ kết hôn để việc kết hôn được công nhận là hợp pháp”.

2.1.3. Khái niệm kết hôn trái pháp luật

Có thể khẳng định kết hôn là quyền của mỗi con người, nhưng khi kết hôn thì họ phải tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật, phải tuân thủ các điều kiện mà nhà nước quy định. Nếu vi phạm thì việc kết hôn của họ là trái pháp luật. Việc kết hôn trái pháp luật gây ảnh hưởng tiêu cực tới sự ổn định của xã hội, tới sự quản lý của nhà nước. Về góc độ pháp lý, kết hôn trái pháp luật ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi chính đáng của công dân, ảnh hưởng tới nhân quyền, tới sự nghiêm minh của pháp luật. Về mặt xã hội, một gia đình được xây dựng từ những “viên gạch” của sự tự nguyện, tình yêu thương giữa hai bên nam nữ, sự bảo đảm về thể lực và trí lực, các giá trị đạo đức xã hội và phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Khi gia đình được xây dựng trên nền tảng đó mới bảo đảm được sự bền vững, ổn định, hạnh phúc và có thể thực hiện tốt được các chức năng đối với xã hội. Nếu thiếu một trong các điều kiện đó, gia đình sẽ không thể là một tế bào tốt cho xã hội. Ngoài ra, điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật là kết tinh của truyền thống văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Vì vậy, việc vi phạm điều kiện kết hôn sẽ làm ảnh hưởng tới những giá trị văn hoá tốt đẹp của con người Việt Nam, ảnh hưởng tới đạo đức, tư tưởng, lối sống của mỗi cá nhân. Những điều kiện đó được nhà nước quy định dựa trên những quan niệm trong đời sống xã hội, phù hợp với đại đa số quần chúng nhân dân và phù hợp với ý chí của nhà nước. Theo đó, kết hôn trái pháp luật theo quan niệm của Việt Nam chính là việc xác lập quan hệ vợ chồng mà vi phạm các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định. Quan niệm này được hình thành dựa trên chính đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và sự phát triển sinh học của con người Việt Nam.

Tuy nhiên, quan niệm về kết hôn trái pháp luật ở mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia cũng có sự khác nhau. Ở nước ta, trong thời kỳ phong kiến, hôn nhân trái pháp luật được quan niệm là những cuộc hôn nhân không tuân thủ các điều kiện kết hôn như “không môn đăng hộ đối”, những quan hệ hôn nhân không được sự đồng ý của cha mẹ, họ hàng…28 mà không có quy định bắt buộc các bên phải tiến hành đăng ký kết hôn với nhau. Thời kỳ Pháp thuộc, quy định nếu các bên kết hôn mà vi phạm điều kiện kết hôn hoặc không khai với Hương hộ thì đó là “hôn thú vô hiệu”. Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, pháp luật vẫn dùng thuật ngữ “vô hiệu” để chỉ các trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn hoặc không khai với viên chức hộ tịch để đăng ký vào sổ hôn thú. Luật HN&GĐ năm 1959 không quy định về kết hôn trái pháp luật. Luật HN&GĐ năm 1986 cũng không có khái niệm kết hôn trái pháp luật nhưng trong điều luật lại dùng thuật ngữ trái pháp luật “Việc kết hôn vi phạm một trong các điều 5,6,7 của luật này là trái pháp luật”29. Từ đó có thể xác định kết hôn trái pháp luật là việc kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn, không quy định việc kết hôn đó phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Luật HN&GĐ năm 2000 quy định “Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định”30. Luật HN&GĐ năm 2014 cũng quy định tương tự “Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này”31.

Pháp luật của một số nước thuộc hệ thống Tư bản chủ nghĩa có những quy định rất khác với pháp luật Việt Nam về kết hôn hợp pháp và kết hôn trái pháp luật. Bởi do sự tác động của các điều kiện về kinh tế, văn hóa, khí hậu, sinh học… làm cho con người ở đó có sự phát triển và trưởng thành về thể lực cũng như trí lực khác với người Việt Nam dẫn đến quy định về độ tuổi kết hôn cũng khác. Hoặc một số quốc gia lại thừa nhận kết hôn giữa những người đồng giới là hôn nhân hợp pháp…

Như vậy có thể khẳng định, kết hôn trái pháp luật là phải có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm một hoặc nhiều điều kiện kết hôn. Nếu so sánh giữa khái niệm kết hôn và khái niệm kết hôn trái pháp luật có thể thấy cả hai khái niệm này đều có điểm chung là phải có đăng ký kết hôn, nhưng kết hôn trái pháp luật là các bên kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn còn kết hôn hợp pháp là các bên kết hôn tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn. Kết hôn hợp pháp là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ vợ chồng (quan hệ hôn nhân), còn kết hôn trái pháp luật không làm phát sinh quan hệ vợ chồng.

Theo: Đức Thị Hòa

Link luận án: 

https://docs.google.com/document/d/1vSFOdtNZFR3qHSBDXb3DskDOb5u86qGv/edit?rtpof=true

avatar
Đặng Quỳnh
579 ngày trước
LÝ LUẬN VỀ KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
 2.1. Lý luận về kết hôn trái pháp luật2.1.1. Khái niệm kết hônTheo từ điển tiếng Việt, “kết hôn” được hiểu là “việc nam, nữ chính thức lấy nhau thành vợ, chồng”10. Dưới góc độ xã hội, “kết hôn” được hiểu là “một nghi thức xác lập quan hệ vợ chồng”11. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, “kết hôn” được hiểu là “sự liên kết giữa một người nam và một người nữ trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện theo điều kiện và trình tự nhất định, nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc hòa thuận”12. Theo cách định nghĩa này, kết hôn được hiểu dưới góc độ pháp lý, do đó, khái niệm kết hôn đã bị thu hẹp.Khi xã hội loài người mới được hình thành, chưa có quan hệ HN&GĐ, chưa tồn tại khái niệm kết hôn. Quan hệ giữa người đàn ông và người đàn bà gọi là quan hệ tính giao. Ban đầu, quan hệ ấy mang tính chất bầy đàn và bừa bãi, tức là chưa có sự lựa chọn ngôi thứ thích thuộc, mọi người đàn bà đều thuộc về mọi người đàn ông và ngược lại.Sau đó, các hình thái HN&GĐ dần dần xuất hiện, đầu tiên là gia đình huyết tộc. Trong gia đình này bắt đầu có sự ngăn cấm quan hệ tính giao giữa cha mẹ và con. Hôn nhân được hình thành theo thế hệ. Cha mẹ là một nhóm quan hệ hôn nhân và con cái là một nhóm quan hệ hôn nhân, quan hệ tính giao chỉ được thực hiện trong phạm vi nhóm đó. Như vậy, vẫn tồn tại quan hệ tính giao giữa nhiều người, anh chị em có thể quan hệ tính giao với nhau. Tiếp theo, là gia đình Punaluan, trong gia đình này có sự ngăn cấm quan hệ tính giao giữa anh chị em ruột với nhau. Anh chị em ruột được tính theo đằng mẹ vì không thể xác định được cha của một đứa trẻ. Gia đình Punaluan trải qua nhiều thế hệ, dần dần hình thành thị tộc mẫu quyền, trong đó bao gồm những người có cùng huyết thống về đằng mẹ và không có quyền lấy nhau. Gia đình huyết tộc và gia đình Punaluan gọi chung là chế độ quần hôn. Trong đó vẫn tồn tại việc chung chạ vợ chồng, trên cơ sở nền kinh tế công hữu nguyên thủy. Bước phát triển tiếp theo là gia đình đối ngẫu hay còn gọi là gia đình cặp đôi, tồn tại tình trạng quan hệ tính giao theo từng cặp “những kiểu kết hôn từng cặp đã trở thành tập quán như thế nhất định là càng thêm vững chắc. Chế độ quần hôn ngày càng không thể thực hiện được; chế độ ấy bị gia đình cặp đôi thay thế”13. Gia đình này phát triển theo hướng tồn tại tình trạng một người đàn ông chung sống với một người đàn bà. Ở hình thái gia đình này, trong thời gian chung sống, các bên vẫn phải tuân theo những thông lệ đặc biệt “…Người phụ nữ phải triệt để chung tình trong thời gian chung sống với chồng, và tội ngoại tình của họ sẽ bị trừng trị một cách tàn ác”14. Đây chính là cơ sở để sau này hình thành gia đình một vợ một chồng. Có thể thấy rằng, với việc mở rộng phạm vi ngăn cấm quan hệ tính giao giữa những người cùng huyết thống là tiền đề quan trọng để xác định tính hợp pháp của quan hệ kết hôn sau này. Trong tiến trình phát triển của xã hội đã xuất hiện sự tư hữu, chế độ thị tộc và nhà nước ra đời, gia đình một vợ một chồng cổ điển xuất hiện. Gia đình một vợ một chồng là một đơn vị kinh tế độc lập, không còn phụ thuộc vào nền kinh tế thị tộc như gia đình đối ngẫu nữa, quan hệ vợ chồng chặt chẽ hơn, các bên không thể tuỳ ý phá vỡ quan hệ. Nhưng chế độ một vợ một chồng thời kỳ này không hề cản trở việc có nhiều vợ công khai hay bí mật của người chồng. Đối với người vợ chính thức, họ phải giữ trinh tiết và lòng trung thành với chồng một cách nghiêm cẩn nhất. Như vậy, bản chất của nó là chỉ một vợ một chồng về phía người phụ nữ chứ không phải về phía người đàn ông. Với bản chất ấy đã làm cho chế độ một vợ một chồng trở nên mâu thuẫn và giả tạo. Như vậy, khi nhà nước xuất hiện, gia đình một vợ một chồng được hình thành. Đó là sự liên kết giữa hai người: nam và nữ để hình thành nên mối quan hệ HN&GĐ. Đây được coi là cơ sở lịch sử xã hội để hình thành nên khái niệm kết hôn.Trong cổ luật Việt Nam cũng như quan niệm xã hội về kết hôn, người ta thường dùng thuật ngữ “giá thú” hoặc “hôn thú”. Đây là từ Hán Việt, “theo quan niệm cổ luật ở Việt Nam, giá thú là sự phối hợp được pháp luật công nhận, giữa một người đàn ông và một người đàn bà với mục đích lập gia đình, sinh con để nối dõi và thờ phụng tổ tiên”15.Về bản chất pháp lý của giá thú, cần xem xét là “một khế ước hay một định chế? Trong việc giá thú, sự ưng thuận của hai vợ chồng là một điều kiện căn bản, vì vậy người ta có thể coi giá thú như một khế ước do sự thoả thuận của hai bên kết lập mà thành. Tuy nhiên, xét cho kỹ, bản chất của giá thú không giống bản chất của các khế ước khác. Hai vợ chồng không thể tự mình ấn định các điều kiện và hiệu lực của giá thú theo ý riêng cũng như trong các khế ước. Trái lại, điều kiện và hiệu lực đối với hai vợ chồng cũng như đối với các con đã do các điều khoản trong luật quy định sẵn; các điều khoản đó thường liên quan đến trật tự chung trong xã hội, các đương sự không thể sửa chữa được, thay đổi ý riêng. Vì lẽ ấy, một phần học lý đã coi giá thú là một định chế (une institution) chứ không phải một khế ước (un contract).”16. Cách lập luận này cho thấy giá thú có những điểm khác biệt so với một khế ước (một hợp đồng). Giá thú không chỉ nói lên sự thoả thuận tự nguyện của các bên nam nữ mà còn hướng tới một trật tự công, phù hợp với phong tục tập quán và đạo đức truyền thống. Đây cũng được coi là cơ sở lý luận để giải quyết vấn đề kết hôn trái pháp luật và biện pháp xử lý đối với việc kết hôn trái pháp luật khi vi phạm trật tự công và làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác có liên quan.Trong xã hội hiện đại, quan niệm về kết hôn cũng khác nhau và trên thực tế sẽ có các trường hợp: Hai bên nam, nữ thỏa thuận về chung sống với nhau, bản thân họ tự coi nhau là vợ chồng; Hai bên nam, nữ tổ chức lễ cưới được họ hàng và bạn bè xung quanh thừa nhận; Hai bên nam, nữ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn, được cấp giấy chứng nhận kết hôn. Như vậy, có nhiều hình thức được hai bên nam nữ lựa chọn để chung sống với nhau. Mối quan hệ giữa họ có thể được họ hàng, bạn bè, những người xung quanh thừa nhận hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận. Xét theo nghĩa rộng, tất cả các trường hợp trên đều được coi là kết hôn để xác lập quan hệ hôn nhân, quan hệ vợ chồng. Bởi từ góc độ quyền con người, quyền kết hôn là một trong những quyền tự do của cá nhân, họ có thể thể hiện quyền tự do kết hôn theo cách mà họ mong muốn để tham gia vào một quan hệ kết hôn. Theo nguyên tắc đề cao quyền con người, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nam, nữ có quyền kết hôn….. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng….”17. Ở đây, nhà làm luật đã dùng cụm từ “nam, nữ” mà không dùng cụm từ “mọi người” hoặc “công dân” như các điều luật khác để thể hiện thái độ và quan điểm lập pháp trong việc thừa nhận quyền tự do kết hôn của nam, nữ. Tuy nhiên, do việc kết hôn không chỉ phát sinh hậu quả đối với hai người kết hôn mà còn liên quan đến người khác, đến đạo đức xã hội và luân thường đạo lý nên quyền tự do kết hôn của cá nhân phải được đặt trong những giới hạn cần thiết theo nguyên tắc không xâm phạm lợi ích của người khác và lợi ích chung của xã hội. Chẳng hạn, việc kết hôn giữa anh chị em con chú, con bác vừa gây ra hậu quả xấu đối với con cái, vừa xâm phạm nghiêm trọng đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Do đó, quyền tự do kết hôn của nam, nữ phải được thực hiện trong những điều kiện nhất định và phải thực hiện theo trình tự, thủ tục nhất định18. Điều đó hoàn toàn không hạn chế quyền tự do kết hôn, đồng thời vẫn đảm bảo lợi ích của gia đình và xã hội.Trong hệ thống pháp luật nước ta trước năm 1945 chưa có văn bản chính thức nào đề cập đến khái niệm kết hôn19. Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986 cũng không đưa ra khái niệm kết hôn. Theo cách quy định trong chế định kết hôn và các chế định có liên quan thì Luật HN&GĐ năm 1959 chỉ thừa nhận hình thức kết hôn được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền:“Việc kết hôn phải được Uỷ ban hành chính cơ sở nơi trú quán của bên người con trai hoặc bên người con gái công nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị về mặt pháp luật”20. Tuy nhiên, một số các điều luật khác lại thể hiện việc thừa nhận cả hình thức kết hôn theo phong tục tập quán: “Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới”21. Điều này có nghĩa là kể từ thời điểm tổ chức lễ cưới, tài sản của vợ hoặc chồng có trước khi cưới trở thành tài sản chung của vợ chồng. Và khi đã là vợ chồng, sau khi cưới thì vợ, chồng không có tài sản riêng. Mọi tài sản riêng của vợ hoặc chồng có trước khi cưới thì sau khi cưới đều là tài sản chung của hai vợ chồng, được sử dụng để đảm bảo những nhu cầu chung của gia đình. Quy định này vô hình chung đã thừa nhận đám cưới theo phong tục tập quán chính là nghi thức để xác lập quan hệ vợ chồng.Trong thời gian Luật HN&GĐ năm 1959 được áp dụng, TANDTC thừa nhận hôn nhân thực tế qua hình thức kết hôn theo phong tục tập quán khi đáp ứng các yêu cầu nhất định. Luật HN&GĐ năm 1986 cũng quy định tương tự như vậy. Luật HN&GĐ năm 2000 đã đưa ra khái niệm kết hôn như sau: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”23. Từ khái niệm này cho thấy, để được coi là kết hôn thì một điều kiện bắt buộc là phải có đăng ký kết hôn, nếu hai bên nam nữ không đăng ký kết hôn thì không thể gọi là kết hôn, giữa họ không tồn tại quan hệ hôn nhân. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cụ thể hơn “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”24. Như vậy, khái niệm kết hôn hợp pháp là: tuân thủ điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hôn và nhằm mục đích xác lập quan hệ vợ chồng.Tuy nhiên, khái niệm kết hôn có thể hiểu từ hai góc độ: xã hội và pháp lý. Dưới góc độ pháp lý, có thể xem xét từ hai khía cạnh: kết hôn với tư cách là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân và kết hôn với tư cách là một quan hệ pháp luật:* Kết hôn với tư cách là sự kiện pháp lý:Với tư cách là một sự kiện pháp lý, kết hôn là một cấu thành sự kiện. “Trong Luật HN&GĐ, với tư cách và điều kiện làm phát sinh quan hệ pháp luật, trước hết, phải kể đến cấu thành sự kiện, nghĩa là tổng hợp các sự kiện pháp lý. Cấu thành sự kiện thông thường hỗn hợp, có thể là sự kiện, có thể là hành vi… Cấu thành sự kiện làm phát sinh quan hệ pháp luật HN&GĐ thường có hai, ba sự kiện…”25. Đây cũng là một đặc thù của sự kiện pháp lý trong các quan hệ HN&GĐ. Trong việc kết hôn, yếu tố quan trọng nhất thúc đẩy hai bên nam nữ kết hôn với nhau là tình cảm - tình yêu chân chính. Nhưng cái thể hiện ra bên ngoài là hành vi của hai bên nam nữ qua hồ sơ đăng ký kết hôn, thể hiện ý chí tự nguyện; kèm theo đó còn phải là hành vi của cán bộ cơ quan đăng ký hộ tịch kiểm tra tính hợp pháp của việc kết hôn và ký giấy đăng ký kết hôn thì mới đủ cơ sở để xác lập quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng. Như vậy, sự kiện hai bên nam nữ mong muốn trở thành vợ chồng phải đi kèm với một thủ tục pháp lý nhất định mới đủ cơ sở để kết hôn và trở thành vợ chồng của nhau. Sự kiện kết hôn là mối quan hệ giữa hai chủ thể có đầy đủ các điều kiện theo luật định mới có thể tham gia vào quan hệ kết hôn. Việc hình thành một quan hệ pháp luật HN&GĐ nói chung, quan hệ pháp luật giữa vợ chồng nói riêng, luôn có một nét đặc thù là phải có sự chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này nhằm đảm bảo lợi ích của các chủ thể, của gia đình và lợi ích chung của xã hội. Đây cũng là yếu tố để khẳng định sự khác nhau giữa hành vi pháp lý đơn phương với việc kết hôn. Ngay cả trong trường hợp một bên bị cưỡng ép  kết hôn thì cuối cùng họ vẫn phải thể hiện ý chí ra bên ngoài bằng hành vi muốn kết hôn với một ai đó. Pháp luật không thể kiểm soát được tình cảm của họ trong việc kết hôn.Vậy, với tư cách là sự kiện pháp lý, kết hôn là việc hai bên nam nữ trên cơ sở đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc xác lập quan hệ vợ chồng theo trình tự, thủ tục luật định.* Kết hôn với tư cách là quan hệ pháp luậtTrong việc kết hôn sẽ nảy sinh các mối quan hệ giữa các chủ thể với nhau, giữa các chủ thể với cơ quan đăng ký kết hôn. Trong đó, các bên chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình nhằm đạt được những lợi ích và mục đích nhất định. Những mối quan hệ này được các qui phạm pháp luật nội dung và các qui phạm pháp luật hình thức điều chỉnh. Trong quá trình thực hiện việc kết hôn, các bên chủ thể cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền luôn phải căn cứ vào pháp luật nội dung, tức là căn cứ vào các quy phạm pháp luật HN&GĐ để xem xét các bên có đủ điều kiện kết hôn hay không; căn cứ vào quy phạm pháp luật về hộ tịch áp dụng thủ tục đăng ký kết hôn.Như vậy, với tư cách là quan hệ pháp luật, kết hôn là các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể kết hôn với nhau, giữa các chủ thể kết hôn với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn được các quy phạm pháp luật điều chỉnh.Kết hôn với tư cách là quan hệ pháp luật có những đặc điểm cơ bản sau:- Kết hôn là quan hệ xã hội, tồn tại một cách khách quan, bị chi phối bởi phong tục, tập quán, truyền thống, tình cảm và đạo đức xã hội. Pháp luật điều chỉnh quan hệ này để nó phát triển theo một trật tự nhất định, đảm bảo sự dung hoà giữa lợi ích của cá nhân, gia đình với lợi ích chung của xã hội;- Kết hôn là một quan hệ ý chí vì nó thể hiện ý chí, tình cảm của hai bên kết hôn với nhau và ý chí của họ với nhà nước thông qua việc đăng ký kết hôn. Nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với việc kết hôn thông qua kiểm tra, xác minh sự tuân thủ điều kiện kết hôn của các bên kết hôn, thủ tục kết hôn và hành vi đăng ký kết hôn của cán bộ tư pháp hộ tịch.- Với tư cách là một quan hệ pháp luật, kết hôn cũng mang những yếu tố cấu thành một quan hệ pháp luật. Bởi vì:Thứ nhất, về chủ thể: bao gồm chủ thể trong việc kết hôn (hai bên nam, nữ kết hôn) và các bên kết hôn với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do quan điểm lập pháp của Việt Nam chưa thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính nên hai chủ thể tham gia việc kết hôn phải là nam và nữ. Quan hệ giữa chủ thể kết hôn với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn chính là quan hệ giữa hai bên nam nữ mong muốn kết hôn với người có thẩm quyền đăng ký kết hôn. Đó là quyền và nghĩa vụ giữa công dân với nhà nước trong việc kết hôn.Thứ hai, về khách thể: Xác định khách thể trong việc kết hôn là cần thiết bởi đó chính là yếu tố làm nên mục đích của việc kết hôn là nhằm xác lập quan hệ vợ chồng, xây dựng gia đình bền vững. Khách thể của quan hệ vợ chồng là những lợi ích tinh thần và lợi ích vật chất như thực hiện quyền làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ… mà hai chủ thể khi tham gia vào quan hệ kết hôn cùng hướng tới. Khách thể của quan hệ kết hôn là trật tự quản lý nhà nước về hộ tịch, thông qua mối quan hệ giữa chủ thể kết hôn với cơ quan đăng ký kết hôn. Qua đó đảm bảo được quyền, lợi ích của các bên kết hôn cũng như lợi ích của nhà nước. Lợi ích của các bên kết hôn là quan hệ vợ chồng của họ được pháp luật, nhà nước công nhận và bảo vệ. Lợi ích của nhà nước là đảm bảo được trật tự, lợi ích công cộng.Thứ ba, về nội dung: là các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể. Quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong việc kết hôn được thể hiện trong quy phạm pháp luật của pháp luật Hộ tịch điều chỉnh việc đăng ký kết hôn, luôn phải đảm bảo tính khách quan, chính xác và phù hợp với thực tế đời sống. Như vậy, việc kết hôn mới đảm bảo tính hợp pháp. Quyền của chủ thể trong việc kết hôn là khả năng của chủ thể được kết hôn theo qui định của pháp luật. Bằng chính hành vi của mình, các chủ thể kết hôn sẽ thực hiện quyền kết hôn trên thực tế. Quyền của chủ thể trong việc kết hôn gắn liền với nhân thân của chủ thể kết hôn, không thể chuyển giao cho người khác và không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Khi chủ thể trong quan hệ kết hôn thực hiện quyền kết hôn không được làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, của chính chủ thể còn lại trong quan hệ kết hôn; đồng thời phải đảm bảo không làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của gia đình và xã hội.Nghĩa vụ của chủ thể trong việc kết hôn là những xử sự mang tính chủ động của chủ thể phải thực hiện để kết hôn và phải chịu trách nhiệm pháp lý khi không tuân thủ các quy định của pháp luật. Trong pháp luật HN&GĐ nói chung và pháp luật HN&GĐ hiện hành nói riêng, tính chịu trách nhiệm pháp lý của chủ thể trong việc kết hôn được quy định rất rõ ràng. Xét trong mối quan hệ nội dung giữa hai bên kết hôn, họ có nghĩa vụ tuân thủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật HN&GĐ. Giữa các bên phải tự nguyện thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí mong muốn trở thành vợ chồng, không được phép cưỡng ép, lừa dối nhau trong việc kết hôn. Xét trong mối quan hệ giữa hai bên kết hôn với cơ quan đăng ký kết hôn thì quyền và nghĩa vụ của các bên được xác định như sau: Các bên kết hôn phải là người trực tiếp (không được cử người đại diện trong kết hôn) đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn nộp hồ sơ yêu cầu xem xét và tiến hành thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn, cán bộ hộ tịch có quyền yêu cầu các bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, xuất trình giấy tờ minh chứng cho việc kết hôn, kiểm tra việc tuân thủ điều kiện kết hôn qua hồ sơ đăng ký kết hôn. Nếu các bên kết hôn đủ điều kiện kết hôn thì sẽ tiến hành tổ chức việc đăng ký kết hôn theo quy định.2.1.2. Khái niệm điều kiện kết hônĐiều kiện có thể hiểu là cái cần phải có để cho một cái khác có thể có hoặc có thể xảy ra; điều kiện cũng có thể hiểu là điều nêu ra như một đòi hỏi trước khi thực hiện một việc nào đó. Như vậy, điều kiện được hiểu là những yêu cầu đặt ra mà chủ thể phải đáp ứng khi định làm một việc gì đó.Khi nghiên cứu về kết hôn, C.Mác đã viết "không ai bị buộc phải kết hôn, nhưng ai cũng bị buộc phải tuân theo luật hôn nhân một khi người đó kết hôn... Hôn nhân không thể phục tùng sự tùy tiện của người kết hôn mà trái lại sự tùy tiện của người kết hôn phải phục tùng bản chất của hôn nhân"27. Dù trong bất kỳ xã hội nào, quyền kết hôn cũng là một trong những quyền tự do của cá nhân, là quyền dân sự cơ bản của con người. Tuy nhiên, do kết hôn không chỉ phát sinh hậu quả đối với hai người kết hôn mà còn liên quan đến người khác, đến đạo đức xã hội và luân thường đạo lý, nên quyền tự do kết hôn của nam, nữ phải tuân thủ những điều kiện nhất định để đảm bảo không xâm phạm lợi ích của người khác và lợi ích chung của toàn xã hội. Như vậy, dưới góc độ pháp lý, việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện nhất định mới có giá trị. Việc nhà nước dùng pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn, tức là nhà nước đã đặt ra những điều kiện cần và đủ mà các chủ thể khi tham gia quan hệ kết hôn phải thực hiện nhằm đảm bảo cho việc kết hôn nói riêng và quan hệ HN&GĐ nói chung phát triển theo chiều hướng nhà nước mong muốn.Điều kiện kết hôn là những quy định của pháp luật nên vừa có tính khách quan, vừa có tính chủ quan. Để đặt ra điều kiện kết hôn, nhà nước phải dựa vào rất nhiều các yếu tố như phong tục tập quán, đạo đức truyền thống, tình hình thực tế về HN&GĐ, điều kiện kinh tế - xã hội, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật… do đó, điều kiện kết hôn mang tính khách quan. Bên cạnh đó, pháp luật là ý chí của nhà nước nên bản chất của pháp luật thể hiện trước hết ở tính giai cấp. Tính giai cấp của pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trong xã hội. Nội dung ý chí đó được quy định bởi điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp thống trị. Ý chí của giai cấp thống trị được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội. Pháp luật là yếu tố điều chỉnh về mặt giai cấp các quan hệ xã hội nhằm định hướng cho các quan hệ xã hội phát triển theo một mục tiêu, một trật tự phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, bảo vệ và củng cố địa vị của giai cấp thống trị. Vì vậy, nhà nước luôn định hướng cho các quan hệ kết hôn phát triển theo chiều hướng mà nhà nước mong muốn. Do đó, điều kiện kết hôn mang tính chủ quan. Đây cũng là lý do để giải thích tại sao điều kiện kết hôn ở mỗi thời kỳ khác nhau, ở mỗi quốc gia khác nhau có những quy định khác nhau.Nghiên cứu điều kiện kết hôn, có thể thấy kỹ thuật lập pháp của nhà làm luật khi nhóm các điều kiện kết hôn theo một logic nhất định. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện và áp dụng các điều kiện kết hôn đối với các bên kết hôn và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều kiện kết hôn được phân thành 2 nhóm như sau:Thứ nhất, các điều kiện liên quan đến chính bản thân các bên kết hôn, bao gồm độ tuổi kết hôn, sự tự nguyện kết hôn và mức độ nhận thức, điều khiển hành vi của các bên kết hôn. Đây là các điều kiện mà tự thân các bên kết hôn phải đáp ứng được khi muốn tham gia vào quan hệ kết hôn. Có thể gọi đây là yếu tố nội thân của chủ thể kết hôn. Điều kiện này có thể thay đổi theo thời gian và khi xem xét các yếu tố này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đặt nó trong sự vận động và phát triển thì mới đảm bảo tính chính xác khi áp dụng pháp luật về điều kiện kết hôn.Thứ hai, điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật, đó là các hành vi cấm kết hôn như: Kết hôn giả tạo; Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; Vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng… Đây là những trường hợp mà các bên kết hôn phải loại trừ khi muốn tham gia vào quan hệ hôn nhân. Nếu giữa họ có tình cảm cũng không thể tiến tới việc kết hôn, vì điều đó ảnh hưởng đến những quan hệ khác, trong đó có các mối quan hệ gia đình cần phải giữ gìn, cũng như ảnh hưởng đến trật tự công cộng. Tuy nhiên, các điều kiện kết hôn này, luôn phải được xem xét trong sự vận động và phát triển. Bởi vì, theo nhận thức xã hội, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, điều kiện kinh tế xã hội, hay nói cách khác là sự phát triển chung về mọi mặt của đời sống xã hội, pháp luật sẽ quy định những điều kiện kết hôn cho phù hợp, đảm bảo lợi ích chung, lợi ích của gia đình và cá nhân.Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về điều kiện kết hôn như sau: “Điều kiện kết hôn là những yêu cầu do pháp luật quy định đối với các bên kết hôn mà các bên kết hôn phải đáp ứng khi tham gia vào quan hệ kết hôn để việc kết hôn được công nhận là hợp pháp”.2.1.3. Khái niệm kết hôn trái pháp luậtCó thể khẳng định kết hôn là quyền của mỗi con người, nhưng khi kết hôn thì họ phải tuân theo sự điều chỉnh của pháp luật, phải tuân thủ các điều kiện mà nhà nước quy định. Nếu vi phạm thì việc kết hôn của họ là trái pháp luật. Việc kết hôn trái pháp luật gây ảnh hưởng tiêu cực tới sự ổn định của xã hội, tới sự quản lý của nhà nước. Về góc độ pháp lý, kết hôn trái pháp luật ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi chính đáng của công dân, ảnh hưởng tới nhân quyền, tới sự nghiêm minh của pháp luật. Về mặt xã hội, một gia đình được xây dựng từ những “viên gạch” của sự tự nguyện, tình yêu thương giữa hai bên nam nữ, sự bảo đảm về thể lực và trí lực, các giá trị đạo đức xã hội và phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Khi gia đình được xây dựng trên nền tảng đó mới bảo đảm được sự bền vững, ổn định, hạnh phúc và có thể thực hiện tốt được các chức năng đối với xã hội. Nếu thiếu một trong các điều kiện đó, gia đình sẽ không thể là một tế bào tốt cho xã hội. Ngoài ra, điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật là kết tinh của truyền thống văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Vì vậy, việc vi phạm điều kiện kết hôn sẽ làm ảnh hưởng tới những giá trị văn hoá tốt đẹp của con người Việt Nam, ảnh hưởng tới đạo đức, tư tưởng, lối sống của mỗi cá nhân. Những điều kiện đó được nhà nước quy định dựa trên những quan niệm trong đời sống xã hội, phù hợp với đại đa số quần chúng nhân dân và phù hợp với ý chí của nhà nước. Theo đó, kết hôn trái pháp luật theo quan niệm của Việt Nam chính là việc xác lập quan hệ vợ chồng mà vi phạm các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định. Quan niệm này được hình thành dựa trên chính đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và sự phát triển sinh học của con người Việt Nam.Tuy nhiên, quan niệm về kết hôn trái pháp luật ở mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia cũng có sự khác nhau. Ở nước ta, trong thời kỳ phong kiến, hôn nhân trái pháp luật được quan niệm là những cuộc hôn nhân không tuân thủ các điều kiện kết hôn như “không môn đăng hộ đối”, những quan hệ hôn nhân không được sự đồng ý của cha mẹ, họ hàng…28 mà không có quy định bắt buộc các bên phải tiến hành đăng ký kết hôn với nhau. Thời kỳ Pháp thuộc, quy định nếu các bên kết hôn mà vi phạm điều kiện kết hôn hoặc không khai với Hương hộ thì đó là “hôn thú vô hiệu”. Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, pháp luật vẫn dùng thuật ngữ “vô hiệu” để chỉ các trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn hoặc không khai với viên chức hộ tịch để đăng ký vào sổ hôn thú. Luật HN&GĐ năm 1959 không quy định về kết hôn trái pháp luật. Luật HN&GĐ năm 1986 cũng không có khái niệm kết hôn trái pháp luật nhưng trong điều luật lại dùng thuật ngữ trái pháp luật “Việc kết hôn vi phạm một trong các điều 5,6,7 của luật này là trái pháp luật”29. Từ đó có thể xác định kết hôn trái pháp luật là việc kết hôn vi phạm các điều kiện kết hôn, không quy định việc kết hôn đó phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Luật HN&GĐ năm 2000 quy định “Kết hôn trái pháp luật là việc xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định”30. Luật HN&GĐ năm 2014 cũng quy định tương tự “Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này”31.Pháp luật của một số nước thuộc hệ thống Tư bản chủ nghĩa có những quy định rất khác với pháp luật Việt Nam về kết hôn hợp pháp và kết hôn trái pháp luật. Bởi do sự tác động của các điều kiện về kinh tế, văn hóa, khí hậu, sinh học… làm cho con người ở đó có sự phát triển và trưởng thành về thể lực cũng như trí lực khác với người Việt Nam dẫn đến quy định về độ tuổi kết hôn cũng khác. Hoặc một số quốc gia lại thừa nhận kết hôn giữa những người đồng giới là hôn nhân hợp pháp…Như vậy có thể khẳng định, kết hôn trái pháp luật là phải có đăng ký kết hôn nhưng vi phạm một hoặc nhiều điều kiện kết hôn. Nếu so sánh giữa khái niệm kết hôn và khái niệm kết hôn trái pháp luật có thể thấy cả hai khái niệm này đều có điểm chung là phải có đăng ký kết hôn, nhưng kết hôn trái pháp luật là các bên kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn còn kết hôn hợp pháp là các bên kết hôn tuân thủ đầy đủ điều kiện kết hôn. Kết hôn hợp pháp là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ vợ chồng (quan hệ hôn nhân), còn kết hôn trái pháp luật không làm phát sinh quan hệ vợ chồng.Theo: Đức Thị HòaLink luận án: https://docs.google.com/document/d/1vSFOdtNZFR3qHSBDXb3DskDOb5u86qGv/edit?rtpof=true