BIỆN PHÁP XỬ LÝ VIỆC KẾT HÔN TRÁI PHÁP LUẬT
3.2.1. Huỷ việc kết hôn trái pháp luật
Hủy việc kết hôn trái pháp luật là chế tài về dân sự được áp dụng để xử lý việc kết hôn trái pháp luật nhằm hủy bỏ việc kết hôn đã được thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng vi phạm điều kiện kết hôn. Biện pháp này được thực hiện bởi Tòa án, theo quy định của Luật HN&GĐ và pháp luật TTDS159.
3.2.1.1. Quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật
* Khi vi phạm điều kiện kết hôn tự nguyện
Khoản 1 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về TTDS, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 của Luật này”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì khi việc kết hôn vi phạm yếu tố tự nguyện, tức là có sự cưỡng ép, lừa dối kết hôn thì người bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn sẽ được tự mình đứng đơn là nguyên đơn yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật đó. Nếu họ không tự mình yêu cầu huỷ việc kết hôn được thì họ có quyền đề nghị những chủ thể sau đây yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật đó, bao gồm: Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật; Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ160. Quy định này cũng có nghĩa là những chủ thể này sẽ không đương nhiên được yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật khi vi phạm yếu tố tự nguyện mà chỉ khi có sự đề nghị của người bị cưỡng ép kết hôn hoặc bị lừa dối kết hôn thì họ mới có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Tuy nhiên, tại khoản 3 Điều 10 Luật HN&GĐ lại quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật”. Vậy vấn đề đặt ra là nếu bên bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn không trực tiếp yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật và cũng không đề nghị các chủ thể thuộc khoản 2 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 huỷ việc kết hôn trái pháp luật nhưng có một cá nhân hoặc cơ quan nào đó phát hiện ra việc kết hôn trái pháp luật do bị cưỡng ép, bị lừa dối và đề nghị các cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật HN&GĐ yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật thì có được không? Về vấn đề này, theo NCS cần xem xét ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, lý do nhà làm luật tách riêng quyền yêu cầu đối với việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm yếu tố tự nguyện là xuất phát từ việc tôn trọng đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình vì “đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Việc thu thập, lưu giữ, sử dụng công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải được người đó đồng ý…”161. Hơn nữa, pháp luật luôn tôn trọng quyền tự quyết của cá nhân, đặc biệt là các quyền liên quan đến nhân thân của mỗi cá nhân trong các quan hệ HN&GĐ, trong đó “quyền riêng tư là quyền của cá nhân được tự quyết đối với đời sống gia đình của mình mà không chịu bất kỳ sự can thiệp nào từ những người xung quanh khác. Với quyền này, cá nhân được sống như mong muốn của mình mà không chịu ảnh hưởng, tác động bởi bất kỳ chủ thể nào khác”162. Do đó, khi họ rơi vào tình trạng bị lừa dối, bị cưỡng ép kết hôn thì chỉ có họ mới thực sự nhận thức được và bằng ý chí của mình họ sẽ tự quyết định việc có huỷ việc kết hôn trái pháp luật hay không. Trong trường hợp kết hôn trái pháp luật do bị cưỡng ép, bị lừa dối thì chỉ chính người bị cưỡng ép, bị lừa dối mới đánh giá được mức độ, sự ảnh hưởng của sự cưỡng ép, lừa dối đó đối với mình, mà người ngoài cuộc không thể biết được. Do đó, họ có quyền quyết định lựa chọn cách sự xử tùy theo nhận thức, cảm nhận và tình cảm của mình. Nếu giả sử họ thông cảm và có tình cảm yêu thương đối với người đã cưỡng ép, lừa dối mình và không muốn chấm dứt việc kết hôn đó thì pháp luật cũng không can thiệp vào quan hệ của họ. Điều cần chú ý là, việc kết hôn do bị cưỡng ép, bị lừa dối chỉ ảnh hưởng đến duy nhất người bị cưỡng ép, bị lừa dối khi kết hôn, mà không ảnh hưởng đến trật tự công cộng hay quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì pháp luật mới dành cho người bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn quyền đó. Nếu việc kết hôn do bị cưỡng ép, bị lừa dối nhưng đồng thời lại vi phạm điều kiện kết hôn khác (ví dụ: người lừa dối đang có vợ hoặc có chồng) thì việc xử lý lại khác, không còn tùy thuộc vào quyền yêu cầu của người bị cưỡng ép, bị lừa dối nữa.
Trong trường hợp vì lý do nào đó, họ muốn chấm dứt việc kết hôn trái pháp luật nhưng do không muốn đứng đơn yêu cầu khởi kiện ra Toà thì họ vẫn phải thể hiện ý chí của mình trong việc đề nghị những chủ thể khác yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật giúp họ. Và như vậy, trong trường hợp này vẫn phải có sự thể hiện ý chí của người bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn. Việc quy định này là sự bọc lót khá an toàn và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn.
Thứ hai, pháp luật không quy định cho người cưỡng ép, lừa dối kết hôn có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật là xuất phát từ lý do bản thân họ là người đã gây ra hành vi cưỡng ép, lừa dối kết hôn, họ muốn duy trì quan hệ hôn nhân trái pháp luật nên họ sẽ không có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật. Điều này hoàn toàn đúng nếu người cưỡng ép, lừa dối kết hôn là một trong hai bên chủ thể kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, cần phải xem xét vấn đề này trong trường hợp người cưỡng ép, lừa dối kết hôn là người thứ ba như cha, mẹ, người giám hộ hoặc người đại diện của người kết hôn. Đối với trường hợp này, người thứ ba đó cũng không có quyền tự mình yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật nhưng nếu bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn đề nghị họ yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật đó thì theo pháp luật hiện hành họ lại thuộc nhóm chủ thể ở khoản 2 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014. Điều này cho thấy, cùng là chủ thể cưỡng ép hoặc lừa dối kết hôn nhưng tư cách chủ thể khác nhau vì thuộc hai quan hệ khác nhau: chủ thể trong quan hệ kết hôn trái pháp luật và chủ thể trong quan hệ gia đình.
Dưới góc độ bảo vệ quyền và lợi ích của bên bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, có thể thấy rằng: Theo quan điểm của nhà làm luật, bên cưỡng ép kết hôn hoặc lừa dối kết hôn sẽ không được quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật là do không thể trao cho họ quyền được huỷ bỏ một quan hệ mà họ đã có hành vi trái pháp luật để tham gia rồi sau đó không muốn tiếp tục lại huỷ bỏ đi, điều đó có thể gây ảnh hưởng đến sức khoẻ và tinh thần của bên bị cưỡng ép, bị lừa dối. Trong trường hợp người cưỡng ép, lừa lối kết hôn là người thứ ba, sau khi đã tạo ra quan hệ kết hôn trái pháp luật, có thể họ thấy quan hệ đó không ổn, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn và chính người bị cưỡng ép hoặc bị lừa dối kết hôn này đề nghị họ yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn thì họ vẫn được quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật đó. Như vậy, pháp luật cần phải có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
Thứ ba, nhóm chủ thể thuộc khoản 3 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 có quyền đề nghị những cơ quan, tổ chức thuộc khoản 2 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 huỷ việc kết hôn do vi phạm sự tự nguyện hay không? Trong trường hợp này tồn tại hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, theo câu chữ của khoản 3 thì không có sự phân biệt việc kết hôn trái pháp luật đó là vì vi phạm điều kiện kết hôn nào nên đương nhiên bất kỳ ai khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật đều có quyền đề nghị những cơ quan, tổ chức thuộc khoản 2 Điều 10 yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Quan điểm thứ hai ngược lại, cho rằng, việc kết hôn vi phạm sự tự nguyện là không thể cho người thứ ba đề nghị những cơ quan, tổ chức thuộc khoản 2 Điều 10 yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật được. NCS đồng tình với quan điểm thứ hai này vì theo cách lập luận ở trên, người bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn được toàn quyền quyết định có tiếp tục gắn bó với quan hệ đó hay không. Những người khác không có quyền can thiệp vào quan hệ đó. Ngay cả sau khi kết hôn, họ bị rơi vào tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì cũng không ai can thiệp được và xác định trách nhiệm đối với họ vẫn thuộc về người còn lại. Song quan điểm này vẫn vấp phải một khó khăn là nếu bên cưỡng ép, lừa dối kết hôn không được yêu cầu huỷ việc kết hôn thì khi họ không muốn tồn tại quan hệ đó nữa, họ sẽ yêu cầu ly hôn và rất có thể quan hệ đó sẽ được chấm dứt bằng ly hôn. Tuy nhiên, về nguyên tắc, Toà án chỉ giải quyết ly hôn khi quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Nếu trong trường hợp kết hôn trái pháp luật này mà giải quyết cho ly hôn thì vô hình chung đã gián tiếp thừa nhận quan hệ kết hôn trái pháp luật là một quan hệ hôn nhân hợp pháp. Mâu thuẫn này sẽ được tháo gỡ khi bên bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn ở trong trạng thái tâm thần bình thường, muốn công nhận hôn nhân hoặc muốn ly hôn, nhưng nếu họ rơi vào tình trạng tâm thần không thể nhận thức và điều khiển hành vi thì không thể lý giải hợp lý được. Theo NCS, trong việc kết hôn trái pháp luật do bị cưỡng ép, bị lừa dối, cần có sự ưu tiên cho bên bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn khi họ là nạn nhân, khi huỷ việc kết hôn phải theo ý chí của họ. Nếu họ không yêu cầu huỷ mà sau đó lại có đơn yêu cầu ly hôn thì suy đoán là họ đã chấp nhận quan hệ đó, vì vậy, khi ly hôn phải bảo vệ quyền và lợi ích của họ về con cái và tài sản hơn so với phía bên kia.
Đối với trường hợp không có sự cưỡng ép hoặc lừa dối nhưng vẫn vi phạm yếu tố tự nguyện như: một người bình thường kết hôn với một người bị tâm thần không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nhưng chưa bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì hiện không có hướng dẫn cụ thể là ai sẽ được quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật này. Do đó, pháp luật cũng cần có sự bổ sung kịp thời để tránh tình trạng “lách luật” như hiện nay. Theo NCS, cần áp dụng tương tự, cho phép những người thuộc khoản 2 Điều 10 được quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật trong trường hợp này. Bởi vì bản thân người bị tâm thần không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nên không thể thể hiện được ý chí của mình, do đó, họ không thể tự mình thực hiện các quyền của họ. Đối với người còn lại, họ đang muốn duy trì quan hệ đó thì họ sẽ không yêu cầu huỷ việc kết hôn
* Khi vi phạm các điều kiện kết hôn khác
Khoản 2, 3 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “2. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về TTDS, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này: a) Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật; b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; d) Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khác khi phát hiện việc kết hôn trái pháp luật thì có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức quy định tại các điểm b, c và d khoản 2 Điều này yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật”.
Như vậy, những việc kết hôn trái pháp luật khác bao gồm kết hôn khi vi phạm độ tuổi, kết hôn khi mất NLHVDS, kết hôn khi vi phạm các trường hợp cấm kết hôn. Qua đó có thể thấy thiếu vắng quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn khi người kết hôn là hai người cùng giới tính vì khoản 2 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ nhắc đến điểm a,c,d Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 mà không nhắc đến khoản 2 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014. Theo quan điểm của NCS, cần bổ sung kịp thời trường hợp này. Bởi vì, ngay trong khái niệm kết hôn, nhà làm luật đã dùng cụm từ “nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau” tức là đã loại bỏ việc kết hôn cùng giới tính. Mặt khác, tên Điều 8 là “điều kiện kết hôn” thì suy đoán khoản 2 Điều 8 cũng là một điều kiện kết hôn, điều này sẽ là logic với khái niệm kết hôn. Việc kết hôn giữa những người cùng giới tính có thể xảy ra trên thực tế và đó là kết hôn trái pháp luật. Trong khi đó, Điều 10 lại không hề nhắc đến ai được quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn của hai người cùng giới tính theo khoản 2 Điều 8 là một sự thiếu sót. Vì vậy, cần bổ sung quyền yêu cầu trong trường hợp này theo hướng tương tự như khoản 2 Điều 10.
Bên cạnh đó, cần lưu ý rằng, diện chủ thể yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật là rất rộng, nếu so với quyền yêu cầu ly hôn thì quyền ly hôn về nguyên tắc chỉ thuộc về vợ chồng163. Lý do xuất phát từ hành vi trái pháp luật của các bên kết hôn trái pháp luật hoặc hành vi của người thứ ba. Hành vi trái pháp luật này đã vi phạm trật tự quản lý nhà nước, có thể gây ra những hậu quả cho cá nhân người kết hôn trái pháp luật, các thành viên khác của gia đình và xã hội. Từ đó, có thể làm mất đi những giá trị truyền thống, văn hoá, phong tục tập quán, những trật tự xã hội mà nhà nước đặt ra.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 thì các chủ thể có quyền trực tiếp yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật bao gồm:
Thứ nhất, vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác. Bởi vì trong quan hệ hôn nhân, vợ chồng gắn kết với nhau về những lợi ích nhân thân phát sinh từ quan hệ vợ chồng. Khi một bên vợ, chồng kết hôn với người khác sẽ xâm phạm trực tiếp quyền, lợi ích nhân thân của người chồng, người vợ kia, nên họ có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình, bảo vệ quan hệ hôn nhân của mình. Mặt khác, vợ, chồng của người kết hôn trái pháp luật thường là người phát hiện ra hành vi trái pháp luật của chồng, vợ mình và muốn bảo vệ quan hệ hôn nhân cũng như gia đình của mình. Đây được coi là một quyền nhân thân của vợ chồng nên vợ, chồng có quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Đây được coi là trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng hoặc đồng thời có cả sự lừa dối kết hôn. Vợ, chồng của bên kết hôn trái pháp luật phải hiểu là vợ, chồng được pháp luật công nhận khi họ có kết hôn hợp pháp hoặc hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ trước ngày 03 tháng 01 năm 1987. Người khởi kiện yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật phải đáp ứng điều kiện về năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Thứ hai, cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật: Đối với cha, mẹ có thể là cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi. Con thì có thể là con đẻ, con nuôi. Người giám hộ có thể là giám hộ đương nhiên hoặc giám hộ cử theo quy định của BLDS năm 2015 như vợ, chồng, con cái, cha mẹ (tuy nhiên những người này đã là diện chủ thể được chỉ định nên có thể họ khởi kiện với tư cách là vợ, chồng, cha mẹ, con cái mà không phải với tư cách là người giám hộ). Do đó, người giám hộ có thể là một ai đó được cử và họ cũng có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật của người được giám hộ. Ví dụ, người được Hội Liên hiệp phụ nữ xã cử làm người giám hộ cho một thành viên của Hội cũng có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật của người được giám hộ. Người đại diện của người kết hôn trái pháp luật có thể trùng với người giám hộ hoặc không; có thể trùng với cha mẹ, vợ chồng, con cái hoặc không. Do đó, pháp luật đã dùng từ người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác. Như vậy, diện những cá nhân được quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật trong trường hợp này là khá rộng. Ví dụ, khi không còn ai là giám hộ đương nhiên, hoặc không ai trong số những chủ thể có thể là giám hộ đương nhiên đủ điều kiện là giám hộ thì phải cử một người nào đó (không phải trong số những người có quan hệ thân thích) làm giám hộ, họ đồng thời là người đại diện và họ sẽ được thực hiện quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
Thứ ba, Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ. Nhà làm luật đã ưu tiên các cơ quan bảo vệ phụ nữ và trẻ em vì đó là những chủ thể thuộc nhóm yếu thế trong xã hội, nguy cơ trở thành nạn nhân của hành vi vi phạm pháp luật về kết hôn là cao hơn so với nam giới. Điều này là hợp lý. Việc khởi kiện yêu cầu Toà án huỷ việc kết hôn trái pháp luật là xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích chung.
Theo quy định của khoản 3 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014 thì những chủ thể gián tiếp có quyền đề nghị những cơ quan, tổ chức nêu trên huỷ việc kết hôn trái pháp luật là bất cứ ai phát hiện ra việc kết hôn trái pháp luật, trừ trường hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật HN&GĐ năm 2014.
Như vậy, việc quy định các chủ thể có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật đã thể hiện thái độ phủ định của nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật về kết hôn, đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể trực tiếp trong quan hệ kết hôn trái pháp luật hay các chủ thể gián tiếp có các mối quan hệ HN&GĐ với người có hành vi vi phạm đó, hay của bất cứ cơ quan, tổ chức cá nhân nào khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, đây cũng được coi là một biện pháp để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về kết hôn, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, bảo vệ sự bền vững của HN&GĐ.
3.2.1.2. Thẩm quyền giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật
BLTTDS quy định những yêu cầu về HN&GĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án164 trong đó có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Như vậy, huỷ việc kết hôn trái pháp luật được coi là việc dân sự nằm vào nhóm các yêu cầu về HN&GĐ theo quy định của BLTTDS năm 2015. Khi nói tới việc dân sự tức là không có tranh chấp giữa các bên chủ thể. NCS đồng ý với quan điểm cho rằng huỷ việc kết hôn trái pháp luật là việc dân sự do đây là chế tài đối với hành vi vi phạm điều kiện kết hôn nên về nguyên tắc, các chủ thể kết hôn phải gánh chịu hậu quả bất lợi đối với mình. Theo quy định tại Điều 206 BLTTDS năm 2015 thì khi giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, Tòa án không được tiến hành hòa giải vì đây là vụ việc vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên, khi giải quyết huỷ việc kết hôn trái pháp luật thì có thể các bên sẽ không thoả thuận được các vấn đề về con cái và tài sản hoặc không tìm được sự đồng thuận giữa các bên với người thứ ba về vấn đề tài sản thì rõ ràng ở đây lại phát sinh tranh chấp. Khi xác định là có tranh chấp thì vấn đề này lại rơi vào nhóm các tranh chấp về HN&GĐ theo quy định của BLTTDS năm 2015165. Như vậy, BLTTDS năm 2015 tách phần yêu cầu huỷ kết hôn trái pháp luật thuộc về những yêu cầu về HN&GĐ (Điều 29) còn khi giải quyết hậu quả của việc hủy kết hôn trái pháp luật như giao con cho ai nuôi, chia tài sản mà có tranh chấp thì lại thuộc những tranh chấp về HN&GĐ (Điều 28). Đặc biệt, khi giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, có thể vụ việc này sẽ chuyển sang giải quyết ly hôn khi đáp ứng được những điều kiện nhất định thì phải áp dụng các quy định của luật nội dung và hình thức liên quan đến ly hôn để giải quyết. Qua đó có thể thấy huỷ việc kết hôn trái pháp luật có sự phức tạp nhất định.
3.2.1.3. Nguyên tắc chung khi áp dụng pháp luật giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật
Hiện nay, có rất nhiều văn bản khác nhau quy định về những vấn đề liên quan đến hủy kết hôn trái pháp luật, song bên cạnh đó cũng có rất nhiều vấn đề phát sinh trên thực tiễn nhưng chưa được quy định kịp thời trong hệ thống văn bản pháp luật. Vì vậy, khi áp dụng pháp luật để giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, Tòa án cần phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Thứ nhất, Luật HN&GĐ năm 2014 được ưu tiên áp dụng trước. Nếu Luật HN&GĐ không quy định thì áp dụng các quy định có liên quan đến quan hệ HN&GĐ trong BLDS và các luật khác.
Thứ hai, có sự kết hợp giữa Luật HN&GĐ năm 2014, BLDS năm 2015 và BLTTDS năm 2015 để giải quyết yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật theo thứ tự ưu tiên sau: áp dụng pháp luật; áp dụng tập quán; áp dụng tương tự pháp luật; áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật Dân sự, án lệ, lẽ công bằng.
Thứ ba, theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 thì “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau”
Thứ tư, nếu là kết hôn trái pháp luật có yếu tố nước ngoài và có yêu cầu huỷ thì nguyên tắc áp dụng luật được thực hiện như sau:
Theo nguyên tắc chung, trong quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài, việc áp dụng luật được căn cứ vào Luật HN&GĐ năm 2014, các văn bản hướng dẫn luật, các văn bản pháp luật có liên quan và các HĐTTTP mà Việt Nam đã ký kết với các nước. Nếu khi áp dụng có sự khác biệt giữa các quy định của HĐTTTP và các quy định của Luật HN&GĐ thì các quy định của HĐTTTP sẽ ưu tiên được áp dụng. Nguyên tắc này được rất nhiều văn bản pháp luật ghi nhận như Điều 31 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế của CHXHCN Việt Nam; Điều 664, 665 BLDS năm 2015; Khoản 1 Điều 122 Luật HN&GĐ năm 2014.
Trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là nước thành viên, Luật Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài thì pháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của chế độ HN&GĐ. Nếu pháp luật nước ngoài dẫn chiếu trở lại pháp luật Việt Nam thì áp dụng pháp luật HN&GĐ Việt Nam.
Về các nguyên tắc chọn pháp luật áp dụng để điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài trong mối liên hệ với các HĐTTTP có sự tương đồng và phù hơp. Cụ thể là các nguyên tắc như: Nguyên tắc luật quốc tịch của đương sự (lex patriae); Nguyên tắc luật nơi cư trú của đương sự (lex domicillii); Nguyên tắc “luật của nước có Toà án, cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc” (lex fori); Nguyên tắc “luật nước nơi thực hiện hành vi” (Lex loci actus). Nguyên tắc này thường được áp dụng kèm theo nguyên tắc luật quốc tịch của các bên đương sự.
3.2.1.4. Đường lối xử lý huỷ việc kết hôn trái pháp luật
Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-BTP quy định về thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật tương đối cụ thể như sau:
“1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 10 của Luật HN&GĐ có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải nộp Giấy chứng nhận kết hôn đối với cá nhân quy định tại khoản 1 Điều 10 của Luật HN&GĐ hoặc giấy tờ, tài liệu khác chứng minh đã đăng ký kết hôn; tài liệu, chứng cứ chứng minh việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật HN&GĐ. Trường hợp vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng không cung cấp được Giấy chứng nhận kết hôn do bị thất lạc thì phải có xác nhận của UBND đã cấp Giấy chứng nhận kết hôn. 2. Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật theo quy định tại khoản 6 Điều 3 và Điều 11 của Luật HN&GĐ khi việc kết hôn đó đã được đăng ký tại đúng cơ quan có thẩm quyền”.
Như vậy, khi nhận được đơn yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, bắt buộc người nộp đơn phải xuất trình được giấy chứng nhận kết hôn hoặc giấy tờ, tài liệu khác chứng minh đã đăng ký kết hôn; tài liệu, chứng cứ chứng minh việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật HN&GĐ và việc kết hôn đó phải đúng thẩm quyền. Đây là điều kiện để phân biệt với việc xử lý kết hôn không đúng thẩm quyền và nam nữ chung sống như vợ chồng.
Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “1. Xử lý việc kết hôn trái pháp luật được Tòa án thực hiện theo quy định tại Luật này và pháp luật về TTDS. 2. Trong trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này và hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân đó. Trong trường hợp này, quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm các bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này. 3. Quyết định của Tòa án về việc hủy kết hôn trái pháp luật hoặc công nhận quan hệ hôn nhân phải được gửi cho cơ quan đã thực hiện việc đăng ký kết hôn để ghi vào sổ hộ tịch; hai bên kết hôn trái pháp luật; cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. 4. TANDTC chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này”.
Thêm vào đó, Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn cụ thể như sau: “…. 5. Việc xác định thời điểm “cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn”quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật HN&GĐ phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Tòa án yêu cầu đương sự xác định và cung cấp các tài liệu, chứng cứ để xác định thời điểm cả hai bên kết hôn đã có đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật HN&GĐ…” (khoản 5 Điều 2). Điều 4 Thông tư này hướng dẫn thêm: “1. Khi xem xét, giải quyết yêu cầu có liên quan đến việc hủy kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào yêu cầu của đương sự và điều kiện kết hôn, điều kiện công nhận quan hệ hôn nhân quy định tại Điều 8 và Điều 11 của Luật HN&GĐ để quyết định. 2. Trường hợp tại thời điểm kết hôn, hai bên kết hôn không có đủ điều kiện kết hôn nhưng sau đó có đủ điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật HN&GĐ thì Tòa án xử lý như sau: a) Nếu hai bên kết hôn cùng yêu cầu Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án quyết định công nhận quan hệ hôn nhân đó kể từ thời điểm các bên kết hôn có đủ điều kiện kết hôn…. b) Nếu một hoặc hai bên yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc có một bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân hoặc có một bên yêu cầu ly hôn còn bên kia không có yêu cầu thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trường hợp có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thì quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên từ thời điểm kết hôn đến thời điểm hủy việc kết hôn trái pháp luật được giải quyết theo quy định tại Điều 12 của Luật HN&GĐ. c) Trường hợp hai bên cùng yêu cầu Tòa án cho ly hôn hoặc có một bên yêu cầu ly hôn còn bên kia yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Trường hợp này, quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con từ thời điểm kết hôn đến thời điểm ly hôn được giải quyết theo quy định về quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên từ thời điểm kết hôn đến trước thời điểm đủ điều kiện kết hôn được giải quyết theo quy định tại Điều 16 của Luật HN&GĐ; quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên từ thời điểm đủ điều kiện kết hôn đến thời điểm ly hôn được giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật HN&GĐ. 3. Trường hợp hai bên đã đăng ký kết hôn nhưng tại thời điểm Tòa án giải quyết, hai bên kết hôn vẫn không có đủ các điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật HN&GĐ thì thực hiện như sau: a) Nếu có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật; b) Nếu một hoặc cả hai bên yêu cầu ly hôn hoặc yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án bác yêu cầu của họ và quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trường hợp quyết định theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản này thì Tòa án áp dụng quy định tại Điều 12 của Luật HN&GĐ để giải quyết hậu quả pháp lý của việc hủy kết hôn trái pháp luật. 4. Khi xử lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào quy định của pháp luật HN&GĐ có hiệu lực tại thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân để xác định việc kết hôn có trái pháp luật hay không. Trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu xử lý việc kết hôn trái pháp luật được thực hiện theo quy định của Luật HN&GĐ và pháp luật TTDS có hiệu lực tại thời điểm giải quyết. Đối với yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thuộc trường hợp cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc từ năm 1954, đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc thì vẫn xử lý theo Thông tư số 60/TATC ngày 22/02/1978 của TANDTC “Hướng dẫn giải quyết các trường hợp cán bộ, bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác”.
Như vậy, về nguyên tắc, khi kết hôn trái pháp luật mà có yêu cầu thì Tòa án sẽ hủy việc kết hôn trái pháp luật đó. Tuy nhiên, do tính chất đặc biệt của quan hệ HN&GĐ nên khi giải quyết việc kết hôn trái pháp luật cần xem xét tính chất của từng mối quan hệ cụ thể theo hướng: Xét tại thời điểm giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì sự vi phạm điều kiện kết hôn còn tiếp diễn không; Ý chí của các bên đối với mối quan hệ này là muốn công nhận hay không muốn công nhận.
Xét trong sự so sánh với Nghị quyết số 02/2000/HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành Luật HN&GĐ năm 2000 thì chỉ cần các bên đủ điều kiện kết hôn là đương nhiên được thừa nhận là vợ chồng mà các đương sự không được giành sự ưu ái là thể hiện một lần nữa có muốn công nhận quan hệ hôn nhân hay không như luật thực định hiện nay. Đây cũng là vấn đề cần cân nhắc khi hoàn thiện pháp luật về huỷ kết hôn trái pháp luật để đảm bảo tốt hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Tại thời điểm yêu cầu huỷ mà các bên chưa đủ điều kiện kết hôn thì việc kết hôn đó sẽ bị huỷ mà không có bất cứ ngoại lệ nào. Chỉ trong trường hợp tại thời điểm có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà các bên đã đủ điều kiện kết hôn thì mới xem xét có huỷ hay không huỷ. Việc không huỷ kết hôn trái pháp luật chỉ đặt ra khi chính các chủ thể trong quan hệ đó thể hiện ý chí mong muốn được công nhận quan hệ hôn nhân đó. Nếu họ yêu cầu ly hôn thì suy đoán là họ đã muốn thừa nhận quan hệ hôn nhân nên quan hệ đó được thừa nhận và được giải quyết theo đường lối về ly hôn. Tuy nhiên, trong Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP dùng cụm từ là “Trường hợp hai bên cùng yêu cầu Tòa án cho ly hôn hoặc có một bên yêu cầu ly hôn còn bên kia yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án giải quyết cho ly hôn”. Theo quan điểm của NCS, việc dùng cụm từ này là không chính xác vì có thể dẫn đến cách hiểu là quan hệ đó sẽ được chấm dứt bằng ly hôn một cách đương nhiên. Điều đó là không đúng với tinh thần bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, do đó, cần thay đổi cụm từ là “Toà án giải quyết theo đƣờng lối về ly hôn” thì chính xác và hợp lý hơn. Nếu khi có yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, chỉ cần một trong hai bên trong quan hệ kết hôn trái pháp luật không bày tỏ ý chí gì thì quan hệ đó sẽ bị huỷ.
Việc dựa vào ý chí của các chủ thể trong việc kết hôn trái pháp luật để ra quyết định huỷ việc kết hôn hay không dẫn đến những khó khăn và thuận lợi nhất định trong việc áp dụng pháp luật. Quy định này có thể coi là hợp lý khi việc yêu cầu huỷ không xuất phát từ ý muốn của hai bên nam nữ đó, nhưng sẽ là bất hợp lý khi một trong hai bên muốn chấm dứt vì những lý do khác nhau. Chẳng hạn như khi hai bên kết hôn thiếu tuổi luật định, khi có yêu cầu huỷ, các bên đã đủ tuổi kết hôn, nhưng một trong hai bên có quan hệ với người khác thì họ sẽ không yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân này để có thể kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác một cách hợp pháp hoặc họ sợ tài sản của họ trở thành tài sản chung của vợ chồng nên không yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác có liên quan. Hoặc trong trường hợp kết hôn trái pháp luật mà chưa bị huỷ thì một trong hai bên chết, vậy quan hệ đó có được thừa nhận không và được thừa nhận từ thời điểm nào để xác định quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể có liên quan. Pháp luật cần có hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp này. Ví dụ: anh A và chị B kết hôn khi các bên mới 17 tuổi, 10 năm sau anh A chết vì bệnh tật, lúc này có nên công nhận quan hệ hôn nhân của anh A và chị B hay không, để chị B có tư cách là vợ hợp pháp và được thừa kế tài sản của anh A? Đặt giả sử bố mẹ anh A có tranh chấp về tài sản thừa kế, không muốn cho chị B được hưởng thừa kế tài sản của anh A thì sẽ giải quyết như thế nào vụ việc này?
* Xử lý cụ thể các trường hợp kết hôn trái pháp luật
+ Giải quyết việc kết hôn vi phạm độ tuổi kết hôn
- Nếu tại thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà các bên đã đủ tuổi kết hôn và cả hai bên yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì quan hệ đó sẽ được công nhận từ thời điểm hai bên đủ tuổi. Nếu hai bên yêu cầu ly hôn hoặc một bên yêu cầu ly hôn, bên kia yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì quan hệ đó vẫn được công nhận và được giải quyết theo đường lối ly hôn.
- Nếu tại thời điểm có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật mà các bên chưa đủ tuổi kết hôn thì việc kết hôn đó sẽ bị hủy.
Theo: Đức Thị Hòa
Link luận án:
https://docs.google.com/document/d/1vSFOdtNZFR3qHSBDXb3DskDOb5u86qGv/edit?rtpof=true