0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64a23650d63d4-BẤT-CẬP-TRONG-THỰC-TIỄN-BẢO-VỆ-QUYỀN-CỦA-NGƯỜI-BỊ-HẠI-TRONG-TỐ-TỤNG-HÌNH-SỰ--1-.jpg.webp

BẤT CẬP TRONG THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

 

4.1. Nhận định nguyên nhân

 Những bất cập, hạn chế trong thực tiễn bảo đảm quyền của NBH trong TTHS Việt Nam thời gian qua là xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, theo chúng tôi, về cơ bản có ba nguyên nhân chính sau:

4.1.1.   Nhận thức về quyền của người bị hại chưa đầy đủ

Đánh giá nguyên nhân của thực trạng bất cập trong bảo đảm quyền của NBH chúng tôi cho rằng nguyên nhân chính, cơ bản nhất là do xuất phát từ chính nhận thức không đầy đủ về quyền cuả người bị hại từ chính cơ quan lập pháp, từ phía cơ quan THTT, người THTT và từ chính NBH.

4.1.1.1. Từ phía cơ quan lập pháp

 Chúng tôi cho rằng từ phía cơ quan lập pháp, các nhà làm luật ở Việt Nam hiện nay chưa nhận thức đầy đủ lý luận về quyền của NBH cũng như tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức về quyền của NBH. Do chính lý luận về mục tiêu của hệ thống tư pháp hình sự ở Việt Nam chưa hướng đến NBH mà chỉ tập trung vào việc nhằm chứng minh tội phạm, chứng minh người phạm tội và đấu tranh phòng, chống, thông qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân.

4.1.1.2. Từ phía người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng

 Điều tra viên trong quá trình chứng minh, tìm sự thật VAHS chỉ chú trọng đến bị can, lỗi của bị can, cũng như diễn biến quá trình, hành vi phạm tội. NBH vì thế, trong quan niệm của người THTT, đóng vai trò như là một “đối tượng tác động nhằm gây thiệt hại” của hành vi phạm tội.

Phần lớn ĐTV và KSV vì muốn thuận lợi cho hoạt động tố tụng của mình, không muốn mất thời gian nên chỉ “quan tâm” và triệu tập NBH khi cần lời khai của họ như là một nhân chứng mà không thực hiện các nghĩa vụ như: không thông báo kết quả điều tra, không ghi nhận và thực hiện các yêu cầu điều tra từ phía NBH. CQĐT thường quan niệm NBH như là một “nguồn chứng cứ trực tiếp” và “phổ biến” phục vụ đắc lực cho việc chứng minh tội phạm; NBH là chủ thể “có nghĩa vụ khai báo”, hơn là một “chủ thể mang quyền”; NBH là người “phải có mặt khi có giấy triệu tập” hơn là một chủ thể “được tham gia vào quá trình giải quyết VAHS” để được yêu cầu bồi thường do những thiệt hại mà tội phạm đã gây ra cho họ.

Trong khi đó, thẩm phán trong quá trình xét xử cũng không quan tâm nhiều đến quyền tham gia phiên tòa của NBH, phần giải thích quyền và nghĩa vụ của người TGTT cũng chỉ quan tâm đến quyền và nghĩa vụ của Bị cáo. Nếu được triệu tập tham gia, NBH cũng ít có cơ hội được trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa, thường thì họ chỉ được hỏi về yêu cầu bồi thường thiệt hại. NBH hầu như không được Thẩm phán đề nghị đối đáp trong phần tranh luận về việc truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như đánh giá thiệt hại như một bên tranh tụng.

Các nguyên nhân dẫn đến nhận thức hạn chế của ĐTV, KSV và cán bộ tòa án về quyền của NBH thường do:

+ Người tiến hành tố tụng không được đào tạo và hiểu biết về quyền con người trong TTHS, trong đó có yêu cầu bảo đảm quyền của NBH.

+ Người tiến hành tố tụng quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, coi thường NBH và quyền của NBH.

+ Thiếu qui định ràng buộc, không có cơ chế về trách nhiệm bảo đảm thực hiện các quyền của NBH.

4.1.1.3. Từ phía người bị hại 

Hạn chế về nhận thức quyền của NBH biểu hiện rõ nhất là NBH không ý thức được mình là một chủ thể có quyền (quyền nhiều hơn nghĩa vụ) khi tham gia tố tụng. Tâm lý “sợ sệt”, né tránh tội phạm đồng thời phải “mang ơn” ĐTV, KSV, cán bộ tòa án và cơ quan THTT có tính phổ biến khi NBH tham gia TTHS. Hầu hết NBH không nhận thức hết được quyền và nghĩa vụ của mình trong TTHS nên khá thụ động khi tham gia tố tụng. Một phần nguyên nhân là do NBH và nguyên đơn dân sự không được giải thích quyền, nghĩa vụ một cách đầy đủ, kịp thời, mặt khác trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế nên họ e ngại tiếp xúc với cơ quan tiến hành tố tụng. Vì thế, người hại và nguyên đơn dân sự không chủ động cung cấp thông tin về vụ án và không biết để thực hiện quyền hoặc đòi hỏi thực hiện quyền của mình.

4.1.2.   Hệ thống pháp luật về người bị hại chưa hoàn thiện

Đây là nguyên nhân có ảnh hưởng lớn nhất tới thực trạng bất cập trong thực hiện quyền của NBH trên thực tế. Mặc dù BLTTHS năm 2003, Pháp lệnh TCĐTHS 2004 đã có những sửa đổi, hoàn thiện đáng kể, trong đó có ghi nhận sự tiến bộ của các chế định liên quan đến NBH và quyền của NBH. Thông tư số 09/2004/TT-BCA (V19) ngày 16/6/2004, Hướng dẫn áp dụng một số biện pháp bảo vệ người tố giác, người làm chứng, NBH trong các vụ án về ma tuý; đặc biệt là sự ra đời của Luật phòng, chống mua bán người 2011 và Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC- BNN&PTNT – VKSNDTC hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc trong việc tăng cường và bảo đảm hơn nữa quyền của NBH. Mặc dù vậy, qua thực tiễn áp dụng, hệ thống pháp luật hình sự và TTHS về quyền của NBH vẫn chỉ mang tính định hướng, nêu “tinh thần” về quyền mà chưa thực sự có ý nghĩa bảo đảm pháp lý thực thi hiệu quả quyền của NBH trên thực tế.

Các nguyên nhân xuất phát từ những bất cập trong các qui định của pháp luật về quyền của NBH đã được phân tích cụ thể ở Chương 3 và có thể khái quát gồm:

+ Định nghĩa về NBH chưa đầy đủ và chính xác, thiếu trường hợp NBH bị thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp, đặc biệt chưa xác định NBH bao gồm cả cá nhân và pháp nhân, gây nhiều vướng mắc trong thực tiễn xác định ai là NBH. Thời điểm và hình thức công nhận tư cách tố tụng của NBH chưa được xác định, các qui định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xác định NBH vẫn còn bỏ ngỏ.

+ Pháp luật TTHS chỉ mới qui định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền và cơ chế nhằm bảo đảm thực hiện quyền tố giác tội phạm và quyền được tham gia phiên tòa của NBH. Các quyền khác của NBH chưa có qui định thủ tục để thực hiện, đặc biệt, không có qui định ràng buộc các cơ quan THTT có nghĩa vụ thực thi các quyền đó. Do vậy, có thể nói, việc qui định các quyền cho NBH mà không kèm qui định về nghĩa vụ thực thi thì chỉ có ý nghĩa trên giấy (về lý thuyết) mà không có giá trị thực tiễn thực thi và bảo đảm quyền.

4.1.3.   Cơ chế bảo đảm quyền của người bị hại chưa hiệu quả

Theo nghĩa rộng, khi đề cập đến cơ chế bảo đảm quyền của NBH, cần xét đến các vấn đề vĩ mô (thuộc về kiến trúc thượng tầng) như: mô hình tố tụng, truyền thống lập pháp, lý luận về mục tiêu của hệ thống tư pháp hình sự, cơ quan chuyên trách bảo vệ quyền của NBH… Theo nghĩa hẹp, cần đề cập đến các vấn đề vi mô (cơ sở hạ tầng) như: vận hành bộ máy và tổ chức thực hiện pháp luật, cơ quan chuyên trách bảo vệ NBH, biện pháp tổ chức thực hiện quyền, tài chính, nhân lực phục vụ cho công tác bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền của NBH.

a)   Nguyên nhân vĩ mô.

 Về vĩ mô, phải thừa nhận có 2 nguyên nhân chính: Một là, xuất phát từ lý luận về mục tiêu của hệ thống tư pháp hình sự chưa hướng đến NBH và nguyên nhân thứ hai là do ở Việt Nam đang thiếu vắng cơ quan chuyên trách về nhân quyền.

+ Về nguyên nhân thứ nhất: lý luận hệ thống tư pháp hình sự (của Việt Nam cũng như của nhiều nền tư pháp hình sự điển hình của thế giới) là: nhằm chứng minh tội phạm, chứng minh người phạm tội và đấu tranh phòng, chống, thông qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân. Việc bảo vệ và bồi thường cho NBH được hay không chỉ là vấn đề “gián tiếp” hoặc “phái sinh”. Đây được chúng tôi đánh giá là nguyên nhân sâu xa, là xuất phát điểm của vấn đề vì sao ở Việt Nam, quyền của NBH đang là vấn đề bị lãng quên cả ở phương diện lập pháp, thiếu biện pháp thi hành ở bình diện hành pháp và cuối cùng là trong nhận thức và quan niệm của chính người THTT, người TGTT và nhà nghiên cứu về quyền con người trong TPHS.

Trong Luận án tiến sĩ với đề tài “NBH – trung tâm của nền tư pháp hình sự: một mô hình mới của tư pháp hình sự hiện đại”, tác giả Jonh William Stickels (Mỹ) đã kết luận: “Trong nhiều năm, chúng ta đã được giáo dục để hiểu và thừa nhận rằng mục tiêu cơ bản của hệ thống tư pháp hình sự là “tìm kiếm sự thật” về tội phạm và “kiểm soát tội phạm” mà quên đi quyền được đền bù của nạn nhân. Ở Việt Nam, tại BLTTHS - Điều 1. Nhiệm vụ của BLTTHS, qui định: “BLTTHS … nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”. Tại BLHS – Điều 1 cũng nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của Bộ luật hình sự … đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Bộ luật quy định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội” 

Như vậy, mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ NBH, bảo vệ pháp chế, bảo vệ trật tự công bằng xã hội là mục đích phái sinh (tức là mục tiêu đạt được khi đã thực hiện được mục tiêu là chứng minh tội phạm và người phạm tội, trừng trị đích đáng kẻ đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội bằng hình phạt. Quan niệm truyền thống (và cũng là một thực tế được thừa nhận một cách tự nhiên) trong hệ thống pháp luật hình sự và TTHS cho rằng: Mục tiêu bảo vệ quyền lợi của NBH, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân luôn được coi là “đã đạt được” khi tội phạm đã bị phát hiện và trừng trị. Thừa nhận này đã vô tình dẫn đến thực tế trong hàng thập kỷ qua, các nhà lập pháp, hành pháp và cả tư pháp đều “bỏ rơi”, không coi trọng vai trò của NBH trong quá trình giải quyết VAHS. Quyền của NBH có thực sự được bảo đảm, lợi ích của họ có thật sự được luật hình sự bảo vệ hay không, họ có đòi lại được công lý hay không (có được đền bù thiệt hại thật sự hay không) và liệu thực tế NBH có được lợi ích gì khi tội phạm được chứng minh và hình phạt được áp dụng là những câu hỏi chưa hề được quan tâm hay trả lời một cách thấu đáo.

Có thể bước đầu đưa ra kết luận khi nhận định nguyên nhân của sự thiếu vắng cơ chế bảo đảm quyền của NBH ở Việt Nam, xét về mặt vĩ mô, là do mục tiêu của hệ thống tư pháp hình sự chưa hướng đến quyền NBH (dù gián tiếp). Lý luận khoa học tư pháp hình sự (thế giới và Việt Nam) vẫn chỉ thừa nhận 2 mục tiêu cơ bản của hệ thống tư pháp hình sự là (1) bảo đảm việc chứng minh sự thật VAHS “true finding of guilt” và (2) đấu tranh phòng, chống tội phạm- kiểm soát tội phạm – “controlling crime”, nên chế định tội phạm và địa vị pháp lý của người phạm tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án) luôn là vị trí trung tâm của hệ thống tư pháp hình sự. Hệ quả tất yếu của việc này là NBH trong các VAHS bị rơi vào tình thế chưa được quan tâm đúng mức, xét cả trên phương diện lập pháp và thi hành, áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự. Và do đó, các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền của NBH hiện nay chưa được thế giới, khu vực quan tâm đúng cũng như chưa được đề cập xây dựng ở Việt Nam.

+ Về nguyên nhân thứ hai: Nguyên nhân này đề cập chủ yếu đến thực trạng ở Việt Nam chưa có bộ máy chuyên trách (cơ quan bảo vệ quyền con người, lực lượng bảo vệ quyền con người) cho đến cách thức vận hành bộ máy và tổ chức thực hiện pháp luật, tài chính, nhân lực phục vụ cho công tác bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong TPHS, trong đó có NBH.

b) Nguyên nhân vi mô.

Nguyên nhân vi mô của vấn đề được chúng tôi xác định chủ yếu do: chưa có biện pháp tổ chức thực hiện quyền, thiếu tài chính, thiếu nhân lực phục vụ cho công tác bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền của NBH.

Theo: Đinh Thị Mai

Link luận án: 

https://docs.google.com/document/d/1WydPML7O6hrfyoh4yZeLXUDi6i076qmm/edit

avatar
Đặng Quỳnh
907 ngày trước
BẤT CẬP TRONG THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ HẠI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
 4.1. Nhận định nguyên nhân Những bất cập, hạn chế trong thực tiễn bảo đảm quyền của NBH trong TTHS Việt Nam thời gian qua là xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, theo chúng tôi, về cơ bản có ba nguyên nhân chính sau:4.1.1.   Nhận thức về quyền của người bị hại chưa đầy đủĐánh giá nguyên nhân của thực trạng bất cập trong bảo đảm quyền của NBH chúng tôi cho rằng nguyên nhân chính, cơ bản nhất là do xuất phát từ chính nhận thức không đầy đủ về quyền cuả người bị hại từ chính cơ quan lập pháp, từ phía cơ quan THTT, người THTT và từ chính NBH.4.1.1.1. Từ phía cơ quan lập pháp Chúng tôi cho rằng từ phía cơ quan lập pháp, các nhà làm luật ở Việt Nam hiện nay chưa nhận thức đầy đủ lý luận về quyền của NBH cũng như tầm quan trọng của việc nâng cao nhận thức về quyền của NBH. Do chính lý luận về mục tiêu của hệ thống tư pháp hình sự ở Việt Nam chưa hướng đến NBH mà chỉ tập trung vào việc nhằm chứng minh tội phạm, chứng minh người phạm tội và đấu tranh phòng, chống, thông qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân.4.1.1.2. Từ phía người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng Điều tra viên trong quá trình chứng minh, tìm sự thật VAHS chỉ chú trọng đến bị can, lỗi của bị can, cũng như diễn biến quá trình, hành vi phạm tội. NBH vì thế, trong quan niệm của người THTT, đóng vai trò như là một “đối tượng tác động nhằm gây thiệt hại” của hành vi phạm tội.Phần lớn ĐTV và KSV vì muốn thuận lợi cho hoạt động tố tụng của mình, không muốn mất thời gian nên chỉ “quan tâm” và triệu tập NBH khi cần lời khai của họ như là một nhân chứng mà không thực hiện các nghĩa vụ như: không thông báo kết quả điều tra, không ghi nhận và thực hiện các yêu cầu điều tra từ phía NBH. CQĐT thường quan niệm NBH như là một “nguồn chứng cứ trực tiếp” và “phổ biến” phục vụ đắc lực cho việc chứng minh tội phạm; NBH là chủ thể “có nghĩa vụ khai báo”, hơn là một “chủ thể mang quyền”; NBH là người “phải có mặt khi có giấy triệu tập” hơn là một chủ thể “được tham gia vào quá trình giải quyết VAHS” để được yêu cầu bồi thường do những thiệt hại mà tội phạm đã gây ra cho họ.Trong khi đó, thẩm phán trong quá trình xét xử cũng không quan tâm nhiều đến quyền tham gia phiên tòa của NBH, phần giải thích quyền và nghĩa vụ của người TGTT cũng chỉ quan tâm đến quyền và nghĩa vụ của Bị cáo. Nếu được triệu tập tham gia, NBH cũng ít có cơ hội được trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa, thường thì họ chỉ được hỏi về yêu cầu bồi thường thiệt hại. NBH hầu như không được Thẩm phán đề nghị đối đáp trong phần tranh luận về việc truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như đánh giá thiệt hại như một bên tranh tụng.Các nguyên nhân dẫn đến nhận thức hạn chế của ĐTV, KSV và cán bộ tòa án về quyền của NBH thường do:+ Người tiến hành tố tụng không được đào tạo và hiểu biết về quyền con người trong TTHS, trong đó có yêu cầu bảo đảm quyền của NBH.+ Người tiến hành tố tụng quan liêu, thiếu tinh thần trách nhiệm, coi thường NBH và quyền của NBH.+ Thiếu qui định ràng buộc, không có cơ chế về trách nhiệm bảo đảm thực hiện các quyền của NBH.4.1.1.3. Từ phía người bị hại Hạn chế về nhận thức quyền của NBH biểu hiện rõ nhất là NBH không ý thức được mình là một chủ thể có quyền (quyền nhiều hơn nghĩa vụ) khi tham gia tố tụng. Tâm lý “sợ sệt”, né tránh tội phạm đồng thời phải “mang ơn” ĐTV, KSV, cán bộ tòa án và cơ quan THTT có tính phổ biến khi NBH tham gia TTHS. Hầu hết NBH không nhận thức hết được quyền và nghĩa vụ của mình trong TTHS nên khá thụ động khi tham gia tố tụng. Một phần nguyên nhân là do NBH và nguyên đơn dân sự không được giải thích quyền, nghĩa vụ một cách đầy đủ, kịp thời, mặt khác trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế nên họ e ngại tiếp xúc với cơ quan tiến hành tố tụng. Vì thế, người hại và nguyên đơn dân sự không chủ động cung cấp thông tin về vụ án và không biết để thực hiện quyền hoặc đòi hỏi thực hiện quyền của mình.4.1.2.   Hệ thống pháp luật về người bị hại chưa hoàn thiệnĐây là nguyên nhân có ảnh hưởng lớn nhất tới thực trạng bất cập trong thực hiện quyền của NBH trên thực tế. Mặc dù BLTTHS năm 2003, Pháp lệnh TCĐTHS 2004 đã có những sửa đổi, hoàn thiện đáng kể, trong đó có ghi nhận sự tiến bộ của các chế định liên quan đến NBH và quyền của NBH. Thông tư số 09/2004/TT-BCA (V19) ngày 16/6/2004, Hướng dẫn áp dụng một số biện pháp bảo vệ người tố giác, người làm chứng, NBH trong các vụ án về ma tuý; đặc biệt là sự ra đời của Luật phòng, chống mua bán người 2011 và Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC- BNN&PTNT – VKSNDTC hướng dẫn thi hành quy định của BLTTHS về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc trong việc tăng cường và bảo đảm hơn nữa quyền của NBH. Mặc dù vậy, qua thực tiễn áp dụng, hệ thống pháp luật hình sự và TTHS về quyền của NBH vẫn chỉ mang tính định hướng, nêu “tinh thần” về quyền mà chưa thực sự có ý nghĩa bảo đảm pháp lý thực thi hiệu quả quyền của NBH trên thực tế.Các nguyên nhân xuất phát từ những bất cập trong các qui định của pháp luật về quyền của NBH đã được phân tích cụ thể ở Chương 3 và có thể khái quát gồm:+ Định nghĩa về NBH chưa đầy đủ và chính xác, thiếu trường hợp NBH bị thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp, đặc biệt chưa xác định NBH bao gồm cả cá nhân và pháp nhân, gây nhiều vướng mắc trong thực tiễn xác định ai là NBH. Thời điểm và hình thức công nhận tư cách tố tụng của NBH chưa được xác định, các qui định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục xác định NBH vẫn còn bỏ ngỏ.+ Pháp luật TTHS chỉ mới qui định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền và cơ chế nhằm bảo đảm thực hiện quyền tố giác tội phạm và quyền được tham gia phiên tòa của NBH. Các quyền khác của NBH chưa có qui định thủ tục để thực hiện, đặc biệt, không có qui định ràng buộc các cơ quan THTT có nghĩa vụ thực thi các quyền đó. Do vậy, có thể nói, việc qui định các quyền cho NBH mà không kèm qui định về nghĩa vụ thực thi thì chỉ có ý nghĩa trên giấy (về lý thuyết) mà không có giá trị thực tiễn thực thi và bảo đảm quyền.4.1.3.   Cơ chế bảo đảm quyền của người bị hại chưa hiệu quảTheo nghĩa rộng, khi đề cập đến cơ chế bảo đảm quyền của NBH, cần xét đến các vấn đề vĩ mô (thuộc về kiến trúc thượng tầng) như: mô hình tố tụng, truyền thống lập pháp, lý luận về mục tiêu của hệ thống tư pháp hình sự, cơ quan chuyên trách bảo vệ quyền của NBH… Theo nghĩa hẹp, cần đề cập đến các vấn đề vi mô (cơ sở hạ tầng) như: vận hành bộ máy và tổ chức thực hiện pháp luật, cơ quan chuyên trách bảo vệ NBH, biện pháp tổ chức thực hiện quyền, tài chính, nhân lực phục vụ cho công tác bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền của NBH.a)   Nguyên nhân vĩ mô. Về vĩ mô, phải thừa nhận có 2 nguyên nhân chính: Một là, xuất phát từ lý luận về mục tiêu của hệ thống tư pháp hình sự chưa hướng đến NBH và nguyên nhân thứ hai là do ở Việt Nam đang thiếu vắng cơ quan chuyên trách về nhân quyền.+ Về nguyên nhân thứ nhất: lý luận hệ thống tư pháp hình sự (của Việt Nam cũng như của nhiều nền tư pháp hình sự điển hình của thế giới) là: nhằm chứng minh tội phạm, chứng minh người phạm tội và đấu tranh phòng, chống, thông qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân. Việc bảo vệ và bồi thường cho NBH được hay không chỉ là vấn đề “gián tiếp” hoặc “phái sinh”. Đây được chúng tôi đánh giá là nguyên nhân sâu xa, là xuất phát điểm của vấn đề vì sao ở Việt Nam, quyền của NBH đang là vấn đề bị lãng quên cả ở phương diện lập pháp, thiếu biện pháp thi hành ở bình diện hành pháp và cuối cùng là trong nhận thức và quan niệm của chính người THTT, người TGTT và nhà nghiên cứu về quyền con người trong TPHS.Trong Luận án tiến sĩ với đề tài “NBH – trung tâm của nền tư pháp hình sự: một mô hình mới của tư pháp hình sự hiện đại”, tác giả Jonh William Stickels (Mỹ) đã kết luận: “Trong nhiều năm, chúng ta đã được giáo dục để hiểu và thừa nhận rằng mục tiêu cơ bản của hệ thống tư pháp hình sự là “tìm kiếm sự thật” về tội phạm và “kiểm soát tội phạm” mà quên đi quyền được đền bù của nạn nhân. Ở Việt Nam, tại BLTTHS - Điều 1. Nhiệm vụ của BLTTHS, qui định: “BLTTHS … nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội”. Tại BLHS – Điều 1 cũng nhấn mạnh: “Nhiệm vụ của Bộ luật hình sự … đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Bộ luật quy định tội phạm và hình phạt đối với người phạm tội” Như vậy, mục tiêu bảo vệ công lý, bảo vệ NBH, bảo vệ pháp chế, bảo vệ trật tự công bằng xã hội là mục đích phái sinh (tức là mục tiêu đạt được khi đã thực hiện được mục tiêu là chứng minh tội phạm và người phạm tội, trừng trị đích đáng kẻ đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội bằng hình phạt. Quan niệm truyền thống (và cũng là một thực tế được thừa nhận một cách tự nhiên) trong hệ thống pháp luật hình sự và TTHS cho rằng: Mục tiêu bảo vệ quyền lợi của NBH, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của công dân luôn được coi là “đã đạt được” khi tội phạm đã bị phát hiện và trừng trị. Thừa nhận này đã vô tình dẫn đến thực tế trong hàng thập kỷ qua, các nhà lập pháp, hành pháp và cả tư pháp đều “bỏ rơi”, không coi trọng vai trò của NBH trong quá trình giải quyết VAHS. Quyền của NBH có thực sự được bảo đảm, lợi ích của họ có thật sự được luật hình sự bảo vệ hay không, họ có đòi lại được công lý hay không (có được đền bù thiệt hại thật sự hay không) và liệu thực tế NBH có được lợi ích gì khi tội phạm được chứng minh và hình phạt được áp dụng là những câu hỏi chưa hề được quan tâm hay trả lời một cách thấu đáo.Có thể bước đầu đưa ra kết luận khi nhận định nguyên nhân của sự thiếu vắng cơ chế bảo đảm quyền của NBH ở Việt Nam, xét về mặt vĩ mô, là do mục tiêu của hệ thống tư pháp hình sự chưa hướng đến quyền NBH (dù gián tiếp). Lý luận khoa học tư pháp hình sự (thế giới và Việt Nam) vẫn chỉ thừa nhận 2 mục tiêu cơ bản của hệ thống tư pháp hình sự là (1) bảo đảm việc chứng minh sự thật VAHS “true finding of guilt” và (2) đấu tranh phòng, chống tội phạm- kiểm soát tội phạm – “controlling crime”, nên chế định tội phạm và địa vị pháp lý của người phạm tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án) luôn là vị trí trung tâm của hệ thống tư pháp hình sự. Hệ quả tất yếu của việc này là NBH trong các VAHS bị rơi vào tình thế chưa được quan tâm đúng mức, xét cả trên phương diện lập pháp và thi hành, áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự. Và do đó, các cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền của NBH hiện nay chưa được thế giới, khu vực quan tâm đúng cũng như chưa được đề cập xây dựng ở Việt Nam.+ Về nguyên nhân thứ hai: Nguyên nhân này đề cập chủ yếu đến thực trạng ở Việt Nam chưa có bộ máy chuyên trách (cơ quan bảo vệ quyền con người, lực lượng bảo vệ quyền con người) cho đến cách thức vận hành bộ máy và tổ chức thực hiện pháp luật, tài chính, nhân lực phục vụ cho công tác bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong TPHS, trong đó có NBH.b) Nguyên nhân vi mô.Nguyên nhân vi mô của vấn đề được chúng tôi xác định chủ yếu do: chưa có biện pháp tổ chức thực hiện quyền, thiếu tài chính, thiếu nhân lực phục vụ cho công tác bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền của NBH.Theo: Đinh Thị MaiLink luận án: https://docs.google.com/document/d/1WydPML7O6hrfyoh4yZeLXUDi6i076qmm/edit