HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
4.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự
4.1.1.1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung khái niệm pháp lý về người bị hại
Nhiều vướng mắc về lý luận và thực tiễn trong thực hiện quyền của NBH là do khái niệm pháp lý về NBH qui định tại Điều 51 còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, chúng tôi đề nghị bổ sung, sửa đổi khái niệm NBH (Điều 51) trong BLTTHS như sau:
“Điều 51. Người bị hại
1. NBH là cá nhân, tổ chức bị tội phạm trực tiếp gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác. NBH được cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền công nhận khi xác định có dấu hiệu thiệt hại”.
2…”
Cụ thể, các kiến nghị mà chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung về khái niệm NBH qui định tại Điều 51 BLTTHS bao gồm:
Thứ nhất, quy định bổ sung chủ thể tổ chức trong khái niệm NBH.
Tổ chức (bao gồm tổ chức có tư cách pháp nhân và tổ chức không có tư cách pháp nhân) bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại là “NBH” và có đầy đủ quyền và nghĩa vụ của NBH. Do cách hiểu thu hẹp nghĩa của khái niệm NBH, không công nhận pháp nhân là NBH, đã vi phạm đến nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án. Hạn chế này dẫn đến hệ quả là pháp nhân không được sử dụng quyền của NBH mà phải có đơn mới được tham gia với tư cách là nguyên đơn dân sự, gây bất bình đẳng giữa người tham gia tố tụng là cá nhân và pháp nhân. Hơn nữa, thực tế ở Việt Nam hiện nay, như đã phân tích tại Chương 3, khi có xung đột do quan điểm NBH không thể là pháp nhân không giải quyết được, nhiều địa phương trong quá trình giải quyết VAHS đã thừa nhận các công ty. Đây cũng là kinh nghiệm lập pháp tiến bộ của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Nga.
Thứ hai, đề nghị bổ sung dấu hiệu “bị tội phạm trực tiếp gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại”.
Việc phân chia những người bị thiệt hại do tội phạm gây ra thành hai chủ thể độc lập là “NBH” với “nguyên đơn dân sự” là một trong những đặc điểm của luật TTHS Việt Nam. Vì thế, cần thiết bổ sung dấu hiệu “bị tội phạm trực tiếp gây ra thiệt hại” đối với NBH nhằm phân biệt NBH với nguyên đơn dân sự. Riêng dấu hiệu “bị đe dọa gây ra thiệt hại” được bổ sung có ý nghĩa xác định đầy đủ hơn phạm vi những chủ thể được coi là NBH. Bởi vì sẽ có những NBH mặc dù chưa có thiệt hại nhưng khả năng thực tế sẽ bị thiệt hại nếu không được ngăn chặn kịp thời. Những người chỉ bị đe dọa gây ra thiệt hại có khả năng cung cấp thông tin về vụ án với địa vị pháp lý NBH mà không thể là người làm chứng theo luật TTHS Việt Nam. Kiến nghị này phù hợp với ý kiến của đa số những cán bộ hoạt động thực tiễn.
Thứ ba, đề nghị bổ sung quy định “NBH được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng công nhận khi xác định có dấu hiệu thiệt hại”.
Để đảm bảo quyền của NBH, các cơ quan có thẩm quyền THTT, cụ thể là CQĐT và một số cơ quan có thẩm quyền điều tra khác có nghĩa vụ công nhận tư cách NBH khi xác định sơ bộ có dấu hiệu thiệt hại do tội phạm gây ra. Khoảng thời gian có thể tiến hành công nhận tư cách NBH hợp lý là sau khi khởi tố VAHS cho đến trước ngày quyết định đưa vụ án ra xét xử. Việc thừa nhận NBH phải được thể hiện bằng văn bản (thông báo hoặc quyết định), trong đó có nêu rõ họ tên, là NBH trong vụ án gì, quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quy định pháp luật. Trước khi vụ án được khởi tố không thể xác định bất kỳ một tư cách tố tụng nào. Sau khi vụ án được khởi tố NBH cần được sự công nhận chính thức bằng văn bản về tư cách tham gia tố tụng để họ chủ động thực hiện các quyền tố tụng đồng thời cũng phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật TTHS. Người bị thiệt hại không thể chờ cho đến khi cơ quan THTT triệu tập để lấy lời khai, lúc đó mới xác định tư cách tham gia tố tụng là NBH và được giải thích quyền, nghĩa vụ. Kiến nghị bổ sung hình thức công nhận và nghĩa vụ công nhận NBH từ phía cơ quan THTT sẽ khắc phục được tình trạng người bị thiệt hại bị “bỏ quên”, không được triệu tập tham gia tố tụng mà họ cũng không thể biết mình có quyền tham gia tố tụng không, với địa vị tố tụng gì.
4.1.1.2. Kiến nghị bổ sung, sửa đổi Khoản 2, Điều 51 BLTTHS về một số quyền, nghĩa vụ cơ bản của NBH
Như đã phân tích tại mục 2.4.2 (chương 2) và Chương 3, việc qui định các quyền và nghĩa vụ của NBH theo trình tự tố tụng như tại Khoản 2 Điều 51 BLTTHS hiện hành có nhược điểm là bỏ sót một số quyền rất quan trọng và thiết thân của NBH như: quyền được công nhận là NBH, quyền được tham gia vào tiến trình giải quyết VAHS, quyền được bảo vệ, quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu trong bất kỳ giai đoạn nào của tiến trình tố tụng.
Hơn nữa, cũng theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi (phân tích ở mục 2.4.2), thống kê chỉ trong BLTTHS 2003 hiện hành, NBH có tới 26 quyền cụ thể và 2 nghĩa vụ chứ không chỉ bao gồm 14 quyền như được liệt kê tại các điểm a, b, c, d, đ, e khoản 2 Điều 51.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị bổ sung, sửa đổi 8 điểm lớn tương ứng với 8 nhóm quyền và nghĩa vụ của NBH. Các điểm đề nghị sửa đổi, bổ sung này được cơ cấu thành 8 điểm lớn, đánh số thứ tự từ 2.1 đến 2.8 thay vì 6 điểm nhỏ, qui định từ mục a, b, c, d, đ, e tại Khoản 2, Điều 51 BLTTHS hiện hành.
Cụ thể: Khoản 2, Điều 51 BLTTHS được chúng tôi đề nghị, sửa đổi một cách khá cơ bản như sau:
Điều 51.
“2. Người bị hại có những quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
2.1. Quyền được công nhận là người bị hại
NBH có quyền được xác định tư cách tham gia tố tụng là NBH. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định công nhận là NBH khi xác định cá nhân hoặc tổ chức có dấu hiệu bị tội phạm trực tiếp gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại.
2.2. Quyền tố giác, quyền yêu cầu và rút yêu cầu khởi tố
NBH trong các vụ án về các tội phạm được quy định tại Khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 170a và 171 của Bộ luật hình sự có quyền yêu cầu khởi tố VAHS và quyền rút yêu cầu khởi tố trước ngày mở phiên tòa xét xử VAHS. NBH trong các vụ án về các tội phạm khác có quyền tố giác, báo tin về tội phạm.
2.3. Quyền được thông tin
“NBH có quyền được thông tin hoặc quyền yêu cầu cung cấp thông tin về việc giải quyết VAHS. Gồm:
a. Được thông báo về kết quả giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm;
b. Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
c. Được nhận quyết định không khởi tố vụ án hình sự;
d. Được thông báo về việc khởi tố vụ án hình sự, những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch.
(Bổ sung quyền được thông báo thì mới đảm bảo quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch (đã được quy định) được khả thi)
đ. Được thông báo về kết quả điều tra;
e. Được nhận quyết định tạm đình chỉ điều tra; được nhận quyết định đình chỉ hoặc quyết định tạm vụ án;
g. Được đọc biên bản phiên tòa, được yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa;
h. Được giao bản án sơ thẩm và phúc thẩm;
k. Được biết địa chỉ yêu cầu cung cấp về các thông tin giải quyết VAHS.
(Nhằm đảm bảo khi NBH không được nhận các thông tin nêu trên, họ có thể gửi yêu cầu cung cấp thông tin đến cơ quan THTT kịp thời)
2.4. Quyền được tham gia tố tụng
Người bị hại có quyền được tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự, bao gồm:
a. Được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b. Được tham gia phiên tòa;
c. Được trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền trình bày lời buộc tội tại phiên toà;
d. Được đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ trong vụ án hình sự;
đ. Được trình bày lời buộc tội trong trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của người hạị hại;
e. Người bị hại có thể được tham gia các hoạt động như: Lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra khi cơ quan tiến hành tố tụng thấy cần thiết.
2.5. Quyền được bảo vệ
Khi có căn cứ để cho rằng người bị hại bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại đến tính mạng, tài sản, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm và tài sản thì cơ quan đang tiến hành tố tụng có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ. Người bị hại được quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình. Ngoài ra, người bị hại cũng được giữ bí mật thông tin theo yêu cầu chính đáng của họ.
2.6. Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại;
(Thay cụm từ “đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường” bằng “yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Việc thay đổi này tuy nhỏ nhưng sẽ đảm bảo thực hiện các yêu cầu bồi thường, bao gồm: loại thiệt hại phải bồi thường, mức bồi thường cụ thể, hình thức và phương thức bồi thường)
2.7. Quyền khiếu nại, quyền kháng cáo, quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng
a. Người bị hại có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
b. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường cũng như tội phạm bị xét xử và hình phạt được tuyên đối với bị cáo;
c. Người bị hại có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này.
2.8. Nghĩa vụ của người bị hại
a. Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án;
b. Người bị hại có nghĩa vụ khai báo trung thực.
Đề nghị bổ sung nghĩa vụ “khai báo trung thực” đồng thời đề nghị bỏ qui định “nếu từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể bị truy cứu TNHS” về tội qui định tại Điều 308 BLHS. Xuất phát từ 2 lý do. Về lý luận, NBH và bị can, bị cáo, người làm chứng được quyền “miễn thực hiện nghĩa vụ khai báo” theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966) của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Văn kiện pháp luật quốc tế này nêu rõ: mỗi người “không bị ép buộc phải chứng minh chống lại chính mình hoặc buộc tự thú là mình có tội” (Điều 14 khoản 3 (g)). Ý nghĩa của nó cũng được hiểu là “quyền không bị buộc phải làm chứng chống lại mình” [161, tr. 36-37]. Hơn nữa, do thực tiễn áp dụng BLHS và TTHS của Việt Nam gần 30 năm trở lại đây chưa có trường hợp nào NBH bị truy cứu TNHS về tội “từ chối khai báo”
4.1.1.3. Kiến nghị bổ sung Khoản 3, Khoản 4, Khoản 5 Điều 51 BLTTHS về một số quyền, nghĩa vụ cơ bản của NBH
Đề nghị bổ sung Khoản 3, 4, 5 Điều 51 như sau:
“Điều 51. Người bị hại
3. Trong trường hợp người bị hại chết, người bị hại mất tích, người bị hại là người chưa thành niên, người bị hại là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này.
4. Người đại diện hợp pháp của người bị hại khi tham gia tố tụng cũng có các quyền và nghĩa vụ như người bị hại.
5. Khi tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự, người bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình.”
4.1.1.4. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các qui định về nghĩa vụ thực thi quyền của cơ quan tiến hành tố tụng
Như đã phân tích ở mục 2.2.4. việc ghi nhận quyền của NBH luôn phải gắn liền với qui định về chủ thể có nghĩa vụ (là cơ quan tiến hành tố tụng) phải thực thi các hành động/ hoặc không hành động cụ thể để thực thi quyền đó.
Để đồng bộ và đảm bảo tính khả thi của các qui định về quyền của NBH, cần sửa đổi, bổ sung tương ứng các qui định liên quan đến nghĩa vụ của CQĐT, VKS và Tòa án. Bao gồm:
- Bổ sung qui định cơ quan THTT phải có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm thực hiện các quyền của NBH tại Khoản 6 Điều 51:
“Điều 51. (…)
6. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm thực hiện các quyền của người bị hại theo qui định tại Bộ luật này”
- Bổ sung quyền được thông báo về những người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch tại điểm c khoản 2 Điều 51 và điểm c khoản 2 Điều 52. Nếu bổ sung quyền được thông báo sẽ đảm bảo quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch (đã được quy định) được khả thi.
- Bổ sung qui định CQĐT có nghĩa vụ phải giao bản sao Kết luận điều tra cho NBH (Điều 160 BLTTHS), nghĩa vụ gửi quyết định không khởi tố VAHS cho NBH (Điều 108), nghĩa vụ gửi quyết định tạm đình chỉ điều tra cho NBH (Điều 164), nghĩa vụ gửi quyết định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ vụ án cho NBH (Điều 182), nghĩa vụ giao bản sao các quyết định và các loại văn bản khác cho NBH, tại các Điều 117, Điều 162, Điều 166, Điều 229 và Điều 254 BLTTHS. (Biên bản phiên tòa, bản án sơ thẩm và phúc thẩm)
- Bổ sung qui định nghĩa vụ của thư ký tòa án phải ghi những sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của NBH vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận. (K 4, Điều 200, BLTTHS).
- Bổ sung các qui định về nghĩa vụ tiếp nhận các tài liệu, đồ vật, yêu cầu của NBH (Điều 64) của cơ quan THTT. Bổ sung nghĩa vụ của chủ tọa phiên tòa phải hỏi NBH và nghe NBH trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa (Điều 207).
- Bổ sung qui định người THTT phải tôn trọng quyền được quyền được dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình của NBH khi tham gia tố tụng (Điều 24 BLTTHS).
- Bổ sung quy định: NBH được thanh toán chi phí đi lại và chi phí khác phát sinh khi phải tham gia tố tụng theo triệu tập của cơ quan THTT nhằm tạo điều kiện hỗ trợ cho NBH thực hiện nghĩa vụ khai báo và nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan THTT.
- Bổ sung quy định Cơ quan THTT có nghĩa vụ giữ bí mật thông tin cá nhân của NBH khi NBH có yêu cầu. (Điều 103, Điều 105).
4.1.1.5. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số trình tự, thủ tục tố tụng và những đảm bảo nhằm thực hiện quyền, nghĩa vụ của NBH
Thứ nhất, cần bổ sung quy định về sự có mặt của NBH tại phiên tòa (Điều 191) như sau :
“Điều 191....
1. NBH,... được triệu tập tham gia phiên tòa.”
Việc bổ sung thêm khoản 1 Điều 191 khẳng định quyền (đồng thời cũng là nghĩa vụ) tham gia phiên tòa của NBH. Quy định hiện hành chỉ nêu cách giải quyết các trường hợp vắng mặt NBH mà không nói về sự có mặt của họ.
Thứ hai, cần bổ sung thủ tục trình bày lời buộc tội tại phiên tòa của NBH đối với trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu NBH (khoản 3 Điều 51).
Cụ thể: “Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu NBH quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì NBH hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa sau khi kết thúc việc xét hỏi”. Nhằm thể hiện rõ hơn qui trình, thủ tục thực hiện quyền trình bày lời buộc tội của NBH.
Thứ ba, sửa đổi trình tự xét hỏi (Điều 207 BLTTHS).
Khoản 2 Điều 207 BLTTHS cần được sửa đổi như sau: “Khi xét hỏi từng người, Kiểm sát viên hỏi trước rồi đến người bảo vệ quyền lợi của NBH. Những người tham gia tố tụng có lợi ích bị tội phạm gây ra thiệt hại có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết của vụ án. Tiếp theo là người bào chữa hỏi; bị cáo, người đại diện hợp pháp hoặc có nghĩa vụ bồi thường có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết của vụ án. Người giám định được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định. Thẩm phán và các hội thẩm tham gia xét hỏi nếu thấy cần thiết”.
Sửa đổi, bổ sung này có ý nghĩa trong việc tăng cường vai trò của NBH cũng như hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa. Để phát huy vai trò của các bên tranh tụng, trong đó có NBH và đảm bảo sự vô tư trong hoạt động xét xử, thẩm phán và các hội thẩm không nên hỏi trước mà chỉ hỏi thêm những nội dung chưa rõ trong trường hợp cần thiết. Trình tự xét hỏi này cũng là đặc điểm đặc trưng của tố tụng tranh tụng.
Thứ tư, sửa đổi bổ sung trình tự phát biểu khi tranh luận (Điều 217 BLTTHS). “
Điều 217:
1. Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo... đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội (giữ nguyên đoạn 1 khoản 1 Điều 217, bỏ đoạn 2 khoản 1 điều 217).
Nếu vụ án được khởi tố theo yêu cầu NBH thì NBH trình bày lời buộc tội trước, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội sau.
2. NBH hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội bổ sung và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu có người bảo vệ quyền lợi thì người này phát biểu trước.
3. Bị cáo trình bày lời bào chữa..
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.”
Trong tranh luận, bên buộc tội (hoặc có lợi ích bị xâm phạm) phát biểu trước, sau đó mới đến lượt bên bào chữa (hoặc có nghĩa vụ) trình bày lời bào chữa. Trình tự này nhằm bảo vệ quyền và đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của các bên tham gia tố tụng, đồng thời phát huy vai trò của NBH.
Theo: Đinh Thị Mai
Link luận án:
https://docs.google.com/document/d/1WydPML7O6hrfyoh4yZeLXUDi6i076qmm/edit