0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64a23438796d2-NHỮNG-VẤN-ĐỀ-LÝ-LUẬN-VỀ-TỘI-CƯỚP-TÀI-SẢN-DƯỚI-HÌNH-THỨC-PHẠM-TỘI-CÓ-TỔ-CHỨC.jpeg.webp

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN DƯỚI HÌNH THỨC PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC

 

2.1. Những vấn đề lý luận về tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức

Để có thể nghiên cứu một sự vật, một hiện tượng, một quá trình... trước hết phải bắt đầu từ nó và nghiên cứu chính nó. Điều đó có nghĩa là muốn nghiên cứu tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức, trước hết phải xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm của tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức. Cần lưu ý rằng, tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức không phải là một tội danh độc lập với tội cướp tài mà là trường hợp phạm tội cướp tài sản được thực hiện bằng hình thức đồng phạm, hơn thế là đồng phạm phức tạp bởi yếu tố “có tổ chức”. Bởi vậy, để xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức, trước hết phải phân tích khái niệm và các dấu hiệu của tội cướp tài sản, kế đó là phân tích khái niệm và đặc điểm của phạm tội có tổ chức.

2.1.1. Khái niệm, đặc điểm tội cướp tài sản

Trong khoa học luật hình sự, ở các nước khác nhau có những khái niệm khác nhau về tội phạm, nhưng có thể khái quát những khái niệm đó thành hai loại là khái niệm hình thức và khái niệm nội dung về tội phạm. Theo khái niệm hình thức, “tội phạm” được hiểu “là hành vi bị đạo luật hình sự trừng trị”, còn theo khái niệm nội dung, “tội phạm” được hiểu “là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt”[124; tr.104-105]. Xét trên nhiều phương diện, khái niệm nội dung về tội phạm là chuẩn xác hơn về mặt khoa học, bởi nó cho phép làm sáng tỏ hơn bản chất xã hội đích thực của tội phạm, chỉ ra được những lợi ích của giai cấp nào bị tội phạm xâm phạm, thiệt hại nào mà tội phạm gây ra cho các quan hệ xã hội đang thống trị và những cơ sở nào để coi hành vi nào là tội phạm. Đồng thời, khái niệm nội dung về tội phạm chỉ ra được các dấu hiệu của tội phạm gồm tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi của hành vi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình phạt. Vì vậy, khái niệm nội dung về tội phạm “được xem như là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và không phải là tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lý khác...” Cũng vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà trong pháp luật hình sự ở nước ta, khái niệm tội phạm được các nhà làm luật ghi nhận một cách cụ thể và không có thay đổi nhiều. Trong pháp luật hình sự hiện hành, “tội phạm” được quy định: “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.

Với tính cách là cái “cơ bản”, cái “nền tảng”, khái niệm nội dung về tội phạm là cơ sở thống nhất cho việc nhận thức, xác định, xây dựng khái niệm về tội cụ thể. Điều đó có nghĩa là bất kỳ một tội phạm cụ thể nào cũng “mang” những dấu hiệu pháp lý của tội phạm nói chung, đồng thời có những dấu hiệu đặc trưng của nó. Đối với tội cướp tài sản, điều đó cũng không phải là ngoại lệ. Thuật ngữ “cướp” được hiểu là “lấy của người khác bằng vũ lực (nói về của cải hoặc nói chung cái quý giá)”[121, tr.310]. Trên cơ sở khái niệm tội phạm nói chung và nội hàm của “thuật ngữ cướp” nói trên, khái niệm cướp tài sản được hiểu một cách tương đối thống nhất trong khoa học luật hình sự, theo đó, cướp tài sản là “hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản”. Khái niệm cướp tài sản đã bao hàm trong nó cả những hành vi đặc trưng của tội cướp tài sản. Thông qua các dạng hành vi đặc trưng đó, tội cướp tài sản không chỉ xâm hại đến quyền sở hữu tài sản mà còn xâm phạm đến quyền nhân thân, quyền được bảo vệ về tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý trong các quan điểm khoa học và quy định của BLHS hiện hành về tội phạm và về cướp tài sản có thể đưa ra khái niệm tội cướp tài sản như sau: Tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quan hệ nhân thân và quyền sở hữu tài sản.

Tội cướp tài sản có một số đặc điểm riêng, phân biệt với các tội phạm khác. Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm, đặc điểm của tội phạm nói chung và khái niệm Tội cướp tài sản nói riêng, có thể khái quát một số đặc điểm của Tội cướp tài sản như sau:

Một là, Tội cướp tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mà cụ thể là xâm phạm đồng thời đến quan hệ sở hữu tài sản và quan hệ nhân thân. Đây là hai quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ đặc biệt nên nó thể hiện tính chất nguy hiểm cao cho xã hội của tội phạm cuớp tài sản.

Hai là, Tội cướp tài sản là hành vi do chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, tức là hành vi phải do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện và người đó không rơi vào trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự.

Ba là, chủ thể thực hiện hành vi cướp tài sản với lỗi cố ý trực tiếp (cố ý về cả hành vi và hậu quả). Nhận thức chủ quan của người phạm tội xuất phát từ mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác.

Bốn là, Tội cướp tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự, cụ thể là hành vi cướp tài sản phải được quy định trong BLHS mới bị coi là tội phạm, ngoài BLHS ra thì không một văn bản pháp luật nào có thể quy định về hành vi này bị coi là tội phạm. Và vì cướp tài sản bị coi là tội phạm nên chủ thể thực hiện hành vi cướp tài sản phải chịu hình phạt. Đây cũng là một trong những đặc điểm chung của tội phạm nhằm đảm bảo có sự phân biệt chính xác giữa các vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm hành chính,…với vi phạm hình sự.

 Cướp tài sản là một tội phạm cụ thể nên nó vừa mang dấu hiệu của tội phạm nói chung và có dấu hiệu riêng của mình. Các trường hợp phạm tội cướp tài sản rất đa dạng, có những nội dung riêng biệt. Tuy nhiên, dấu hiệu đặc trưng của trường hợp này là “phạm tội có tổ chức”. Bởi vậy, để có thể xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm của tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức cần xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm của phạm tội có tổ chức.

2.1.2.   Khái niệm, đặc điểm của phạm tội có tổ chức

Khái niệm về phạm tội có tổ chức đã được nêu ra khá nhiều trong khoa học luật hình sự. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng, “Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm, được bàn bạc, thống nhất hành động của hai người trở lên, trên cơ sở phân công vai trò, vị trí của từng người cụ thể" . Khái niệm này nêu ra quan điểm chung thống nhất đối với các khái niệm về phạm tội có tổ chức, đó là phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm này so với khái niệm phạm tội có tổ chức được ghi nhận trong BLHS (Khoản 2 Điều 17 BLHS năm 2015) xét về mặt lý luận là chưa thực sự đầy đủ. Khái niệm này chưa nêu ra được sự câu kết chặt chẽ và tính kế hoạch thống nhất trong việc thực hiện hành vi phạm tội có tổ chức. Theo một quan điểm khác, thì “Phạm tội có tổ chức là một dạng đồng phạm có thông mưu trước, một nhóm phạm tội có từ hai người trở lên, sự liên hệ giữa những người đồng phạm thể hiện tính bền vững và thống nhất, được hình thành thường là để thực hiện một lượng tội phạm không xác định”. Ngoài việc nêu ra quan điểm chung phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm, khái niệm này còn nhấn mạnh đây là dạng đồng phạm có thông mưu trước. Tuy nhiên, về mặt lý luận, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có thông mưu trước nhưng ở mức độ cao mà không phải chỉ là thông mưu trước ở mức độ thông thường. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật hình sự nước ta trước năm 1985 [91, tr. 326] tuy có đề cập phạm tội có tổ chức nhưng đều chưa có quy định về khái niệm của hình thức này. Trong các văn bản đó, phạm tội có tổ chức mới chỉ được quy định là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt. Từ BLHS năm 1985, khái niệm phạm tội có tổ chức đã được quy định và không có sự thay đổi nhiều qua các lần sửa đổi bổ sung BLHS. Khoản 2 Điều 17 BLHS hiện hành quy định: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Như vậy, dù dưới góc độ khoa học luật hình sự hay lập pháp hình sự thì khái niệm về phạm tội có tổ chức cũng có những điểm chung cơ bản nhất, vừa mang đặc điểm chung của chế định đồng phạm vừa có đặc trưng riêng của một hình thức đồng phạm đặc biệt. Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm, do hai người trở lên thực hiện với sự bàn bạc, thống nhất ý chí của những người tham gia. Tính chất đặc biệt của hình thức phạm tội này được đặc trưng bởi dấu hiệu “có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Sự câu kết chặt chẽ này chính là đặc điểm quan trọng nhất nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn hẳn của phạm tội có tổ chức, đồng thời nó cũng quy định sự khác nhau về chất giữa phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác. Nó vừa thể hiện đặc điểm của dấu hiệu chủ quan, vừa thể hiện đặc điểm của dấu hiệu khách quan. Mức độ câu kết chặt chẽ là căn cứ để phân biệt trường hợp phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác. Tuy nhiên, “câu kết chặt chẽ” là thuật ngữ mang tính chất định tính, không có sự lượng hóa cụ thể đối với sự câu kết nên dễ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự về chế định này. Chính vì vậy, cơ quan có thẩm quyền đã sớm có hướng dẫn về trường hợp này. Theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền [92] thì sự “câu kết chặt chẽ” trong phạm tội có tổ chức có thể được thể hiện dưới các dạng:

- Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như: đảng phái, hội, đoàn phản động, băng, ổ, nhóm,… có những tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội.

- Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước. Ví dụ: một số nhân viên nhà nước đã thông đồng với nhau tham ô nhiều lần; một số tên chuyên cùng nhau đi trộm cắp; một số tên hoạt động đầu cơ, buôn lậu có tổ chức đường dây để nắm nguồn hàng, vận chuyển, thông tin về giá cả,…

- Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm. Ví dụ: Trong các trường hợp trộm cắp, cướp tài sản của công dân mà có phân công điều tra trước về nơi ở, quy luật sinh hoạt của gia đình chủ nhà, phân công chuẩn bị phương tiện và hoạt động của mỗi người đồng phạm; v.v…

Mặc dù vậy, việc áp dụng hướng dẫn này trên thực tế để giải quyết các vụ án có trường hợp phạm tội có tổ chức cũng chưa thực sự thống nhất giữa các địa phương và giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Bởi vì, việc nhận định, đánh giá về sự “câu kết chặt chẽ” và mức độ câu kết phụ thuộc rất lớn vào nhận định của người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Qua thực tiễn xét xử, tính “câu kết chặt chẽ” được đánh giá thông qua các đặc trưng riêng về mặt chủ quan và khách quan của hình thức đồng phạm phạm tội có tổ chức. Về mặt khách quan, hai thuộc tính phản ánh bản chất, đặc trưng của tính câu kết chặt chẽ trong phạm tội có tổ chức là tính tổ chức chặt chẽ và tính kế hoạch thống nhất. Theo đó, “tính tổ chức chặt chẽ được hiểu là trước khi thực hiện tội phạm, những người đồng phạm đã liên kết, tập hợp với nhau thành các băng, nhóm tội phạm với quy mô lớn nhỏ khác nhau”[24, tr.49]. Tính kế hoạch thống nhất tức là tội phạm được thực hiện bao giờ cũng có kế hoạch từ trước, có sự tính toán chu đáo, kỹ càng, đầy đủ, thống nhất, thậm chí là có cả kế hoạch che giấu tội phạm. Hay nói cách khác, phạm tội có tổ chức luôn là hình thức đồng phạm có thông mưu trước. Về mặt chủ quan, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có thông mưu trước ở mức độ cao.

Trong BLHS, cụm từ “phạm tội có tổ chức” được sử dụng với ý nghĩa là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, là tình tiết định khung tăng nặng (tình tiết cấu thành tội phạm tăng nặng) của một số tội phạm cụ thể, nhằm chỉ phương thức thực hiện hành vi, với ý nghĩa phạm tội một cách có tổ chức. Phạm tội có tổ chức còn là hình thức đồng phạm đặc biệt, trong đó có sự phân công vai trò giữa người thực hành và người cầm đầu, chỉ huy trong việc thực hiện tội phạm. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm phức tạp. Những người đồng phạm có sự thỏa thuận, bàn bạc với nhau về hoạt động phạm tội chung trước khi thực hiện tội phạm. Nó đòi hỏi mối quan hệ giữa những người đồng phạm phải là mối quan hệ có tổ chức như một nhóm phạm tội. Cấp độ tổ chức càng chặt chẽ, càng mang tính hệ thống thì mức độ, tính nguy hiểm của phạm tội có tổ chức càng cao. “Nhóm phạm tội này thường được hình thành với phương hướng hoạt động có tính chất lâu dài, bền vững, thường có sự phân công vai trò thực hiện tội phạm khác nhau giữa những người đồng phạm nhằm thực hiện nhiều tội, phạm tội nhiều lần”. Trong đó cũng thường tồn tại quan hệ chỉ huy - phục tùng, mỗi người đồng phạm đều chịu sự điều khiển chung thống nhất, đều coi và sử dụng tổ chức phạm tội như là công cụ sức mạnh trong hoạt động phạm tội của mình. Bên cạnh đó, trong phạm tội có tổ chức thì vai trò của người tổ chức mang tính quyết định. Phạm tội có tổ chức khác với trường hợp đồng phạm có thông mưu trước chính là ở vai trò của người tổ chức: ở đồng phạm có thông mưu trước, những người phạm tội chỉ bàn nhau cách thức thực hiện tội phạm còn ở phạm tội có tổ chức thì người tổ chức có vị trí cao hơn những người khác, chịu trách nhiệm thiết kế hoạt động và chỉ huy thực hiện tội phạm. Trong đó, người tổ chức có thể là người cầm đầu, chủ mưu hoặc chỉ huy.

Bên cạnh đó, phạm tội có tổ chức đòi hỏi phải có tính có kế hoạch thống nhất. Thông thường, việc thực hiện tội phạm trong trường hợp phạm tội có tổ chức bao giờ cũng có kế hoạch từ trước. Trong đó, những người cùng tham gia thực hiện tội phạm có sự tính toán một cách chu đáo, kỹ càng, đầy đủ và thống nhất về mọi mặt từ khi chuẩn bị thực hiện tội phạm cho đến khi thực hiện xong tội phạm và thậm chí có thể có kế hoạch che giấu tội phạm, cách thức thực hiện tội phạm thường tinh vi, xảo quyệt. Hay nói cách khác, đây là hình thức đồng phạm có thông mưu trước ở mức độ cao. Giữa những người cùng thực hiện tội phạm có sự cố ý cùng liên kết về mặt ý thức khi bàn bạc, thỏa thuận kế hoạch và phân công vai trò thực hiện tội phạm. Trên cơ sở đó, mỗi người tham gia thực hiện tội phạm đều tìm cách hỗ trợ những người đồng phạm khác và cố gắng thực hiện hoạt động của mình nhằm đạt được kết quả phạm tội chung đã đề ra. Điều này hình thành nên mối quan hệ và tính thống nhất trong hành động của họ. Mức độ câu kết chặt chẽ hay không là một căn cứ để phân biệt phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác.

Với những đặc điểm của phạm tội có tổ chức trình bày ở trên, thông qua hình thức đồng phạm có tổ chức, tội phạm có thể được thực hiện nhiều lần, liên tục, gây ra những hậu quả nghiêm trọng, làm cho công tác phòng, chống tội phạm gặp nhiều khó khăn, tốn kém. Vì vậy, pháp luật hình sự Việt Nam quy định phạm tội có tổ chức là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Yếu tố đồng phạm có tổ chức làm cho hành vi nguy hiểm hơn, vì vậy phạm tội có tổ chức được quy định đầu tiên trong các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nói chung tại Điều 52 BLHS cũng như là tình tiết tăng nặng định khung đầu tiên trong tội cướp tài sản và các tội danh khác có quy định về tình tiết này. Ngoài ra, với tính đặc trưng bởi sự câu kết chặt chẽ trong quá trình chuẩn bị, thực hiện và che giấu tội phạm mà tình tiết phạm tội có tổ chức còn được quy định là tình tiết định tội của một số tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm BLHS. Ví dụ như Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109 BLHS),… Thông thường đó là những tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm có thông mưu trước và có dấu hiệu đặc trưng để phân biệt với các tội phạm khác chính là sự phân công vai trò giữa người ra lệnh với người thực hiện mệnh lệnh, thường có phương hướng hoạt động phạm tội lâu dài, bền vững và sự thống nhất ở mức độ cao trong kế hoạch thực hiện tội phạm. Phạm tội có tổ chức phản ánh dấu hiệu khách quan của cơ chế thực hiện hành vi phạm tội của một nhóm chủ thể trong hoàn cảnh cụ thể để thực hiện một hành vi phạm tội cụ thể. Như vậy, để kết luận một vụ án có sự tham gia của nhiều người là phạm tội có tổ chức thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh được hai vấn đề: Đây là một vụ đồng phạm và có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng tham gia thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, vấn đề thứ hai đã bao hàm đồng phạm nên trên thực tế chỉ cần chứng minh sự câu kết chặt chẽ để làm rõ yếu tố phạm tội có tổ chức.

Từ những điều phân tích khái quát trên đây về khái niệm và đặc điểm của phạm tội có tổ chức, tác giả luận án này chia sẻ với quan điểm cho rằng, “Phạm tội có tổ chức là một dạng đồng phạm có thông mưu trước, một nhóm phạm tội gồm hai người trở lên, sự liên hệ giữa những người đồng phạm thể hiện tính bền vững và thống nhất, được hình thành thường là để thực hiện một số lượng tội phạm không xác định. Phạm tội có tổ chức có thể là hình thức đồng phạm giản đơn, tất cả những người tham gia thực hiện tội phạm đã hành động với vai trò là người thực hành. Phạm tội có tổ chức cũng có thể là là hình thức đồng phạm phức tạp, tức có sự phân công vai trò giữa những người tham gia thực hiện tội phạm”.

Bởi những đặc điểm của phạm tội có tổ chức được trình bày trên đây, phạm tội có tổ chức có thể thực hiện tội phạm nhiều lần, liên tục, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Đó cũng là lý do chính lý giải vì sao phạm tội có tổ chức được pháp luật hình sự nước ta quy định là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 52 BLHS năm 2015. Trong nhiều cấu thành tội phạm, phạm tội có tổ chức được quy định là tình tiết định khung tăng nặng (dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng). Đối với tội cướp tài sản, quy định đó cũng không phải là ngoại lệ. Trong khoa học luật hình sự, liên quan đến phạm tội có tổ chức, một thuật ngữ được nhắc đến khá phổ biến là tội phạm có tổ chức. Đối với thuật ngữ tội phạm có tổ chức, “Người Mỹ cho rằng thuật ngữ tội phạm có tổ chức “Organized crime” lần đầu tiên được các chuyên gia Mỹ xây dựng vào năm 1915” Đây là một khái niệm đa nghĩa được tiếp cận dưới hai cấp độ là cấp độ hành vi và cấp độ chỉ hiện tượng xã hội. Ở cấp độ chỉ hành vi, “tội phạm có tổ chức là một tội phạm do một số người đã cấu kết với nhau để thực hiện một cách có tổ chức”. Như vậy, dưới góc độ khoa học luật hình sự, tội phạm có tổ chức là những hành vi cố ý phạm tội được thực hiện một cách có tổ chức, hay nói cách khác, tội phạm có tổ chức có nghĩa là những người phạm tội đã tổ chức thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS. Tội phạm có tổ chức là một cấp độ, một dạng đặc biệt của đồng phạm - đồng phạm phức tạp và cũng là một hiện tượng đồng phạm có tổ chức. Yếu tố “có tổ chức” trong khoa học luật hình sự đặc trưng bởi hai yếu tố là sự liên kết chặt chẽ của hai hay nhiều người và sự liên kết đó là có mục đích phạm tội. Như vậy, dưới góc độ luật hình sự có thể hiểu, “Tội phạm có tổ chức là một hành vi nguy hiểm cho xã hội do những người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có tổ chức, cố ý xâm hại đến những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và đáng bị xử lý bằng hình phạt”[41, tr.120]. Hay nói cách khác, tội phạm có tổ chức là tội phạm mà trong đó việc thực hiện hành vi khách quan đòi hỏi phải có sự cấu kết với nhiều người hoặc hành vi khách quan được thực hiện với sự cấu kết chặt chẽ của nhiều người. Tội phạm có tổ chức có thể là ở dạng tội phạm được thực hiện bằng đồng phạm có tổ chức hoặc tội phạm được thực hiện do thành lập, tham gia các tổ chức tội phạm hoặc do nhóm phạm tội có tổ chức chuyên nghiệp và được thực hiện trong một khoảng thời gian, không gian xác định.

Trong lực lượng Công an nhân dân, khi nghiên cứu về tội phạm có tổ chức, các nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm tội phạm có tổ chức có một số điểm khác biệt. Theo đó, tội phạm có tổ chức là những tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một băng nhóm tội phạm gây ra. Băng nhóm tội phạm có tổ chức có những dấu hiệu cơ bản sau[19]: “Số thành viên trong nhóm từ 03 người trở lên, liên kết với nhau trong một thời gian nhất định để thực hiện tội phạm, sự liên kết còn chưa chặt chẽ, dễ tan rã; Cấu trúc của tổ chức còn đơn giản, có 02 cấp, gồm tên cầm đầu và các thành viên trực tiếp thực hiện tội phạm hoặc liên kết với nhau như những mắt xích trong một đường dây; Đối tượng hoạt động mang tính chuyên nghiệp (yếu tố bắt buộc) nhưng thường chỉ gây ra một loại hoặc một số tội có phương thức, thủ đoạn tương tự; Động cơ phạm tội là vụ lợi. Tội phạm do chúng gây ra thường bị phát hiện sớm, độ ẩn của tội phạm thấp”. Cách hiểu về tội phạm có tổ chức này khá tương đồng với quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Tuy nhiên, đây chỉ là văn bản áp dụng trong ngành Công an khi thống kê tội phạm mà không phải là văn bản có giá trị áp dụng chung cho liên ngành tư pháp khi điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm có tổ chức nói chung và cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức nói riêng. Thiết nghĩ, khi ban hành văn bản hướng dẫn hoặc sửa đổi bổ sung BLHS, cơ quan có thẩm quyền nên cân nhắc, sử dụng hướng dẫn này để xác định một cách rõ ràng dấu hiệu phạm tội có tổ chức, tội phạm có tổ chức cũng như để nội luật hóa một cách triệt để quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia mà Việt Nam đã là thành viên.

Tội phạm có tổ chức và phạm tội có tổ chức có mối liên hệ với nhau, “là hai khái niệm giáp ranh nhưng không đồng nhất”. Tội phạm có tổ chức được hiểu như danh từ chỉ loại tội phạm để phân biệt với tội phạm khác không có tổ chức. Phạm tội có tổ chức chỉ trạng thái và phương thức thực hiện tội phạm, mang ý nghĩa trạng động từ diễn đạt ý nghĩa là hành động phạm tội được thực hiện một cách có tổ chức. “Phạm tội có tổ chức vừa là dấu hiệu định tính (tình tiết tăng nặng), vừa là dấu hiệu biểu hiện về mặt hình thức là phương thức thực hiện tội phạm một cách có tổ chức. Bằng cách đó, tình tiết “phạm tội có tổ chức” đã phản ánh hai đặc điểm quan trọng của tội phạm có tổ chức”.

Bên cạnh đó, còn có một thuật ngữ cần được phân biệt với phạm tội có tổ chức đó là tổ chức tội phạm. Trong những năm vừa qua, mặc dù BLHS Việt Nam chưa có quy định cụ thể nhưng thuật ngữ tổ chức tội phạm cũng đã được các cơ quan bảo vệ pháp luật sử dụng trong các vụ án mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Về lý luận, “Tổ chức tội phạm là một tập hợp người có sự liên kết, phân công, phối hợp hoạt động với nhau do một hoặc một số cá nhân thành lập, điều khiển một cách có kế hoạch nhằm thực hiện một hoặc nhiều tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” Qua khái niệm có thể thấy sự khác nhau của tổ chức tội phạm với phạm tội có tổ chức. Phạm tội có tổ chức chỉ trạng thái và phương thức thực hiện tội phạm, còn tổ chức tội phạm là danh từ chỉ một nhóm xã hội hình thành dưới dạng tổ chức – tổ chức của những người hoạt động phạm tội. Phạm tội có tổ chức có thể có sự phân công vai trò rõ ràng hoặc phân công vai trò không dứt khoát, rõ ràng. Nhưng đối với tổ chức tội phạm, sự phân công vai trò giữa các thành viên là tất yếu, là kết cấu của tổ chức tội phạm. Các thành viên luôn cùng nhau phối hợp, điều chỉnh sự đóng góp của cá nhân vào hậu quả phạm tội chung. Hay nói cách khác, mức độ câu kết giữa các thành viên trong tổ chức tội phạm đa dạng hơn, có tính bền vững hơn, tính quy mô và mục đích hoạt động rõ ràng hơn, tính kỷ luật cao hơn nhiều so với trường hợp phạm tội có tổ chức thông thường; Phạm tội có tổ chức có thể có một vài tên đóng vai trò người tổ chức hoặc cũng có trường hợp không có người tổ chức, vai trò người tổ chức không rõ ràng. Nhưng tổ chức tội phạm thì luôn có vai trò của người tổ chức mà thường là một nhóm đóng vai trò tổ chức – nhóm thủ lĩnh. Nhóm này bảo đảm sự phối hợp trong hoạt động phạm tội của các thành viên và hướng các hoạt động vào mục đích của tổ chức tội phạm; Tổ chức tội phạm có mục đích thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, phạm tội có tổ chức không có giới hạn loại tội phạm. Như vậy, nó có thể bị áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm do cố ý. Về bản chất pháp lý, tổ chức tội phạm là tổ chức được lập ra bởi một nhóm người có sự câu kết rất chặt chẽ với nhau nhằm thực hiện một hoặc một số hành vi phạm tội. “Việc truy cứu TNHS trong trường hợp này là nhằm hướng tới việc trừng trị sự ra đời, tồn tại của một loại “tổ chức nguy hiểm” trong xã hội”. Trong đó trước tiên hướng đến việc trừng trị hành vi lập nên tổ chức, sau đó là trừng trị hành vi phạm tội cụ thể của tổ chức đó. Trong khi phạm tội có tổ chức chỉ là hình thức đồng phạm đặc biệt, truy cứu TNHS trong trường hợp này là đối với hành vi cố ý phạm tội cụ thể dưới hình thức đồng phạm ở mức độ cao.

Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đã đưa ra khái niệm về nhóm tội phạm có tổ chức trên cơ sở cụ thể hóa số lượng người thực hiện hành vi phạm tội: ““Nhóm tội phạm có tổ chức” nghĩa là một nhóm có cơ cấu gồm từ ba người trở lên, tồn tại trong một thời gian và hoạt động có phối hợp để thực hiện một hay nhiều tội phạm nghiêm trọng hoặc các hành vi phạm tội được quy định trong Công ước này, nhằm giành được, trực tiếp hay gián tiếp, lợi ích về tài chính hay vật chất khác”[18]. So sánh khái niệm của Công ước với pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức cho thấy, “Nhóm tội phạm có tổ chức là một trường hợp đặc biệt của hình thức phạm tội có tổ chức. Đó là hình thức đồng phạm nhiều người câu kết với nhau để cùng thực hiện một tội phạm”. Như vậy, nhóm tội phạm có tổ chức có thể coi là khái niệm tương đồng với tổ chức tội phạm. Đây chính là một trong số những điểm tương đồng giữa luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự quốc tế mà cụ thể là Công ước trong việc quy định về nhóm tội phạm có tổ chức.

Thuật ngữ tổ chức tội phạm đã phổ biến ở các nước phát triển từ rất lâu trong lịch sử. Trong đó, một tên gọi chúng ta thường hay nghe nhắc đến là Mafia. Mafia được coi là tổ chức tội phạm có kỷ luật cao nhất, hoạt động bí mật nhất và thường được kết hợp thống nhất giữa tội phạm và quyền lực công. Trong giai đoạn hiện nay, dù muốn hay không, các quốc gia đều phải thừa nhận rằng tổ chức tội phạm là một tổ chức bất hợp pháp được thành lập nhằm mục đích thực hiện tội phạm. Và thực tế, sự hiện hữu của các tổ chức tội phạm đã gây nguy hiểm lớn cho xã hội dù tổ chức này đã thực hiện tội phạm hay chưa, đã thực hiện tội phạm một hay nhiều lần, đã thực hiện một hay nhiều tội phạm. Có thể thấy, mức độ nguy hiểm của tổ chức tội phạm cao hơn hẳn so với phạm tội có tổ chức. Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, ngày càng nhiều tổ chức được thành lập nhằm mục đích thực hiện tội phạm mà hiện nay thường được gọi là băng, ổ, nhóm tội phạm hoặc tổ chức tội phạm theo kiểu xã hội đen. “Các tổ chức này chuyên hoạt động phạm tội trên nhiều lĩnh vực, thậm chí cấu kết với các tổ chức tội phạm nước ngoài, dùng bạo lực hoặc nhiều thủ đoạn nguy hiểm để mở rộng và tăng mức độ ảnh hưởng của tổ chức”. Tổ chức tội phạm theo kiểu xã hội đen nổi bật được nhắc đến là Phúc Bồ, Khánh Trắng ở Hà Nội và Trương Văn Cam ở thành phố Hồ Chí Minh với việc thực hiện nhiều loại tội phạm khác nhau. Việc hình thành, tồn tại và phát triển các tổ chức tội phạm nêu trên không chỉ gây ra hậu quả cho xã hội qua các tội phạm do các tổ chức tội phạm đó gây ra mà còn thể hiện ở sự gây nguy hại nghiêm trọng cho trật tự, an toàn công cộng. Bản thân sự thành lập những tập hợp người có cùng mục đích phạm tội mà chưa cần có hoạt động phạm tội cụ thể đã đe dọa gây nguy hại cho trật tự, an toàn công cộng. Chính vì vậy, việc đấu tranh chống các tổ chức tội phạm này không thể chỉ thông qua việc đấu tranh chống các tội phạm có tổ chức do các tổ chức tội phạm gây ra mà cần phải được bắt đầu ngay từ khi tổ chức tội phạm đó được hình thành, tức là phải bao gồm cả việc đấu tranh chống sự hình thành và tồn tại của các tổ chức tội phạm nhằm hạn chế sự hình thành và gia tăng của các tổ chức tội phạm cũng như ngăn chặn các tội phạm có tổ chức do các tổ chức tội phạm thực hiện. Tuy nhiên, quy định của BLHS hiện hành về các tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức” nói chung và tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu đó. Các quy định này của BLHS hiện hành mới chỉ cho phép đấu tranh chống các tổ chức tội phạm thông qua việc đấu tranh chống các tội phạm do các tổ chức đó thực hiện mà chưa tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh trực tiếp và ngăn chặn kịp thời sự hình thành và tồn tại của các tổ chức tội phạm. Vì vậy, việc quy định cụ thể về tội phạm có tổ chức trong BLHS để có cơ sở xử lý hình sự một cách đúng đắn, công bằng, phù hợp là rất cần thiết. Điều này cũng phù hợp với yêu cầu nội luật hóa Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đối với quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam. Vì lẽ đó, theo tác giả, BLHS nên có thêm quy định coi những hành vi thành lập, tham gia hoặc hỗ trợ tổ chức có mục đích thực hiện tội phạm là tội phạm mà không chỉ dừng lại ở việc quy định hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm đặc biệt như tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân mới là tội phạm.

2.1.3. Khái niệm, đặc điểm của tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức

Việc phân tích khái niệm và đặc điểm của tội cướp tài sản cũng như khái niệm, đặc điểm của phạm tội có tổ chức không có mục đích tự thân mà là tạo tiền đề về mặt lý luận cho việc xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm của tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức, qua đó làm rõ vì sao pháp luật hình sự Việt Nam lại quy định là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt, là hình thức đồng phạm có tính nguy hiểm cao cho xã hội.

Khái niệm về tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức không thể không xây dựng trên cơ sở khái niệm tội phạm nói chung, khái niệm tội cướp tài sản và khái niệm phạm tội có tổ chức, bởi mối liên hệ giữa những khái niệm đó là mối liên hệ giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất. Cần nhấn mạnh thêm rằng, tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức được tiếp cận dưới góc độ luật hình sự, theo đó được hiểu là hành vi cướp tài sản có tổ chức mà không phải là một hiện tượng xã hội. Hơn thế, tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức không phải là tội danh độc lập với tội cướp tài sản mà chỉ là một trường hợp phạm tội của tội cướp tài sản được thực hiện dưới hình thức đồng phạm mang tính chất có tổ chức. Trong đó, hành vi phạm tội cướp tài sản không do một cá nhân thực hiện mà đòi hỏi sự tham gia của nhiều người và giữa họ có sự câu kết với nhau một cách chặt chẽ. Bởi vậy, có quan điểm khẳng định: “Phạm tội cướp tài sản có tổ chức là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc cướp tài sản, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu”[53, tr. 203]. Phân tích nội hàm của khái niệm phạm tội cướp tài sản có tổ chức, được nêu ra trong quan điểm trên đây, có thể thấy, mặc dù chỉ ra được nó là trường hợp phạm tội của tội cướp tài sản được thực hiện có sự bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc cướp tài sản. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là kế hoạch đó đã được thực hiện hay chưa, thì lời văn không rõ. Hơn thế, cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức đâu chỉ do người cầm đầu điều khiển mà còn có thể do người chủ mưu, người chỉ huy điều khiển. Đồng thời, nói đến tội phạm nói chung cũng như tội cướp tài sản nói riêng mà tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức là một trường hợp (tình tiết định khung tăng nặng) của nó, cần phải nói đến hành vi nguy hiểm cho xã hội. Vấn đề là ở chỗ, không có hành vi nguy hiểm (đáng kể) cho xã hội thì không có tội phạm. Trong khi đó khái niệm nêu trên mới chỉ đề cập đến phạm tội cướp tài sản có tổ chức. Thiết nghĩ, sẽ là hợp lý nếu trong khái niệm về tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức, ngoài việc khẳng định là hành vi, còn nêu thêm phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi, các đặc điểm về độ tuổi, về năng lực chịu trách nhiệm hình sự và mục đích của hành vi. Như vậy, kết hợp khái niệm và các dấu hiệu của tội phạm (nói chung), khái niệm và đặc điểm của tội cướp tài sản, khái niệm và đặc điểm của phạm tội có tổ chức, có thể xây dựng khái niệm về tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức như sau: Tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc có hành vi khác, do nhiều người đều có năng lực trách nhiệm hình sự và đều đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự câu kết chặt chẽ với nhau cùng thực hiện một cách cố ý nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.

Theo: Đoàn Ngọc Chỉnh

Link luận án: 

https://docs.google.com/document/d/1fMXsd_HaecEjZOmXMgPs6jjEYwQmpHtC/edit

 

avatar
Đặng Quỳnh
576 ngày trước
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN DƯỚI HÌNH THỨC PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC
 2.1. Những vấn đề lý luận về tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chứcĐể có thể nghiên cứu một sự vật, một hiện tượng, một quá trình... trước hết phải bắt đầu từ nó và nghiên cứu chính nó. Điều đó có nghĩa là muốn nghiên cứu tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức, trước hết phải xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm của tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức. Cần lưu ý rằng, tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức không phải là một tội danh độc lập với tội cướp tài mà là trường hợp phạm tội cướp tài sản được thực hiện bằng hình thức đồng phạm, hơn thế là đồng phạm phức tạp bởi yếu tố “có tổ chức”. Bởi vậy, để xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức, trước hết phải phân tích khái niệm và các dấu hiệu của tội cướp tài sản, kế đó là phân tích khái niệm và đặc điểm của phạm tội có tổ chức.2.1.1. Khái niệm, đặc điểm tội cướp tài sảnTrong khoa học luật hình sự, ở các nước khác nhau có những khái niệm khác nhau về tội phạm, nhưng có thể khái quát những khái niệm đó thành hai loại là khái niệm hình thức và khái niệm nội dung về tội phạm. Theo khái niệm hình thức, “tội phạm” được hiểu “là hành vi bị đạo luật hình sự trừng trị”, còn theo khái niệm nội dung, “tội phạm” được hiểu “là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự và phải chịu hình phạt”[124; tr.104-105]. Xét trên nhiều phương diện, khái niệm nội dung về tội phạm là chuẩn xác hơn về mặt khoa học, bởi nó cho phép làm sáng tỏ hơn bản chất xã hội đích thực của tội phạm, chỉ ra được những lợi ích của giai cấp nào bị tội phạm xâm phạm, thiệt hại nào mà tội phạm gây ra cho các quan hệ xã hội đang thống trị và những cơ sở nào để coi hành vi nào là tội phạm. Đồng thời, khái niệm nội dung về tội phạm chỉ ra được các dấu hiệu của tội phạm gồm tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi của hành vi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu hình phạt. Vì vậy, khái niệm nội dung về tội phạm “được xem như là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và không phải là tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lý khác...” Cũng vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà trong pháp luật hình sự ở nước ta, khái niệm tội phạm được các nhà làm luật ghi nhận một cách cụ thể và không có thay đổi nhiều. Trong pháp luật hình sự hiện hành, “tội phạm” được quy định: “là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.Với tính cách là cái “cơ bản”, cái “nền tảng”, khái niệm nội dung về tội phạm là cơ sở thống nhất cho việc nhận thức, xác định, xây dựng khái niệm về tội cụ thể. Điều đó có nghĩa là bất kỳ một tội phạm cụ thể nào cũng “mang” những dấu hiệu pháp lý của tội phạm nói chung, đồng thời có những dấu hiệu đặc trưng của nó. Đối với tội cướp tài sản, điều đó cũng không phải là ngoại lệ. Thuật ngữ “cướp” được hiểu là “lấy của người khác bằng vũ lực (nói về của cải hoặc nói chung cái quý giá)”[121, tr.310]. Trên cơ sở khái niệm tội phạm nói chung và nội hàm của “thuật ngữ cướp” nói trên, khái niệm cướp tài sản được hiểu một cách tương đối thống nhất trong khoa học luật hình sự, theo đó, cướp tài sản là “hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản”. Khái niệm cướp tài sản đã bao hàm trong nó cả những hành vi đặc trưng của tội cướp tài sản. Thông qua các dạng hành vi đặc trưng đó, tội cướp tài sản không chỉ xâm hại đến quyền sở hữu tài sản mà còn xâm phạm đến quyền nhân thân, quyền được bảo vệ về tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý trong các quan điểm khoa học và quy định của BLHS hiện hành về tội phạm và về cướp tài sản có thể đưa ra khái niệm tội cướp tài sản như sau: Tội cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quan hệ nhân thân và quyền sở hữu tài sản.Tội cướp tài sản có một số đặc điểm riêng, phân biệt với các tội phạm khác. Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm, đặc điểm của tội phạm nói chung và khái niệm Tội cướp tài sản nói riêng, có thể khái quát một số đặc điểm của Tội cướp tài sản như sau:Một là, Tội cướp tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mà cụ thể là xâm phạm đồng thời đến quan hệ sở hữu tài sản và quan hệ nhân thân. Đây là hai quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ đặc biệt nên nó thể hiện tính chất nguy hiểm cao cho xã hội của tội phạm cuớp tài sản.Hai là, Tội cướp tài sản là hành vi do chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, tức là hành vi phải do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện và người đó không rơi vào trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự.Ba là, chủ thể thực hiện hành vi cướp tài sản với lỗi cố ý trực tiếp (cố ý về cả hành vi và hậu quả). Nhận thức chủ quan của người phạm tội xuất phát từ mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác.Bốn là, Tội cướp tài sản là hành vi trái pháp luật hình sự, cụ thể là hành vi cướp tài sản phải được quy định trong BLHS mới bị coi là tội phạm, ngoài BLHS ra thì không một văn bản pháp luật nào có thể quy định về hành vi này bị coi là tội phạm. Và vì cướp tài sản bị coi là tội phạm nên chủ thể thực hiện hành vi cướp tài sản phải chịu hình phạt. Đây cũng là một trong những đặc điểm chung của tội phạm nhằm đảm bảo có sự phân biệt chính xác giữa các vi phạm pháp luật dân sự, vi phạm hành chính,…với vi phạm hình sự. Cướp tài sản là một tội phạm cụ thể nên nó vừa mang dấu hiệu của tội phạm nói chung và có dấu hiệu riêng của mình. Các trường hợp phạm tội cướp tài sản rất đa dạng, có những nội dung riêng biệt. Tuy nhiên, dấu hiệu đặc trưng của trường hợp này là “phạm tội có tổ chức”. Bởi vậy, để có thể xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm của tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức cần xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm của phạm tội có tổ chức.2.1.2.   Khái niệm, đặc điểm của phạm tội có tổ chứcKhái niệm về phạm tội có tổ chức đã được nêu ra khá nhiều trong khoa học luật hình sự. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng, “Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm, được bàn bạc, thống nhất hành động của hai người trở lên, trên cơ sở phân công vai trò, vị trí của từng người cụ thể" . Khái niệm này nêu ra quan điểm chung thống nhất đối với các khái niệm về phạm tội có tổ chức, đó là phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm này so với khái niệm phạm tội có tổ chức được ghi nhận trong BLHS (Khoản 2 Điều 17 BLHS năm 2015) xét về mặt lý luận là chưa thực sự đầy đủ. Khái niệm này chưa nêu ra được sự câu kết chặt chẽ và tính kế hoạch thống nhất trong việc thực hiện hành vi phạm tội có tổ chức. Theo một quan điểm khác, thì “Phạm tội có tổ chức là một dạng đồng phạm có thông mưu trước, một nhóm phạm tội có từ hai người trở lên, sự liên hệ giữa những người đồng phạm thể hiện tính bền vững và thống nhất, được hình thành thường là để thực hiện một lượng tội phạm không xác định”. Ngoài việc nêu ra quan điểm chung phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm, khái niệm này còn nhấn mạnh đây là dạng đồng phạm có thông mưu trước. Tuy nhiên, về mặt lý luận, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có thông mưu trước nhưng ở mức độ cao mà không phải chỉ là thông mưu trước ở mức độ thông thường. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật hình sự nước ta trước năm 1985 [91, tr. 326] tuy có đề cập phạm tội có tổ chức nhưng đều chưa có quy định về khái niệm của hình thức này. Trong các văn bản đó, phạm tội có tổ chức mới chỉ được quy định là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt. Từ BLHS năm 1985, khái niệm phạm tội có tổ chức đã được quy định và không có sự thay đổi nhiều qua các lần sửa đổi bổ sung BLHS. Khoản 2 Điều 17 BLHS hiện hành quy định: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Như vậy, dù dưới góc độ khoa học luật hình sự hay lập pháp hình sự thì khái niệm về phạm tội có tổ chức cũng có những điểm chung cơ bản nhất, vừa mang đặc điểm chung của chế định đồng phạm vừa có đặc trưng riêng của một hình thức đồng phạm đặc biệt. Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm, do hai người trở lên thực hiện với sự bàn bạc, thống nhất ý chí của những người tham gia. Tính chất đặc biệt của hình thức phạm tội này được đặc trưng bởi dấu hiệu “có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Sự câu kết chặt chẽ này chính là đặc điểm quan trọng nhất nói lên tính chất và mức độ nguy hiểm cao hơn hẳn của phạm tội có tổ chức, đồng thời nó cũng quy định sự khác nhau về chất giữa phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác. Nó vừa thể hiện đặc điểm của dấu hiệu chủ quan, vừa thể hiện đặc điểm của dấu hiệu khách quan. Mức độ câu kết chặt chẽ là căn cứ để phân biệt trường hợp phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác. Tuy nhiên, “câu kết chặt chẽ” là thuật ngữ mang tính chất định tính, không có sự lượng hóa cụ thể đối với sự câu kết nên dễ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự về chế định này. Chính vì vậy, cơ quan có thẩm quyền đã sớm có hướng dẫn về trường hợp này. Theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền [92] thì sự “câu kết chặt chẽ” trong phạm tội có tổ chức có thể được thể hiện dưới các dạng:- Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như: đảng phái, hội, đoàn phản động, băng, ổ, nhóm,… có những tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội.- Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước. Ví dụ: một số nhân viên nhà nước đã thông đồng với nhau tham ô nhiều lần; một số tên chuyên cùng nhau đi trộm cắp; một số tên hoạt động đầu cơ, buôn lậu có tổ chức đường dây để nắm nguồn hàng, vận chuyển, thông tin về giá cả,…- Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm. Ví dụ: Trong các trường hợp trộm cắp, cướp tài sản của công dân mà có phân công điều tra trước về nơi ở, quy luật sinh hoạt của gia đình chủ nhà, phân công chuẩn bị phương tiện và hoạt động của mỗi người đồng phạm; v.v…Mặc dù vậy, việc áp dụng hướng dẫn này trên thực tế để giải quyết các vụ án có trường hợp phạm tội có tổ chức cũng chưa thực sự thống nhất giữa các địa phương và giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Bởi vì, việc nhận định, đánh giá về sự “câu kết chặt chẽ” và mức độ câu kết phụ thuộc rất lớn vào nhận định của người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Qua thực tiễn xét xử, tính “câu kết chặt chẽ” được đánh giá thông qua các đặc trưng riêng về mặt chủ quan và khách quan của hình thức đồng phạm phạm tội có tổ chức. Về mặt khách quan, hai thuộc tính phản ánh bản chất, đặc trưng của tính câu kết chặt chẽ trong phạm tội có tổ chức là tính tổ chức chặt chẽ và tính kế hoạch thống nhất. Theo đó, “tính tổ chức chặt chẽ được hiểu là trước khi thực hiện tội phạm, những người đồng phạm đã liên kết, tập hợp với nhau thành các băng, nhóm tội phạm với quy mô lớn nhỏ khác nhau”[24, tr.49]. Tính kế hoạch thống nhất tức là tội phạm được thực hiện bao giờ cũng có kế hoạch từ trước, có sự tính toán chu đáo, kỹ càng, đầy đủ, thống nhất, thậm chí là có cả kế hoạch che giấu tội phạm. Hay nói cách khác, phạm tội có tổ chức luôn là hình thức đồng phạm có thông mưu trước. Về mặt chủ quan, phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có thông mưu trước ở mức độ cao.Trong BLHS, cụm từ “phạm tội có tổ chức” được sử dụng với ý nghĩa là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, là tình tiết định khung tăng nặng (tình tiết cấu thành tội phạm tăng nặng) của một số tội phạm cụ thể, nhằm chỉ phương thức thực hiện hành vi, với ý nghĩa phạm tội một cách có tổ chức. Phạm tội có tổ chức còn là hình thức đồng phạm đặc biệt, trong đó có sự phân công vai trò giữa người thực hành và người cầm đầu, chỉ huy trong việc thực hiện tội phạm. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm phức tạp. Những người đồng phạm có sự thỏa thuận, bàn bạc với nhau về hoạt động phạm tội chung trước khi thực hiện tội phạm. Nó đòi hỏi mối quan hệ giữa những người đồng phạm phải là mối quan hệ có tổ chức như một nhóm phạm tội. Cấp độ tổ chức càng chặt chẽ, càng mang tính hệ thống thì mức độ, tính nguy hiểm của phạm tội có tổ chức càng cao. “Nhóm phạm tội này thường được hình thành với phương hướng hoạt động có tính chất lâu dài, bền vững, thường có sự phân công vai trò thực hiện tội phạm khác nhau giữa những người đồng phạm nhằm thực hiện nhiều tội, phạm tội nhiều lần”. Trong đó cũng thường tồn tại quan hệ chỉ huy - phục tùng, mỗi người đồng phạm đều chịu sự điều khiển chung thống nhất, đều coi và sử dụng tổ chức phạm tội như là công cụ sức mạnh trong hoạt động phạm tội của mình. Bên cạnh đó, trong phạm tội có tổ chức thì vai trò của người tổ chức mang tính quyết định. Phạm tội có tổ chức khác với trường hợp đồng phạm có thông mưu trước chính là ở vai trò của người tổ chức: ở đồng phạm có thông mưu trước, những người phạm tội chỉ bàn nhau cách thức thực hiện tội phạm còn ở phạm tội có tổ chức thì người tổ chức có vị trí cao hơn những người khác, chịu trách nhiệm thiết kế hoạt động và chỉ huy thực hiện tội phạm. Trong đó, người tổ chức có thể là người cầm đầu, chủ mưu hoặc chỉ huy.Bên cạnh đó, phạm tội có tổ chức đòi hỏi phải có tính có kế hoạch thống nhất. Thông thường, việc thực hiện tội phạm trong trường hợp phạm tội có tổ chức bao giờ cũng có kế hoạch từ trước. Trong đó, những người cùng tham gia thực hiện tội phạm có sự tính toán một cách chu đáo, kỹ càng, đầy đủ và thống nhất về mọi mặt từ khi chuẩn bị thực hiện tội phạm cho đến khi thực hiện xong tội phạm và thậm chí có thể có kế hoạch che giấu tội phạm, cách thức thực hiện tội phạm thường tinh vi, xảo quyệt. Hay nói cách khác, đây là hình thức đồng phạm có thông mưu trước ở mức độ cao. Giữa những người cùng thực hiện tội phạm có sự cố ý cùng liên kết về mặt ý thức khi bàn bạc, thỏa thuận kế hoạch và phân công vai trò thực hiện tội phạm. Trên cơ sở đó, mỗi người tham gia thực hiện tội phạm đều tìm cách hỗ trợ những người đồng phạm khác và cố gắng thực hiện hoạt động của mình nhằm đạt được kết quả phạm tội chung đã đề ra. Điều này hình thành nên mối quan hệ và tính thống nhất trong hành động của họ. Mức độ câu kết chặt chẽ hay không là một căn cứ để phân biệt phạm tội có tổ chức và các hình thức đồng phạm khác.Với những đặc điểm của phạm tội có tổ chức trình bày ở trên, thông qua hình thức đồng phạm có tổ chức, tội phạm có thể được thực hiện nhiều lần, liên tục, gây ra những hậu quả nghiêm trọng, làm cho công tác phòng, chống tội phạm gặp nhiều khó khăn, tốn kém. Vì vậy, pháp luật hình sự Việt Nam quy định phạm tội có tổ chức là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Yếu tố đồng phạm có tổ chức làm cho hành vi nguy hiểm hơn, vì vậy phạm tội có tổ chức được quy định đầu tiên trong các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nói chung tại Điều 52 BLHS cũng như là tình tiết tăng nặng định khung đầu tiên trong tội cướp tài sản và các tội danh khác có quy định về tình tiết này. Ngoài ra, với tính đặc trưng bởi sự câu kết chặt chẽ trong quá trình chuẩn bị, thực hiện và che giấu tội phạm mà tình tiết phạm tội có tổ chức còn được quy định là tình tiết định tội của một số tội phạm cụ thể trong Phần các tội phạm BLHS. Ví dụ như Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân (Điều 109 BLHS),… Thông thường đó là những tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm có thông mưu trước và có dấu hiệu đặc trưng để phân biệt với các tội phạm khác chính là sự phân công vai trò giữa người ra lệnh với người thực hiện mệnh lệnh, thường có phương hướng hoạt động phạm tội lâu dài, bền vững và sự thống nhất ở mức độ cao trong kế hoạch thực hiện tội phạm. Phạm tội có tổ chức phản ánh dấu hiệu khách quan của cơ chế thực hiện hành vi phạm tội của một nhóm chủ thể trong hoàn cảnh cụ thể để thực hiện một hành vi phạm tội cụ thể. Như vậy, để kết luận một vụ án có sự tham gia của nhiều người là phạm tội có tổ chức thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh được hai vấn đề: Đây là một vụ đồng phạm và có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng tham gia thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, vấn đề thứ hai đã bao hàm đồng phạm nên trên thực tế chỉ cần chứng minh sự câu kết chặt chẽ để làm rõ yếu tố phạm tội có tổ chức.Từ những điều phân tích khái quát trên đây về khái niệm và đặc điểm của phạm tội có tổ chức, tác giả luận án này chia sẻ với quan điểm cho rằng, “Phạm tội có tổ chức là một dạng đồng phạm có thông mưu trước, một nhóm phạm tội gồm hai người trở lên, sự liên hệ giữa những người đồng phạm thể hiện tính bền vững và thống nhất, được hình thành thường là để thực hiện một số lượng tội phạm không xác định. Phạm tội có tổ chức có thể là hình thức đồng phạm giản đơn, tất cả những người tham gia thực hiện tội phạm đã hành động với vai trò là người thực hành. Phạm tội có tổ chức cũng có thể là là hình thức đồng phạm phức tạp, tức có sự phân công vai trò giữa những người tham gia thực hiện tội phạm”.Bởi những đặc điểm của phạm tội có tổ chức được trình bày trên đây, phạm tội có tổ chức có thể thực hiện tội phạm nhiều lần, liên tục, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Đó cũng là lý do chính lý giải vì sao phạm tội có tổ chức được pháp luật hình sự nước ta quy định là một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại Điều 52 BLHS năm 2015. Trong nhiều cấu thành tội phạm, phạm tội có tổ chức được quy định là tình tiết định khung tăng nặng (dấu hiệu của cấu thành tội phạm tăng nặng). Đối với tội cướp tài sản, quy định đó cũng không phải là ngoại lệ. Trong khoa học luật hình sự, liên quan đến phạm tội có tổ chức, một thuật ngữ được nhắc đến khá phổ biến là tội phạm có tổ chức. Đối với thuật ngữ tội phạm có tổ chức, “Người Mỹ cho rằng thuật ngữ tội phạm có tổ chức “Organized crime” lần đầu tiên được các chuyên gia Mỹ xây dựng vào năm 1915” Đây là một khái niệm đa nghĩa được tiếp cận dưới hai cấp độ là cấp độ hành vi và cấp độ chỉ hiện tượng xã hội. Ở cấp độ chỉ hành vi, “tội phạm có tổ chức là một tội phạm do một số người đã cấu kết với nhau để thực hiện một cách có tổ chức”. Như vậy, dưới góc độ khoa học luật hình sự, tội phạm có tổ chức là những hành vi cố ý phạm tội được thực hiện một cách có tổ chức, hay nói cách khác, tội phạm có tổ chức có nghĩa là những người phạm tội đã tổ chức thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS. Tội phạm có tổ chức là một cấp độ, một dạng đặc biệt của đồng phạm - đồng phạm phức tạp và cũng là một hiện tượng đồng phạm có tổ chức. Yếu tố “có tổ chức” trong khoa học luật hình sự đặc trưng bởi hai yếu tố là sự liên kết chặt chẽ của hai hay nhiều người và sự liên kết đó là có mục đích phạm tội. Như vậy, dưới góc độ luật hình sự có thể hiểu, “Tội phạm có tổ chức là một hành vi nguy hiểm cho xã hội do những người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có tổ chức, cố ý xâm hại đến những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và đáng bị xử lý bằng hình phạt”[41, tr.120]. Hay nói cách khác, tội phạm có tổ chức là tội phạm mà trong đó việc thực hiện hành vi khách quan đòi hỏi phải có sự cấu kết với nhiều người hoặc hành vi khách quan được thực hiện với sự cấu kết chặt chẽ của nhiều người. Tội phạm có tổ chức có thể là ở dạng tội phạm được thực hiện bằng đồng phạm có tổ chức hoặc tội phạm được thực hiện do thành lập, tham gia các tổ chức tội phạm hoặc do nhóm phạm tội có tổ chức chuyên nghiệp và được thực hiện trong một khoảng thời gian, không gian xác định.Trong lực lượng Công an nhân dân, khi nghiên cứu về tội phạm có tổ chức, các nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm tội phạm có tổ chức có một số điểm khác biệt. Theo đó, tội phạm có tổ chức là những tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một băng nhóm tội phạm gây ra. Băng nhóm tội phạm có tổ chức có những dấu hiệu cơ bản sau[19]: “Số thành viên trong nhóm từ 03 người trở lên, liên kết với nhau trong một thời gian nhất định để thực hiện tội phạm, sự liên kết còn chưa chặt chẽ, dễ tan rã; Cấu trúc của tổ chức còn đơn giản, có 02 cấp, gồm tên cầm đầu và các thành viên trực tiếp thực hiện tội phạm hoặc liên kết với nhau như những mắt xích trong một đường dây; Đối tượng hoạt động mang tính chuyên nghiệp (yếu tố bắt buộc) nhưng thường chỉ gây ra một loại hoặc một số tội có phương thức, thủ đoạn tương tự; Động cơ phạm tội là vụ lợi. Tội phạm do chúng gây ra thường bị phát hiện sớm, độ ẩn của tội phạm thấp”. Cách hiểu về tội phạm có tổ chức này khá tương đồng với quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Tuy nhiên, đây chỉ là văn bản áp dụng trong ngành Công an khi thống kê tội phạm mà không phải là văn bản có giá trị áp dụng chung cho liên ngành tư pháp khi điều tra, truy tố, xét xử đối với tội phạm có tổ chức nói chung và cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức nói riêng. Thiết nghĩ, khi ban hành văn bản hướng dẫn hoặc sửa đổi bổ sung BLHS, cơ quan có thẩm quyền nên cân nhắc, sử dụng hướng dẫn này để xác định một cách rõ ràng dấu hiệu phạm tội có tổ chức, tội phạm có tổ chức cũng như để nội luật hóa một cách triệt để quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia mà Việt Nam đã là thành viên.Tội phạm có tổ chức và phạm tội có tổ chức có mối liên hệ với nhau, “là hai khái niệm giáp ranh nhưng không đồng nhất”. Tội phạm có tổ chức được hiểu như danh từ chỉ loại tội phạm để phân biệt với tội phạm khác không có tổ chức. Phạm tội có tổ chức chỉ trạng thái và phương thức thực hiện tội phạm, mang ý nghĩa trạng động từ diễn đạt ý nghĩa là hành động phạm tội được thực hiện một cách có tổ chức. “Phạm tội có tổ chức vừa là dấu hiệu định tính (tình tiết tăng nặng), vừa là dấu hiệu biểu hiện về mặt hình thức là phương thức thực hiện tội phạm một cách có tổ chức. Bằng cách đó, tình tiết “phạm tội có tổ chức” đã phản ánh hai đặc điểm quan trọng của tội phạm có tổ chức”.Bên cạnh đó, còn có một thuật ngữ cần được phân biệt với phạm tội có tổ chức đó là tổ chức tội phạm. Trong những năm vừa qua, mặc dù BLHS Việt Nam chưa có quy định cụ thể nhưng thuật ngữ tổ chức tội phạm cũng đã được các cơ quan bảo vệ pháp luật sử dụng trong các vụ án mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Về lý luận, “Tổ chức tội phạm là một tập hợp người có sự liên kết, phân công, phối hợp hoạt động với nhau do một hoặc một số cá nhân thành lập, điều khiển một cách có kế hoạch nhằm thực hiện một hoặc nhiều tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” Qua khái niệm có thể thấy sự khác nhau của tổ chức tội phạm với phạm tội có tổ chức. Phạm tội có tổ chức chỉ trạng thái và phương thức thực hiện tội phạm, còn tổ chức tội phạm là danh từ chỉ một nhóm xã hội hình thành dưới dạng tổ chức – tổ chức của những người hoạt động phạm tội. Phạm tội có tổ chức có thể có sự phân công vai trò rõ ràng hoặc phân công vai trò không dứt khoát, rõ ràng. Nhưng đối với tổ chức tội phạm, sự phân công vai trò giữa các thành viên là tất yếu, là kết cấu của tổ chức tội phạm. Các thành viên luôn cùng nhau phối hợp, điều chỉnh sự đóng góp của cá nhân vào hậu quả phạm tội chung. Hay nói cách khác, mức độ câu kết giữa các thành viên trong tổ chức tội phạm đa dạng hơn, có tính bền vững hơn, tính quy mô và mục đích hoạt động rõ ràng hơn, tính kỷ luật cao hơn nhiều so với trường hợp phạm tội có tổ chức thông thường; Phạm tội có tổ chức có thể có một vài tên đóng vai trò người tổ chức hoặc cũng có trường hợp không có người tổ chức, vai trò người tổ chức không rõ ràng. Nhưng tổ chức tội phạm thì luôn có vai trò của người tổ chức mà thường là một nhóm đóng vai trò tổ chức – nhóm thủ lĩnh. Nhóm này bảo đảm sự phối hợp trong hoạt động phạm tội của các thành viên và hướng các hoạt động vào mục đích của tổ chức tội phạm; Tổ chức tội phạm có mục đích thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, phạm tội có tổ chức không có giới hạn loại tội phạm. Như vậy, nó có thể bị áp dụng đối với tất cả các loại tội phạm do cố ý. Về bản chất pháp lý, tổ chức tội phạm là tổ chức được lập ra bởi một nhóm người có sự câu kết rất chặt chẽ với nhau nhằm thực hiện một hoặc một số hành vi phạm tội. “Việc truy cứu TNHS trong trường hợp này là nhằm hướng tới việc trừng trị sự ra đời, tồn tại của một loại “tổ chức nguy hiểm” trong xã hội”. Trong đó trước tiên hướng đến việc trừng trị hành vi lập nên tổ chức, sau đó là trừng trị hành vi phạm tội cụ thể của tổ chức đó. Trong khi phạm tội có tổ chức chỉ là hình thức đồng phạm đặc biệt, truy cứu TNHS trong trường hợp này là đối với hành vi cố ý phạm tội cụ thể dưới hình thức đồng phạm ở mức độ cao.Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đã đưa ra khái niệm về nhóm tội phạm có tổ chức trên cơ sở cụ thể hóa số lượng người thực hiện hành vi phạm tội: ““Nhóm tội phạm có tổ chức” nghĩa là một nhóm có cơ cấu gồm từ ba người trở lên, tồn tại trong một thời gian và hoạt động có phối hợp để thực hiện một hay nhiều tội phạm nghiêm trọng hoặc các hành vi phạm tội được quy định trong Công ước này, nhằm giành được, trực tiếp hay gián tiếp, lợi ích về tài chính hay vật chất khác”[18]. So sánh khái niệm của Công ước với pháp luật hình sự Việt Nam về phạm tội có tổ chức cho thấy, “Nhóm tội phạm có tổ chức là một trường hợp đặc biệt của hình thức phạm tội có tổ chức. Đó là hình thức đồng phạm nhiều người câu kết với nhau để cùng thực hiện một tội phạm”. Như vậy, nhóm tội phạm có tổ chức có thể coi là khái niệm tương đồng với tổ chức tội phạm. Đây chính là một trong số những điểm tương đồng giữa luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự quốc tế mà cụ thể là Công ước trong việc quy định về nhóm tội phạm có tổ chức.Thuật ngữ tổ chức tội phạm đã phổ biến ở các nước phát triển từ rất lâu trong lịch sử. Trong đó, một tên gọi chúng ta thường hay nghe nhắc đến là Mafia. Mafia được coi là tổ chức tội phạm có kỷ luật cao nhất, hoạt động bí mật nhất và thường được kết hợp thống nhất giữa tội phạm và quyền lực công. Trong giai đoạn hiện nay, dù muốn hay không, các quốc gia đều phải thừa nhận rằng tổ chức tội phạm là một tổ chức bất hợp pháp được thành lập nhằm mục đích thực hiện tội phạm. Và thực tế, sự hiện hữu của các tổ chức tội phạm đã gây nguy hiểm lớn cho xã hội dù tổ chức này đã thực hiện tội phạm hay chưa, đã thực hiện tội phạm một hay nhiều lần, đã thực hiện một hay nhiều tội phạm. Có thể thấy, mức độ nguy hiểm của tổ chức tội phạm cao hơn hẳn so với phạm tội có tổ chức. Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, ngày càng nhiều tổ chức được thành lập nhằm mục đích thực hiện tội phạm mà hiện nay thường được gọi là băng, ổ, nhóm tội phạm hoặc tổ chức tội phạm theo kiểu xã hội đen. “Các tổ chức này chuyên hoạt động phạm tội trên nhiều lĩnh vực, thậm chí cấu kết với các tổ chức tội phạm nước ngoài, dùng bạo lực hoặc nhiều thủ đoạn nguy hiểm để mở rộng và tăng mức độ ảnh hưởng của tổ chức”. Tổ chức tội phạm theo kiểu xã hội đen nổi bật được nhắc đến là Phúc Bồ, Khánh Trắng ở Hà Nội và Trương Văn Cam ở thành phố Hồ Chí Minh với việc thực hiện nhiều loại tội phạm khác nhau. Việc hình thành, tồn tại và phát triển các tổ chức tội phạm nêu trên không chỉ gây ra hậu quả cho xã hội qua các tội phạm do các tổ chức tội phạm đó gây ra mà còn thể hiện ở sự gây nguy hại nghiêm trọng cho trật tự, an toàn công cộng. Bản thân sự thành lập những tập hợp người có cùng mục đích phạm tội mà chưa cần có hoạt động phạm tội cụ thể đã đe dọa gây nguy hại cho trật tự, an toàn công cộng. Chính vì vậy, việc đấu tranh chống các tổ chức tội phạm này không thể chỉ thông qua việc đấu tranh chống các tội phạm có tổ chức do các tổ chức tội phạm gây ra mà cần phải được bắt đầu ngay từ khi tổ chức tội phạm đó được hình thành, tức là phải bao gồm cả việc đấu tranh chống sự hình thành và tồn tại của các tổ chức tội phạm nhằm hạn chế sự hình thành và gia tăng của các tổ chức tội phạm cũng như ngăn chặn các tội phạm có tổ chức do các tổ chức tội phạm thực hiện. Tuy nhiên, quy định của BLHS hiện hành về các tội phạm có dấu hiệu “có tổ chức” nói chung và tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức nói riêng chưa đáp ứng được yêu cầu đó. Các quy định này của BLHS hiện hành mới chỉ cho phép đấu tranh chống các tổ chức tội phạm thông qua việc đấu tranh chống các tội phạm do các tổ chức đó thực hiện mà chưa tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh trực tiếp và ngăn chặn kịp thời sự hình thành và tồn tại của các tổ chức tội phạm. Vì vậy, việc quy định cụ thể về tội phạm có tổ chức trong BLHS để có cơ sở xử lý hình sự một cách đúng đắn, công bằng, phù hợp là rất cần thiết. Điều này cũng phù hợp với yêu cầu nội luật hóa Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia đối với quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam. Vì lẽ đó, theo tác giả, BLHS nên có thêm quy định coi những hành vi thành lập, tham gia hoặc hỗ trợ tổ chức có mục đích thực hiện tội phạm là tội phạm mà không chỉ dừng lại ở việc quy định hoạt động thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm đặc biệt như tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân mới là tội phạm.2.1.3. Khái niệm, đặc điểm của tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chứcViệc phân tích khái niệm và đặc điểm của tội cướp tài sản cũng như khái niệm, đặc điểm của phạm tội có tổ chức không có mục đích tự thân mà là tạo tiền đề về mặt lý luận cho việc xây dựng khái niệm và phân tích đặc điểm của tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức, qua đó làm rõ vì sao pháp luật hình sự Việt Nam lại quy định là trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt, là hình thức đồng phạm có tính nguy hiểm cao cho xã hội.Khái niệm về tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức không thể không xây dựng trên cơ sở khái niệm tội phạm nói chung, khái niệm tội cướp tài sản và khái niệm phạm tội có tổ chức, bởi mối liên hệ giữa những khái niệm đó là mối liên hệ giữa cái chung, cái riêng và cái đơn nhất. Cần nhấn mạnh thêm rằng, tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức được tiếp cận dưới góc độ luật hình sự, theo đó được hiểu là hành vi cướp tài sản có tổ chức mà không phải là một hiện tượng xã hội. Hơn thế, tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức không phải là tội danh độc lập với tội cướp tài sản mà chỉ là một trường hợp phạm tội của tội cướp tài sản được thực hiện dưới hình thức đồng phạm mang tính chất có tổ chức. Trong đó, hành vi phạm tội cướp tài sản không do một cá nhân thực hiện mà đòi hỏi sự tham gia của nhiều người và giữa họ có sự câu kết với nhau một cách chặt chẽ. Bởi vậy, có quan điểm khẳng định: “Phạm tội cướp tài sản có tổ chức là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc cướp tài sản, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu”[53, tr. 203]. Phân tích nội hàm của khái niệm phạm tội cướp tài sản có tổ chức, được nêu ra trong quan điểm trên đây, có thể thấy, mặc dù chỉ ra được nó là trường hợp phạm tội của tội cướp tài sản được thực hiện có sự bàn bạc, câu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc cướp tài sản. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là kế hoạch đó đã được thực hiện hay chưa, thì lời văn không rõ. Hơn thế, cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức đâu chỉ do người cầm đầu điều khiển mà còn có thể do người chủ mưu, người chỉ huy điều khiển. Đồng thời, nói đến tội phạm nói chung cũng như tội cướp tài sản nói riêng mà tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức là một trường hợp (tình tiết định khung tăng nặng) của nó, cần phải nói đến hành vi nguy hiểm cho xã hội. Vấn đề là ở chỗ, không có hành vi nguy hiểm (đáng kể) cho xã hội thì không có tội phạm. Trong khi đó khái niệm nêu trên mới chỉ đề cập đến phạm tội cướp tài sản có tổ chức. Thiết nghĩ, sẽ là hợp lý nếu trong khái niệm về tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức, ngoài việc khẳng định là hành vi, còn nêu thêm phương thức, thủ đoạn thực hiện hành vi, các đặc điểm về độ tuổi, về năng lực chịu trách nhiệm hình sự và mục đích của hành vi. Như vậy, kết hợp khái niệm và các dấu hiệu của tội phạm (nói chung), khái niệm và đặc điểm của tội cướp tài sản, khái niệm và đặc điểm của phạm tội có tổ chức, có thể xây dựng khái niệm về tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức như sau: Tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức là hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng ngay tức khắc vũ lực hoặc có hành vi khác, do nhiều người đều có năng lực trách nhiệm hình sự và đều đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự câu kết chặt chẽ với nhau cùng thực hiện một cách cố ý nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.Theo: Đoàn Ngọc ChỉnhLink luận án: https://docs.google.com/document/d/1fMXsd_HaecEjZOmXMgPs6jjEYwQmpHtC/edit