BẤT CẬP TRONG VIỆC ĐỊNH TỘI ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1.1. Những sai lầm, vướng mắc trong việc định tội đối với tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Bên cạnh những kết quả đạt được, vì nhiều lý do, thực tế việc định tội danh đối với tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn có một số vi phạm, sai lầm. Trong 11 năm qua đã có 05 vụ án về tội cướp tài sản bị kháng nghị vì định tội sai, đó là trường hợp chuyển hóa tội phạm từ một số tội xâm phạm sở hữu khác sang tội cướp tài sản nhưng cơ quan tiến hành tố tụng đã không truy cứu TNHS về tội cướp tài sản mà truy cứu TNHS về tội xâm phạm sở hữu khác. Trong một số vụ án cơ quan tiến hành tố tụng định khung sai khi hành vi phạm tội thỏa mãn dấu hiệu của tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức nhưng chỉ truy cứu TNHS về tội cướp tài sản, bỏ lọt tình tiết tăng nặng định khung phạm tội có tổ chức và ngược lại. Những vi phạm, sai lầm trong định tội danh đối với tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh được thể hiện qua một số dạng cụ thể sau:
Thứ nhất, trường hợp định tội danh không đúng và bỏ lọt tình tiết định khung phạm tội có tổ chức. Trong một số trường hợp, bị cáo là người chủ mưu, cầm đầu, lên kế hoạch, chọn địa điểm, rủ rê, lôi kéo và tổ chức, phân công các đối tượng trong nhóm cùng thực hiện tội phạm, thể hiện rõ là phạm tội có tổ chức nhưng trong quá trình tiến hành tố tụng cũng như khi xét xử, hội đồng xét xử nhận định các bị cáo chỉ là đồng phạm giản đơn, không có sự thông mưu từ trước, không áp dụng tình tiết phạm tội có tổ chức, từ đó dẫn tới áp dụng không đúng pháp luật. Hoặc trường hợp định tội danh sai dẫn đến áp dụng sai tình tiết tăng nặng định khung.
Ví dụ như vụ án sau :
Phan Hồng T và Nguyễn Đức A là hai đối tượng không có nghề nghiệp, thường xuyên thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Sau nhiều ngày tìm hiểu địa bàn, thói quen sinh hoạt, chỗ ở và tài sản của Phạm Chí N thì T và A bàn bạc kế hoạch chiếm đoạt tài sản của anh N. Khoảng 23h30 phút ngày 29/4/2011, sau khi uống rượu với bạn, Phan Hồng T rủ Nguyễn Đức A đến nhà trọ để chiếm đoạt tài sản của anh Phạm Chí N. Khi đi, Phan Hồng T cầm theo một cây mã tấu tự tạo đưa cho A giấu trong người. Đến phòng trọ, Nguyễn Đức A gõ cửa nhưng anh N ngủ say nên A đưa mã tấu cho Phan Hồng T cầm và trèo vào phòng của N. A gọi anh N thức dậy nhưng anh N vẫn ngủ. A lục soát lấy được 1 cái bóp đưa cho Phan Hồng T đứng ở ngoài cửa. T đưa lại cây mã tấu cho A cầm, T mở bóp lấy được 50.000 đồng tiền Việt Nam và 01 tờ tiền Campuchia loại 100 đồng và đưa bóp cho A để trên bàn A tiếp tục gọi anh N. N thức dậy hỏi tại sao A vào phòng thì A cầm mã tấu đe dọa anh N “mày nói nữa tao chém chết mẹ”. Tiếp tục Phan Hồng T trèo vào phòng anh N và cùng Nguyễn Đức A lục soát lấy được của anh N 01 chiếc điện thoại di động Nokia N72 (trị giá 600.000 đồng) rồi cùng ra về. Tại cáo trạng số 32 ngày 10/9/2011, VKSND huyện Hóc Môn truy tố Phan Hồng T về Tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 135 BLHS năm 1999 (đối với Nguyễn Đức A do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự đối với tội danh này nên đã bị xử phạt hành chính). Tại bản án hình sự sơ thẩm số 38/2011/HSST, Tòa án huyện Hóc Môn áp dụng khoản 1 Điều 135 BLHS năm 1999, điểm g, p khoản 1 Điều 46, Điều 68, Điều 69, khoản 1 Điều 74 BLHS năm 1999 xử phạt Phan Hồng T 09 tháng tù về Tội cưỡng đoạt tài sản. Ngày 16/12/2011, người đại diện hợp pháp của Phan Hồng T kháng cáo xin cho T được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cảnh cáo do bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi. Bản án phúc thẩm số 18/2012/HSPT ngày 11/02/2012, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh áp dụng khoản 1 Điều 135, điểm g, p khoản 1 Điều 46, Điều 68, khoản 1 điều 74 BLHS năm 1999 giữ nguyên tội danh và hình phạt của bản án sơ thẩm đối với Phan Hồng T.
Bản án sơ thẩm và phúc thẩm nói trên đã bị Viện kiểm sát kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. Kháng nghị đã được chấp nhận. Bởi vì, sai lầm nghiêm trọng của cơ quan và người tiến hành tố tụng trong vụ án trên là xem xét, đánh giá hành vi phạm tội đã xác định sai tội danh của Phan Hồng T và Nguyễn Đức A. Hai người đã cùng nhau bàn bạc, mang theo mã tấu đến chỗ ở của anh N để chiếm đoạt tài sản. Sau khi vào được nhà và chiếm đoạt tài sản của anh N 50.000 đồng và 01 tờ tiền Campuchia, khi anh N thức dậy thì A Và T dùng mã tấu đe dọa và chiếm đoạt tiếp của anh N 01 điện thoại di động. Hành vi của A và T là hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc nhằm chiếm đoạt tài sản của anh N. Hành vi đó thỏa mãn dấu hiệu của tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999. Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm và phúc thẩm xét xử T và A về Tội cưỡng đoạt tài sản là đánh giá không chính xác hành vi phạm tội của các bị cáo, áp dụng không đúng quy định của BLHS. Do sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định tội danh nên đã bỏ lọt, không truy cứu TNHS đối với Nguyễn Đức A vì khi thực hiện hành vi phạm tội cướp tài sản A đã 15 tuổi 3 tháng 28 ngày, đủ tuổi chịu TNHS đối với tội danh này. Bên cạnh đó, trước khi thực hiện hành vi cướp tài sản, A và T đã có sự bàn bạc, thống nhất về kế hoạch thực hiện được tính toán kỹ càng, chu đáo, chuẩn bị sẵn hung khí nguy hiểm, phân công vai trò khi thực hiện hành vi và trước đó đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo kế hoạch đã thống nhất trước. Đây là dấu hiệu thỏa mãn dấu hiệu định khung phạm tội có tổ chức được quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 133 BLHS năm 1999. Như vậy, trong trường hợp này cơ quan tiến hành tố tụng đã nhận định, đánh giá không đúng về các tình tiết khách quan của vụ án cũng như hành vi của các bị cáo dẫn đến việc định tội danh không đúng và đã không áp dụng tình tiết định khung phạm tội có tổ chức.
Bên cạnh đó còn có một số sai lầm trong việc không áp dụng tình tiết phạm tội có tổ chức, ví dụ như vụ án sau[81]:
Khoảng 20 giờ ngày 11/4/2014, Vương Văn H gọi điện thoại rủ Nguyễn Tấn T và Đỗ Văn K đến phía sau khu chế xuất Linh Xuân chơi. Qua trò chuyện, H nhờ T và K đi cướp tài sản để H có tiền về quê thì T và K đồng ý. Tại đây, H nói cho T biết vị trí cất giấu bình xịt hơi cay, băng keo trong xe mô tô của H. H nhờ T đi tìm mua dao mã tấu và nói T dùng dao mã tấu chặt hai khúc cây giấu sẵn, T sẽ điều khiển xe mô tô chở H đến ngã tư Linh Xuân tìm tài xế xe ôm rồi giả thuê người chạy xe ôm đến khu vực vắng phía sau nghĩa trang thành phố, nơi T và K chờ sẵn để cướp tài sản. Sau khi thống nhất, K điều khiển xe mô tô của H chở H đến ngã tư Linh Xuân thì quay về và cùng T đứng đợi tại địa điểm đã hẹn. H thuê anh Nguyễn Tiến L chở H về phía sau nghĩa trang thành phố, nói dối là đi thăm người thân thì anh L đồng ý và điều khiển xe mô tô chở H theo yêu cầu và thỏa thuận giá là 50.000 đồng. Trên đường đi H gọi điện thoại báo cho K biết để chuẩn bị. Khi đến nơi thì gặp K ngồi trên xe mô tô chờ sẵn, còn T nấp phía trong, H yêu cầu anh L dừng xe lại vì đã có người đón. Khi dừng xe, H đưa cho anh L tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng. Trong lúc anh L trả lại tiền dư, K đưa bình xịt hơi cay cho H rồi H dùng bình xịt hơi cay xịt vào mặt anh L nên anh L bỏ chạy và hô “Cướp, cướp”. Thấy vậy, K, H cầm hai khúc cây, T từ phía trong chạy ra dùng dao mã tấu đuổi theo đánh anh L, anh L chạy bộ khoảng 100 mét bị vấp ngã thì bị H, T và K khống chế. Anh L nói “xin đừng giết tôi” thì H nói “giết ông làm gì, tôi chỉ cần tiền”. Anh L xin được giữ lại chứng minh nhân dân, 02 giấy phép lái xe thì H đồng ý. Anh L mở ví ra giữ lại chứng minh nhân dân, 02 giấy phép lái xe rồi đưa ví đựng tiền cho H, H dùng băng keo trói tay, chân anh L. Sau đó, H chiếm đoạt tài sản gồm xe mô tô, một điện thoại di động và số tiền 1.100.000 đồng của anh L rồi cùng T và K tẩu thoát. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, anh L được người dân phát hiện cởi trói và đưa đến Cơ quan Công an trình báo sự việc. Ngày 12/4/2014, H bán chiếc xe chiếm đoạt được cho một thanh niên (không rõ lai lịch) được 6.000.000 đồng rồi gọi điện thoại cho T, K đến. H đưa cho T, K mỗi người 500.000 đồng. Sau khi nhận tiền thì K trả lại cho H và nói với H “tôi giúp anh thôi chứ không lấy tiền”. Ngày 18/5/2014, Nguyễn Tấn T và Đỗ Văn K đầu thú. Tại bản án sơ thẩm số 32/2014/HSST, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức đã quyết định: đối với bị cáo Vương Văn H: áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20, 33, 53 BLHS năm 1999 xử phạt mức án 08 năm 6 tháng tù về tội “Cướp tài sản”; Đối với bị cáo Nguyễn Tấn T: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20, 33, 53 BLHS năm 1999; xử phạt bị cáo mức án từ 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”; đối với bị cáo Đỗ Văn K: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20, 33, 53 BLHS năm 1999; xử phạt bị cáo mức án từ 08 năm tù về tội “Cướp tài sản”.
Trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm đã định tội danh “Cướp tài sản” là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc chỉ áp dụng một tình tiết tăng nặng định khung “sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” mà không áp dụng tình tiết định khung phạm tội có tổ chức là chưa đúng quy định của pháp luật. Trong vụ án này, bị cáo H là người chủ mưu, cầm đầu, lên kế hoạch, chọn địa điểm, rủ rê, lôi kéo và tổ chức, phân công các đối tượng trong nhóm (T và K) cùng thực hiện tội phạm. Tuy chỉ thực hiện tội phạm một lần nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo kế hoạch được H vạch ra, tính toán một cách kỹ càng, chu đáo, thông báo cho các đồng phạm để thống nhất trước khi thực hiện. Những dấu hiệu này thể hiện rõ đây là trường hợp phạm tội có tổ chức. Tuy nhiên, do Tòa án cấp sơ thẩm nghiên cứu chưa kỹ hồ sơ vụ án cũng như quy định của pháp luật về đồng phạm nên nhận thức, đánh giá chưa đầy đủ và toàn diện về hành vi phạm tội của các bị cáo và xác định đây chỉ là đồng phạm giản đơn. Chính vì vậy đã không áp dụng tình tiết tăng nặng định khung phạm tội có tổ chức đối với hành vi phạm tội của các bị cáo. Việc không áp dụng tình tiết tăng nặng định khung này còn dẫn đến sai lầm trong việc quyết định mức hình phạt đối với từng người phạm tội sẽ được tác giả phân tích ở phần sau.
Trong quá trình định tội đối với tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức, một số trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thống nhất quan điểm định tội làm cho việc điều tra bị kéo dài, ví dụ như vụ án sau[74]:
Khoảng 19 giờ, ngày 17/6/2014, Hồ Văn H, Hồ Văn T, Hồ Văn L, Hồ Văn S, và Hồ Văn A cùng nhau uống rượu tại nhà của Hồ Văn T thì H rủ mọi người trong bàn nhậu đi chặn đường, đe dọa, khống chế, đánh lấy tài sản của những người đi đường để bán lấy tiền tiêu xài, cả bọn đồng ý tham gia. H đưa ra kế hoạch cướp tài sản, chỉ chỗ để những cây gỗ có thể dùng làm vũ khí mà H đã chuẩn bị trước đó, phân công người trực tiếp đánh là H, T, L, người chịu trách nhiệm lấy tài sản đem đi bán là S, A có trách nhiệm cảnh giới. Số tiền thu được sẽ chia đều cho cả nhóm. Bàn bạc xong, cả nhóm cùng kéo nhau đến địa điểm lấy hung khí và đến ngã ba để đợi thời cơ cướp tài sản. Đến địa điểm đã bàn, H lấy đoạn cây gỗ dài 1,85 m có đường kính 12 cm, T lấy một đoạn tre dài 2,12 m, đường kính 0,6 cm đặt nằm ngang giữa đường đồng thời tất cả đứng giăng thành hàng ngang giữa đường cùng nhau ngồi đợi để chặn xe của người đi đường. Một lúc sau có anh S một mình đi xe máy chạy ngang qua thì cả nhóm la hét, chặn lại nhưng do anh S là người quen của L nên L đứng ra xin tha cho anh S, cả nhóm đồng ý và cho anh S đi. Tiếp đến chị Lữ Thị T có công việc đi ngang qua thì cả nhóm cũng tiếp tục la hét, chặn lại đòi đánh nhưng chị T quay đầu xe lại bỏ chạy thoát được. Một lúc sau có anh Lương Ngọc V, Trần Phương D, Lê Văn P đi trên 02 chiếc xe máy chở máy bơm nước và một cái cưa máy chạy đến thì cả nhóm chặn lại, xáp đến la hét, đe dọa, bảo đưa tài sản nếu không đưa sẽ bị đánh làm cho cả 03 khiếp sợ không dám chống cự. H và đồng bọn giật lấy máy bơm nước và một máy cưa trên xe của anh V, D và P rồi chở về nhà anh của Hồ Văn S cất giấu. Hôm sau S đem tài sản cướp được đi bán và chia đều cho cả nhóm. Bằng thủ đoạn trên, nhóm này đã thực hiện thêm 02 vụ cướp ở đoạn đường gần địa điểm cũ, chiếm đoạt tổng số tài sản là 12.350.000 đồng. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra kết luận H và đồng phạm phạm tội cướp tài sản quy định tại Khoản 1 Điều 133 BLHS năm 1999 với nhận định H và các đồng phạm thực hiện hành vi phạm tội cướp có đồng phạm nhưng chỉ là đồng phạm giản đơn. Ở giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Giờ đã trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung với nhận định hành vi của các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Sau quá trình điều tra bổ sung, củng cố hồ sơ và đánh giá lại chứng cứ, cơ quan điều tra đã kết luận hành vi của H và đồng phạm phạm tội cướp tài sản với tình tiết định khung phạm tội có tổ chức quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 133 BLHS năm 1999. Tác giả đồng tình với quan điểm này. Trong vụ án, bị cáo H là người chủ mưu, cầm đầu, lên kế hoạch, chọn địa điểm, rủ rê, lôi kéo và tổ chức, phân công các đối tượng trong nhóm cùng thực hiện tội phạm. Nhóm này tuy tổ chức không chặt chẽ nhưng thực hiện hành vi phạm tội 03 lần với kế hoạch được bàn bạc cụ thể và việc phân công vai trò thực hiện hành vi tương đối cụ thể, rõ ràng trước khi thực hiện. Những dấu hiệu này thể hiện rõ đây là trường hợp phạm tội có tổ chức mà không đơn thuần chỉ là đồng phạm giản đơn. Vì vậy, việc các cơ quan tiến hành tố tụng thay đổi quan điểm, đánh giá đây là vụ đồng phạm có tổ chức là đúng với sự thật khách quan của vụ án, phù hợp với quy định của pháp luật.
Thứ hai, sai lầm khi đồng nhất khái niệm phạm tội có tổ chức với đồng phạm có thông mưu trước. Cụ thể là, trong một số vụ án phạm tội cướp tài sản dưới hình thức phạm tội có tổ chức, khi xét xử đã có quan điểm đồng nhất khái niệm phạm tội có tổ chức với đồng phạm có thông mưu trước dẫn đến việc định tội không đúng. Quan điểm này là sai lầm bởi vì đồng phạm có thông mưu trước và hình thức phạm tội có tổ chức là hai khái niệm thống nhất nhưng không đồng nhất. Hình thức phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có thông mưu trước nhưng kèm theo những dấu hiệu đặc trưng khác. Xét về mức độ nguy hiểm cho xã hội thì đồng phạm có tổ chức có mức độ nguy hiểm cao hơn so với đồng phạm có thông mưu trước. Hay nói cách khác, phạm tội có tổ chức cần được xác định là hình thức đồng phạm có thông mưu trước nhưng ở mức độ cao, có sự phân công vai trò giữa người thực hành và người chỉ huy, cầm đầu trong việc thực hiện tội phạm. Do chưa có sự thống nhất về bản chất pháp lý của phạm tội cướp tài sản có tổ chức hay do Tòa án không dựa vào dấu hiệu câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm mà chỉ thấy có sự câu kết đã kết luận là phạm tội có tổ chức. Chính vì vậy, thực tiễn xác định hình thức đồng phạm này thường gặp vướng mắc, lúng túng. Một số trường hợp Tòa án đã sai lầm khi kết luận đồng phạm có thông mưu trước là phạm tội có tổ chức hoặc ngược lại vụ án có đồng phạm có tổ chức lại kết luận là đồng phạm có thông mưu trước. Điều này thể hiện qua ví dụ ở các vụ án sau:
Áp dụng tình tiết phạm tội có tổ chức khi hành vi phạm tội không thỏa mãn dấu hiệu này, thể hiện ở vụ án thứ nhất :
Khoảng 22h30 phút ngày 27/10/2012, Nguyễn Văn Đ, Lê Công H gặp Trương Công L rủ nhau mua 0,5 lít rượu và 3 cái bánh tráng đến nghĩa trang ngồi uống rượu. Trong lúc đang ngồi uống rượu thì thấy anh Hứa Văn T chở chị Nguyễn Thị L bằng xe máy đi ngang qua dừng lại ở chỗ bụi cây, Đ nói: “tí nữa ra xin tiền nghe bây”. Khi anh T nổ máy chuẩn bị đi thì Đ nói với L và H là “Tao chặn xe, còn hai đứa bây giữ cô gái lại”, rồi Đ ra chặn xe máy, thấy vậy chị L đi nhanh qua mặt bọn chúng và kêu to “cướp, cướp”. Đ nói “Chặn cô đó lại” thì H, L chạy theo ôm chị L lại. Đ chộp cổ áo anh T và dùng tay tát vào mặt anh T và nói: “ông có tiền cho một ít uống cà phê”, anh T móc túi quần đưa cho Đ 20.600 đồng, Đ cầm tiền thấy ít nên vứt xuống đất thì H nhặt lên. Đ tiếp tục hỏi anh T “Ví đâu?”, anh T đưa tay giữ chặt túi sau thì H đứng phía sau ôm anh T, còn Đ dùng tay phải nắm cổ áo anh T, tay trái móc lấy ví. Trong ví anh T gồm 1.200.000 đ, một giấy phép lái xe mô tô, một thẻ sinh viên.
Với hành vi nêu trên, bản án sơ thẩm đã phân tích và xác định các bị cáo đã phạm tội có tổ chức, vì vậy đã áp dụng điểm a Khoản 2 Điều 133 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn Đ 4 năm tù, Lê Công H 3 năm tù, Trương Công L 3 năm tù về tội cướp tài sản. Do có kháng cáo của các bị cáo, phiên tòa phúc thẩm đã được mở. Bản án phúc thẩm số 52/HSPT ngày 01/7/2013 đã sửa bản án sơ thẩm và áp dụng Khoản 1 Điều 133 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 đối với các bị cáo. Theo nhận định của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm, trong vụ án này, Tòa án cấp sơ thẩm đã có sai lầm trong việc đánh giá về sự câu kết chặt chẽ giữa các bị cáo. Bản án sơ thẩm nhận định Trương Công L và đồng bọn phạm tội thuộc trường hợp “có tổ chức” là không chính xác. Tác giả rất đồng tình với quan điểm của tòa án cấp phúc thẩm. Bởi vì, trong khi tụ tập uống rượu, Đ, H và L mới nảy sinh ý đồ cướp tài sản và cùng nhau thực hiện tội phạm. Việc thực hiện tội phạm hoàn toàn là do ý định nhất thời. Đây là trường hợp đồng phạm có thông mưu trước, có sự bàn bạc nhưng hành vi mang tính bột phát, không thể hiện sự cùng bàn bạc, chuẩn bị một cách kỹ càng, chu đáo, chưa có sự cấu kết chặt chẽ hoặc có sự phân công vai trò một cách chặt chẽ giữa các bị cáo trước khi thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, hành vi của các bị cáo không thỏa mãn dấu hiệu của phạm tội có tổ chức. Việc xác định đây là trường hợp phạm tội có tổ chức để áp dụng tình tiết tăng nặng định khung phạm tội có tổ chức đối với các bị cáo là chưa đúng quy định của pháp luật.
Theo: Đoàn Ngọc Chỉnh
Link luận án:
https://docs.google.com/document/d/1fMXsd_HaecEjZOmXMgPs6jjEYwQmpHtC/edit