0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64af744f5c4f9-KHÁI-QUÁT-VỀ-THẨM-QUYỀN-CỦA-QUỐC-HỘI-VIỆT-NAM--1-.jpg.webp

KHÁI QUÁT VỀ THẨM QUYỀN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM

 

2.1. Đặc điểm, nội dung thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam

2.1.1.   Đặc điểm thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam

Hiện nay, vị trí, tính chất pháp lý của Quốc hội Việt Nam được quy định tại Điều 69 Hiến pháp năm 2013 là: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Từ đó, có thể định nghĩa thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam như sau:

Thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam là tổng thể nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong quyết định các vấn đề về lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước mà Nhân dân thông qua bản Hiến pháp của mình giao cho Quốc hội với tính chất là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được thực hiện theo phương thức riêng và được phân định tương đối rõ ràng với các cơ quan nhà nước khác trên cơ sở quy định của Hiến pháp và luật.

Thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam có các đặc điểm được xác định dựa trên ba khía cạnh:

Thứ nhất, Quốc hội là một cơ quan nhà nước, do đó, thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam có các đặc điểm của thẩm quyền của cơ quan nhà nước nói chung.

Thứ hai, Quốc hội là cơ quan đại diện toàn quốc, do vậy, thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam cũng có những đặc điểm của thẩm quyền các cơ quan đại diện ở các nước.

Thứ ba, trong bộ máy Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, Quốc hội không thuần túy là cơ quan lập pháp mà là được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nên thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam có điểm đặc thù so với cơ quan lập pháp ở một số nước hiện nay.

Nhìn tổng thể, thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam hiện nay những đặc điểm chung của cơ quan nhà nước, thời cũng có những đặc điểm đặc thù xuất phát từ vị trí, tính chất pháp lý của Quốc hội trong bộ máy nhà nước, cụ thể như sau:

(1) Thẩm quyền của Quốc hội được quy định bởi Hiến pháp và pháp luật.

Điều 8 Hiến pháp Việt Nam hiện hành: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật”. Do đó, để xác định một việc nào đó là thuộc thẩm quyền của Quốc hội cần phải dựa trên những quy định của Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật mà không thể suy diễn hay suy đoán. Hiến pháp, luật cơ bản của nhà nước sẽ quy định phạm vi thẩm quyền cho Quốc hội có ý nghĩa làm nền tảng cho các văn bản pháp luật khác quy định các việc Quốc hội được thực hiện trong từng khâu cụ thể của quy trình thực hiện các nội dung thẩm quyền của Quốc hội. Về nguyên tắc, các quyền hạn cụ thể của Quốc hội được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác không được mở rộng cũng không được thu hẹp phạm vi thẩm quyền đã được Hiến pháp quy định.

(2) Thẩm quyền của Quốc hội mang tính cụ thể, riêng biệt và là cơ sở để xác định trách nhiệm của Quốc hội.

Thẩm quyền của Quốc hội được thể hiện thông qua các quyền hạn được mô tả rõ từ nội dung đến cách thức thực hiện cũng như hình thức biểu hiện quyết định (kết quả thực hiện thẩm quyền). Thẩm quyền của Quốc hội cũng mang tính đặc thù, riêng biệt do được xác định theo địa vị pháp lý của Quốc hội trong bộ máy nhà nước mà không bị lẫn sang các loại cơ quan khác. Tức là, khi Quốc hội thực hiện thẩm quyền của mình, Quốc hội sẽ thể hiện được rõ “là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Thẩm quyền của Quốc hội tạo cho Quốc hội một phạm vi không gian hoạt động với loại việc, đối tượng, phương thức riêng. Chẳng hạn trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, cả Quốc hội và Chủ tịch nước cùng có quyền tác động tới Chính phủ nhưng thẩm quyền cụ thể như bầu Thủ tướng Chính phủ, giám sát Chính phủ bằng việc xem xét và ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn của các thành viên Chính phủ đó chính là đặc thù, chỉ Quốc hội mới thực hiện được, quyền này đến từ vị trí ưu thế của Quốc hội so với Chính phủ trong bộ máy nhà nước. Chủ tịch nước cũng tác động tới Chính phủ nhưng với các quyền cụ thể và biểu hiện khác đặc thù xuất phát từ vai trò, vị trí pháp lý riêng của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước. Về nguyên tắc những việc đã được Hiến pháp và pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Quốc hội thì các cơ quan nhà nước khác sẽ không được thực hiện.

Khác với “quyền” của các cá nhân, tổ chức. Thẩm quyền của Quốc hội không tạo cho Quốc hội khả năng tùy ý chọn thực hiện hay không thực hiện quyền hạn nào đó. Mặc dù Quốc hội có thể tự chủ trong thực hiện thẩm quyền của mình nhưng Quốc hội cũng đồng thời bị bó buộc bởi thẩm quyền của mình. Quốc hội chỉ được thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn Hiến pháp và pháp luật quy định cho mình và phải chịu trách nhiệm khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quyền hạn đó.

(3) Thẩm quyền của Quốc hội có nội dung được xác định dựa trên chủ quyền Nhân dân

Các tác phẩm kinh điển về lý thuyết chủ quyền nhân dân, dân chủ đại diện trên thế giới đều khẳng định thẩm quyền của Quốc hội có nguồn gốc từ sự ủy quyền của Nhân dân. Trong cuốn “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đã viết: “Trong một nước tự do, mọi người đều được xem như có linh hồn tự do, thì họ phải được tự quản; như vậy tập đoàn dân chúng phải có quyền lập pháp. Nhưng trong một nước lớn thì không thể mỗi công dân đều làm việc lập pháp. Trong một nước nhỏ, việc này cũng rất khó khăn; cho nên dân chúng thực hiện quyền lập pháp bằng cách giao cho các đại biểu của mình làm mọi việc mà cá nhân công dân không thể tự mình làm lấy được”.150 John Locke – tác giả cuốn “Khảo luận thứ hai về chính quyền chính quyền dân sự” cũng khẳng định Nhân dân trao quyền cho lập pháp là vì lợi ích chung của toàn xã hội, vì sự bảo tồn cuộc sống và tài sản của họ, vậy nên, lập pháp không có mục đích nào khác ngoài sự bảo tồn những người dưới quyền. “Các đạo luật của lập pháp phải được thiết lập hoàn toàn không vì một mục đích nào khác ngoài vì lợi ích của Nhân dân”151. Đồng thời, lập pháp “không được, mà cũng không thể chuyển giao quyền lực làm luật vào cho bất kỳ cơ quan nào khác hoặc đặt nó vào một nơi nào khác ngoài nơi mà Nhân dân đã đặt”152 bởi vì nó tồn tại như một quyền lực đại diện cho Nhân dân nên những người có nó không thể chuyển sang cho những người khác. Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh có đoạn nêu “Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan đại diện cho Nhân dân cả nước, do Nhân dân trực tiếp bầu ra, được Nhân dân ủy quyền thực hiện quyền lực nhà nước, có nhiệm vụ phản ánh ý chí và nguyện vọng của Nhân dân và chịu trách nhiệm trước Nhân dân”.

Theo nguyên tắc của việc ủy quyền thì Quốc hội (cơ quan nhận quyền) sẽ chỉ được thực hiện những quyền Nhân dân trao (Nhân dân có quyền đó để trao, và Nhân dân đồng ý trao quyền cho Quốc hội). Do đó, nội dung thẩm quyền của Quốc hội phải là những quyền vốn đã được thừa nhận là của Nhân dân, việc xác định thẩm quyền của Quốc hội không thể tùy tiện mà phải dựa vào chủ quyền nhân dân. Ngoài ra, thẩm quyền của Quốc hội không thể bao trùm lên toàn bộ quyền lực của Nhân dân và không thể làm vô hiệu hóa quyền lực của Nhân dân.

(4) Thẩm quyền của Quốc hội được thực hiện vì lợi ích chung của Nhân dân và đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Nhân dân.

Quốc hội không phải là do một cá nhân, tổ chức nào lập nên mà là cơ quan được bầu cử trực tiếp bởi cử tri cả nước. Do vậy, khi thực hiện thẩm quyền của mình, Quốc hội phải lấy lợi ích chung của toàn thể Nhân dân, cũng có nghĩa là lợi ích của quốc gia, dân tộc làm cơ sở quyết định hàng đầu. Đây cũng là nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Một trong những tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả thực hiện thẩm quyền của Quốc hội chính là những quyết định của Quốc hội đưa ra có đem lại lợi ích gì cho dân, cho nước hay không. Là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, nhận quyền lực từ Nhân dân qua thủ tục bầu cử, Quốc hội chỉ chịu sự giám sát của Nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân trong quá trình thực hiện thẩm quyền của mình.

Thông thường, việc thực thi thẩm quyền của các cơ quan nhà nước luôn phải đặt dưới sự giám sát mang tính nhà nước. Ở nhiều các nước, hoạt động của cơ quan lập pháp bị kiểm soát thông qua cơ chế bảo hiến. Tuy vậy, mô hình bảo hiến ở Việt Nam hiện nay là mô hình không chuyên trách, trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều chủ thể khác nhau, trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có quyền giám sát tối cao đối với mọi hoạt động của Nhà nước. Có thể thấy, trong bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay, chưa có một cơ chế kiểm soát mang tính nhà nước nào đủ mạnh để có thể kiểm soát Quốc hội. Trong thời gian tới, ngoài việc phát huy hiệu quả giám sát của Nhân dân đối với thực thi thẩm quyền của Quốc hội, trong tương lai vẫn cần xây dựng cơ chế bảo hiến chuyên trách để giám sát việc thực hiện thẩm quyền của Quốc hội đã được Nhân dân giao cho.

2.1.2.   Nội dung thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam

Theo quy định tại các Điều 69, Điều 70 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, các vấn đề thuộc phạm vi thẩm quyền của Quốc hội được chia thành ba lĩnh vực chính là: Lập hiến, lập pháp; Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; Giám sát tối cao hoạt động của Nhà nước.

2.4.2.1. Thẩm quyền của Quốc hội trong lập hiến, lập pháp

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định về những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất, có tính nguyên tắc trong các lĩnh vực của đời sống xã hội từ chính trị đến kinh tế, xã hội, văn hóa, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Luật là văn bản quy định những vấn đề cụ thể để thực thi các nội dung quy định của Hiến pháp. Lập hiến, lập pháp là thẩm quyền quan trọng bậc nhất của Quốc hội Việt Nam. Nếu như Quốc hội các nước thường chỉ có quyền lập pháp thì Quốc hội Việt Nam ngoài quyền lập pháp còn thực hiện quyền lập hiến. Đây cũng là một trong những biểu hiện thể hiện tính quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội so với các cơ quan nhà nước khác.

Với quyền lập hiến, quyền lập pháp, Quốc hội định ra các quy tắc xử sự nền tảng, quan trọng nhất làm cơ sở cho toàn bộ hoạt động của Nhà nước và xã hội.

Theo quy định tại Điều 70 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp bằng việc “làm Hiến pháp, sửa đổi hiến pháp; làm luật, sửa đổi luật”. Có thể nói, Hiến pháp Việt Nam là một trong số ít Hiến pháp có quy định trao cho Quốc hội thực hiện quyền lập hiến với hình thức là “làm Hiến pháp” và “sửa đổi Hiến pháp”154.

Làm Hiến pháp” là việc Quốc hội ban hành ra một Hiến pháp mới để thay thế Hiến pháp trước đó. Sau khi Hiến pháp mới được ban hành thì Hiến pháp trước sẽ hết hiệu lực toàn bộ. Với việc “làm Hiến pháp”, Quốc hội có thể thay đổi toàn bộ cấu trúc của Hiến pháp, loại bỏ hoặc điều chỉnh các nội dung mang tính nguyên tắc cho thiết tổ chức và hoạt động của Nhà nước, tức là có thể thay đổi cả chính thể của Nhà nước và các vấn đề quan trọng về mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân. Quyết định về “làm Hiến pháp” của Quốc hội thể hiện dưới hình thức “Hiến pháp”.

Sửa đổi Hiến pháp” là việc Quốc hội ban hành ra văn bản để điều chỉnh một số nội dung của Hiến pháp đang có hiệu lực (bãi bỏ, thêm nội dung, hoặc sửa câu từ trong các điều khoản của Hiến pháp). Sau khi văn bản sửa đổi Hiến pháp được thông qua thì văn bản đó trở thành một bộ phận cấu thành của Hiến pháp cùng với bản Hiến pháp được sửa đổi. Quyết định về “sửa đổi Hiến pháp” của Quốc hội thể hiện dưới hình thức “Nghị quyết”.

Thông thường, Hiến pháp các nước không quy định về thủ tục “làm” Hiến pháp mà chỉ có quy định về “sửa đổi” Hiến pháp. Một số nước còn quy định rõ giới hạn về vấn đề được sửa đổi trong Hiến pháp. Còn ở Việt Nam, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Quốc hội được quyết định ban hành Hiến pháp mới hoặc sửa đổi bất kỳ một nội dung nào của Hiến pháp mà không bị hạn chế. Do đó, mặc dù Hiến pháp có sự phân biệt việc “làm Hiến pháp” và “sửa đổi Hiến pháp” nhưng quy trình “làm Hiến pháp” và “sửa đổi Hiến pháp” không được tách riêng ra mà được thực hiện theo một quy trình sửa đổi Hiến pháp được quy định tại Điều 120 Hiến pháp năm 2013 và các quy định pháp luật khác.

So với các nước, phạm vi chủ thể có quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam nhìn chung được mở rộng. Ở Mỹ, nguyên thủ quốc gia không được đề nghị sửa đổi Hiến pháp. Theo Điều V của Hiến pháp Mỹ năm 1787 thì việc xem xét sửa đổi Hiến pháp chỉ được đặt ra khi có hai phần ba thành viên của của cả hai viện của Nghị viện liên bang đề xuất hoặc theo yêu cầu của cơ quan lập pháp của hai phần ba các bang. Ngược lại, ở Pháp, quyền đưa ra sáng kiến sửa đổi Hiến pháp thuộc về Tổng thống (theo đề nghị của Thủ tướng và các thành viên của Nghị viện)155. Ở Trung Quốc thì việc sửa đổi Hiến pháp do Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc hoặc một phần năm đại biểu Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc đề nghị156. Theo Điều 120 Hiến pháp năm 2013, quyền đề nghị về việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp thuộc về Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội. Tuy nhiều chủ thể được quyền đề nghị việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp nhưng các chủ thể này chỉ được đưa ra đề nghị chung mà không trình kèm theo dự thảo với các nội dung điều khoản dự kiến cho Hiến pháp mới hoặc nội dung dự kiến sửa đổi. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Để có bản dự thảo Hiến pháp, Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp theo đề nghị của UBTVQH. Ủy ban soạn thảo Hiến pháp sau khi soạn thảo xong dự thảo Hiến pháp sẽ công bố bản dự thảo và triển khai tổ chức lấy ý kiến Nhân dân. Mục đích của việc lấy ý kiến Nhân dân là để phát huy quyền làm chủ, tạo sự đồng thuận của Nhân dân đối với việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Biệc lấy ý kiến góp ý về dự thảo Hiến pháp có thể được thực hiện nhiều lần. Dự thảo Hiến pháp sau khi hoàn thiện sẽ được trình Quốc hội để Quốc hội thảo luận, biểu quyết thông qua tại phiên họp toàn thể. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Theo quy định tại Điều 120 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội có thể quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp157. Chủ tịch nước có trách nhiệm phải công bố Hiến pháp theo quyết định của Quốc hội về thời hạn công bố, thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp. Nhìn chung, mặc dù quy trình lập hiến sự tham gia của nhiều chủ thể, nhưng Quốc hội là cơ quan giữ những quyền hạn quan trọng, có ý nghĩa quyết định ở tất cả các khâu của quy trình lập hiến.

2.4.2.2. Thẩm quyền của Quốc hội trong quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước

Với vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Quốc hội được Hiến pháp trao quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước là những vấn đề liên quan đến lợi ích của toàn xã hội, sự phát triển, sống còn của đất nước. Khác với các nước thường đặt quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước trong nội hàm của quyền lập pháp và Quốc hội các nước sẽ ban hành văn bản Luật để quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, quy định của Hiến pháp Việt Nam từ trước đến nay có sự phân biệt giữa quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước với quyền lập hiến, lập pháp. Hầu hết các quyết định của Quốc hội về các vấn đề quan trọng của đất nước có ý nghĩa xử lý một vấn đề cụ thể trong một thời điểm hay một giai đoạn nhất định, gắn với định hướng, mục tiêu nhất định của Nhà nước tại thời điểm hay trong giai đoạn cụ thể đó. Tùy theo tính chất của các vấn đề quan trọng cần quyết định mà quy trình xem xét, thông qua của Quốc hội đối với các vấn đề sẽ có sự khác nhau. So với quy trình lập hiến, lập pháp, quy trình Quốc hội xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước thường đơn giản hơn. Việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước thể hiện dưới hình thức Nghị quyết được Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp Quốc hội.

Theo quy định của Hiến pháp hiện hành, các vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền của Quốc hội gồm ba nhóm nội dung chủ yếu là:

(1) Quyết định các vấn đề về tổ chức bộ máy nhà nước và nhân sự cấp cao của Nhà nước: Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên UBTVQH, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán TANDTC; Phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia. Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TANDTC phải tuyên thê ̣trung thành vớ i Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp; Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật.

(2) Quyết định các nhiệm vụ kinh tế - xã hội: Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước. Ngoài ra, Quốc hội còn quyết định đại xá; Quyết định trưng cầu ý dân.

(3) Quyết định các vấn đề về quốc phòng, an ninh quốc gia và đối ngoại: Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; Quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; Quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; Phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa XHCN Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội.

Các vấn đề quan trọng của đất nước được Quốc hội xem xét quyết định thông qua tại kỳ họp Quốc hội. Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) thì dự thảo Nghị quyết của Quốc hội được xem xét tại nhiều nhất là 2 kỳ họp (trong khi dự thảo Luật có thể được xem xét tại ba kỳ họp). Trường hợp đặc biệt có thể được xem xét theo thủ tục rút gọn như: Trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp; Trường hợp đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; Trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn; Trường hợp cần ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của VBQPPL để kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Hiện hành quy định: trường hợp để ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của VBQPPL trong một thời hạn nhất định); Trường hợp cần sửa đổi ngay cho phù hợp với VBQPPL mới được ban hành; Trường hợp cần ban hành ngay VBQPPL để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên; Trường hợp cần bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ VBQPPL trái pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội; Trường hợp cần kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của VBQPPL trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn.

Quy trình, thủ tục để Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước được quy định bởi Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và Nội quy kỳ họp Quốc hội (Ban hành kèm theo Nghị quyết 102/2015/QH13 ngày 24/11/2015). Hình thức văn bản để Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước là Nghị quyết. Các Nghị quyết của Quốc hội được thông qua khi “được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”158, trừ một số vấn đề như: rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội, bãi nhiệm đại biểu Quốc hội sẽ chỉ được thông qua khi có “ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”159. Hình thức biểu quyết về các vấn đề quan trọng của đất nước do Quốc hội quyết định chọn một trong ba hình thức là: Biểu quyết bằng hệ thống biểu quyết điện tử; Biểu quyết bằng bỏ phiếu kín; Biểu quyết bằng giơ tay. Đối với các quyết định về nhân sự như: bầu, phê chuẩn; miễn nhiệm, bãi nhiệm, cho thôi làm nhiệm vụ; phê chuẩn miễn nhiệm, cách chức; lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn thì phải biểu quyết bằng bỏ phiếu kín. Trong các trường hợp này, Quốc hội bầu Quốc hội bầu Ban kiểm phiếu để hướng dẫn, điều hành việc biểu quyết bằng bỏ phiếu kín; xác định kết quả kiểm phiếu, kết quả biểu quyết.

Khác với lập hiến, lập pháp, các nghị quyết của Quốc hội về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước không cần sự công bố của Chủ tịch nước và thường có hiệu lực ngay khi được Quốc hội thông qua.

Nhìn chung, thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số quy định về thẩm quyền của Quốc hội, thể hiện rõ nét vị trí cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội. Bằng việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội định ra mô hình, cấu trúc, phương thức vận hành các bộ phận cấu thành của đời sống kinh tế - xã hội quốc gia theo những mục tiêu, mục đích đề ra, phù hợp với chủ trương, chiến lược phát triển đất nước của Đảng.

2.4.2.3. Thẩm quyền của Quốc hội trong giám sát tối cao hoạt động của Nhà nước

“Giám sát” là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ

quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.160 Về mặt lịch sử, quyền giám sát tối cao của Quốc hội Việt Nam xuất hiện sau các quyền các quyền lập hiến, lập pháp và quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Quyền này lần đầu tiên được quy định tại khoản 3 Điều 50 Hiến pháp năm 1959. Hiện nay, theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước (Điều 69). Quyền giám sát tối cao của Quốc hội có mối liên hệ chặt chẽ với các quyền lập hiến, lập pháp và quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Thông qua giám sát tối cao mà Quốc hội biết được kết quả của việc triển khai Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, từ đó có thể phát hiện ra những điểm còn chưa phù hợp để điều chỉnh kịp thời. Mặt khác, quyền giám sát của Quốc hội được ví như việc “nắm dây cương”161, nhờ giữ quyền giám sát tối cao hoạt động của Nhà nước mà Quốc hội có thể ngăn ngừa được nguy cơ lạm quyền của các cơ quan nhà nước và khiến cho những cơ quan là đối tượng bị giám sát tăng cường trách nhiệm hơn trong tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội theo thẩm quyền của mình.

Theo: Đinh Thị Cẩm Hà

Link luận án: 

https://docs.google.com/document/d/1CDbXbkodafex35-W9NtGPGygMw3emgDn/edit

avatar
Đặng Quỳnh
310 ngày trước
KHÁI QUÁT VỀ THẨM QUYỀN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM
 2.1. Đặc điểm, nội dung thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam2.1.1.   Đặc điểm thẩm quyền của Quốc hội Việt NamHiện nay, vị trí, tính chất pháp lý của Quốc hội Việt Nam được quy định tại Điều 69 Hiến pháp năm 2013 là: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”. Từ đó, có thể định nghĩa thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam như sau:Thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam là tổng thể nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội trong quyết định các vấn đề về lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước mà Nhân dân thông qua bản Hiến pháp của mình giao cho Quốc hội với tính chất là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được thực hiện theo phương thức riêng và được phân định tương đối rõ ràng với các cơ quan nhà nước khác trên cơ sở quy định của Hiến pháp và luật.Thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam có các đặc điểm được xác định dựa trên ba khía cạnh:Thứ nhất, Quốc hội là một cơ quan nhà nước, do đó, thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam có các đặc điểm của thẩm quyền của cơ quan nhà nước nói chung.Thứ hai, Quốc hội là cơ quan đại diện toàn quốc, do vậy, thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam cũng có những đặc điểm của thẩm quyền các cơ quan đại diện ở các nước.Thứ ba, trong bộ máy Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam, Quốc hội không thuần túy là cơ quan lập pháp mà là được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nên thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam có điểm đặc thù so với cơ quan lập pháp ở một số nước hiện nay.Nhìn tổng thể, thẩm quyền của Quốc hội Việt Nam hiện nay những đặc điểm chung của cơ quan nhà nước, thời cũng có những đặc điểm đặc thù xuất phát từ vị trí, tính chất pháp lý của Quốc hội trong bộ máy nhà nước, cụ thể như sau:(1) Thẩm quyền của Quốc hội được quy định bởi Hiến pháp và pháp luật.Điều 8 Hiến pháp Việt Nam hiện hành: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật”. Do đó, để xác định một việc nào đó là thuộc thẩm quyền của Quốc hội cần phải dựa trên những quy định của Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật mà không thể suy diễn hay suy đoán. Hiến pháp, luật cơ bản của nhà nước sẽ quy định phạm vi thẩm quyền cho Quốc hội có ý nghĩa làm nền tảng cho các văn bản pháp luật khác quy định các việc Quốc hội được thực hiện trong từng khâu cụ thể của quy trình thực hiện các nội dung thẩm quyền của Quốc hội. Về nguyên tắc, các quyền hạn cụ thể của Quốc hội được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác không được mở rộng cũng không được thu hẹp phạm vi thẩm quyền đã được Hiến pháp quy định.(2) Thẩm quyền của Quốc hội mang tính cụ thể, riêng biệt và là cơ sở để xác định trách nhiệm của Quốc hội.Thẩm quyền của Quốc hội được thể hiện thông qua các quyền hạn được mô tả rõ từ nội dung đến cách thức thực hiện cũng như hình thức biểu hiện quyết định (kết quả thực hiện thẩm quyền). Thẩm quyền của Quốc hội cũng mang tính đặc thù, riêng biệt do được xác định theo địa vị pháp lý của Quốc hội trong bộ máy nhà nước mà không bị lẫn sang các loại cơ quan khác. Tức là, khi Quốc hội thực hiện thẩm quyền của mình, Quốc hội sẽ thể hiện được rõ “là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Thẩm quyền của Quốc hội tạo cho Quốc hội một phạm vi không gian hoạt động với loại việc, đối tượng, phương thức riêng. Chẳng hạn trong bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, cả Quốc hội và Chủ tịch nước cùng có quyền tác động tới Chính phủ nhưng thẩm quyền cụ thể như bầu Thủ tướng Chính phủ, giám sát Chính phủ bằng việc xem xét và ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn của các thành viên Chính phủ đó chính là đặc thù, chỉ Quốc hội mới thực hiện được, quyền này đến từ vị trí ưu thế của Quốc hội so với Chính phủ trong bộ máy nhà nước. Chủ tịch nước cũng tác động tới Chính phủ nhưng với các quyền cụ thể và biểu hiện khác đặc thù xuất phát từ vai trò, vị trí pháp lý riêng của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước. Về nguyên tắc những việc đã được Hiến pháp và pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Quốc hội thì các cơ quan nhà nước khác sẽ không được thực hiện.Khác với “quyền” của các cá nhân, tổ chức. Thẩm quyền của Quốc hội không tạo cho Quốc hội khả năng tùy ý chọn thực hiện hay không thực hiện quyền hạn nào đó. Mặc dù Quốc hội có thể tự chủ trong thực hiện thẩm quyền của mình nhưng Quốc hội cũng đồng thời bị bó buộc bởi thẩm quyền của mình. Quốc hội chỉ được thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn Hiến pháp và pháp luật quy định cho mình và phải chịu trách nhiệm khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quyền hạn đó.(3) Thẩm quyền của Quốc hội có nội dung được xác định dựa trên chủ quyền Nhân dânCác tác phẩm kinh điển về lý thuyết chủ quyền nhân dân, dân chủ đại diện trên thế giới đều khẳng định thẩm quyền của Quốc hội có nguồn gốc từ sự ủy quyền của Nhân dân. Trong cuốn “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đã viết: “Trong một nước tự do, mọi người đều được xem như có linh hồn tự do, thì họ phải được tự quản; như vậy tập đoàn dân chúng phải có quyền lập pháp. Nhưng trong một nước lớn thì không thể mỗi công dân đều làm việc lập pháp. Trong một nước nhỏ, việc này cũng rất khó khăn; cho nên dân chúng thực hiện quyền lập pháp bằng cách giao cho các đại biểu của mình làm mọi việc mà cá nhân công dân không thể tự mình làm lấy được”.150 John Locke – tác giả cuốn “Khảo luận thứ hai về chính quyền chính quyền dân sự” cũng khẳng định Nhân dân trao quyền cho lập pháp là vì lợi ích chung của toàn xã hội, vì sự bảo tồn cuộc sống và tài sản của họ, vậy nên, lập pháp không có mục đích nào khác ngoài sự bảo tồn những người dưới quyền. “Các đạo luật của lập pháp phải được thiết lập hoàn toàn không vì một mục đích nào khác ngoài vì lợi ích của Nhân dân”151. Đồng thời, lập pháp “không được, mà cũng không thể chuyển giao quyền lực làm luật vào cho bất kỳ cơ quan nào khác hoặc đặt nó vào một nơi nào khác ngoài nơi mà Nhân dân đã đặt”152 bởi vì nó tồn tại như một quyền lực đại diện cho Nhân dân nên những người có nó không thể chuyển sang cho những người khác. Giáo trình Luật hiến pháp Việt Nam của Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh có đoạn nêu “Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan đại diện cho Nhân dân cả nước, do Nhân dân trực tiếp bầu ra, được Nhân dân ủy quyền thực hiện quyền lực nhà nước, có nhiệm vụ phản ánh ý chí và nguyện vọng của Nhân dân và chịu trách nhiệm trước Nhân dân”.Theo nguyên tắc của việc ủy quyền thì Quốc hội (cơ quan nhận quyền) sẽ chỉ được thực hiện những quyền Nhân dân trao (Nhân dân có quyền đó để trao, và Nhân dân đồng ý trao quyền cho Quốc hội). Do đó, nội dung thẩm quyền của Quốc hội phải là những quyền vốn đã được thừa nhận là của Nhân dân, việc xác định thẩm quyền của Quốc hội không thể tùy tiện mà phải dựa vào chủ quyền nhân dân. Ngoài ra, thẩm quyền của Quốc hội không thể bao trùm lên toàn bộ quyền lực của Nhân dân và không thể làm vô hiệu hóa quyền lực của Nhân dân.(4) Thẩm quyền của Quốc hội được thực hiện vì lợi ích chung của Nhân dân và đặt dưới sự giám sát trực tiếp của Nhân dân.Quốc hội không phải là do một cá nhân, tổ chức nào lập nên mà là cơ quan được bầu cử trực tiếp bởi cử tri cả nước. Do vậy, khi thực hiện thẩm quyền của mình, Quốc hội phải lấy lợi ích chung của toàn thể Nhân dân, cũng có nghĩa là lợi ích của quốc gia, dân tộc làm cơ sở quyết định hàng đầu. Đây cũng là nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Một trong những tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả thực hiện thẩm quyền của Quốc hội chính là những quyết định của Quốc hội đưa ra có đem lại lợi ích gì cho dân, cho nước hay không. Là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, nhận quyền lực từ Nhân dân qua thủ tục bầu cử, Quốc hội chỉ chịu sự giám sát của Nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân trong quá trình thực hiện thẩm quyền của mình.Thông thường, việc thực thi thẩm quyền của các cơ quan nhà nước luôn phải đặt dưới sự giám sát mang tính nhà nước. Ở nhiều các nước, hoạt động của cơ quan lập pháp bị kiểm soát thông qua cơ chế bảo hiến. Tuy vậy, mô hình bảo hiến ở Việt Nam hiện nay là mô hình không chuyên trách, trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp được giao cho nhiều chủ thể khác nhau, trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có quyền giám sát tối cao đối với mọi hoạt động của Nhà nước. Có thể thấy, trong bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay, chưa có một cơ chế kiểm soát mang tính nhà nước nào đủ mạnh để có thể kiểm soát Quốc hội. Trong thời gian tới, ngoài việc phát huy hiệu quả giám sát của Nhân dân đối với thực thi thẩm quyền của Quốc hội, trong tương lai vẫn cần xây dựng cơ chế bảo hiến chuyên trách để giám sát việc thực hiện thẩm quyền của Quốc hội đã được Nhân dân giao cho.2.1.2.   Nội dung thẩm quyền của Quốc hội Việt NamTheo quy định tại các Điều 69, Điều 70 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, các vấn đề thuộc phạm vi thẩm quyền của Quốc hội được chia thành ba lĩnh vực chính là: Lập hiến, lập pháp; Quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; Giám sát tối cao hoạt động của Nhà nước.2.4.2.1. Thẩm quyền của Quốc hội trong lập hiến, lập phápTrong hệ thống pháp luật Việt Nam, Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước có hiệu lực pháp lý cao nhất, quy định về những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất, có tính nguyên tắc trong các lĩnh vực của đời sống xã hội từ chính trị đến kinh tế, xã hội, văn hóa, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Luật là văn bản quy định những vấn đề cụ thể để thực thi các nội dung quy định của Hiến pháp. Lập hiến, lập pháp là thẩm quyền quan trọng bậc nhất của Quốc hội Việt Nam. Nếu như Quốc hội các nước thường chỉ có quyền lập pháp thì Quốc hội Việt Nam ngoài quyền lập pháp còn thực hiện quyền lập hiến. Đây cũng là một trong những biểu hiện thể hiện tính quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội so với các cơ quan nhà nước khác.Với quyền lập hiến, quyền lập pháp, Quốc hội định ra các quy tắc xử sự nền tảng, quan trọng nhất làm cơ sở cho toàn bộ hoạt động của Nhà nước và xã hội.Theo quy định tại Điều 70 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp bằng việc “làm Hiến pháp, sửa đổi hiến pháp; làm luật, sửa đổi luật”. Có thể nói, Hiến pháp Việt Nam là một trong số ít Hiến pháp có quy định trao cho Quốc hội thực hiện quyền lập hiến với hình thức là “làm Hiến pháp” và “sửa đổi Hiến pháp”154.“Làm Hiến pháp” là việc Quốc hội ban hành ra một Hiến pháp mới để thay thế Hiến pháp trước đó. Sau khi Hiến pháp mới được ban hành thì Hiến pháp trước sẽ hết hiệu lực toàn bộ. Với việc “làm Hiến pháp”, Quốc hội có thể thay đổi toàn bộ cấu trúc của Hiến pháp, loại bỏ hoặc điều chỉnh các nội dung mang tính nguyên tắc cho thiết tổ chức và hoạt động của Nhà nước, tức là có thể thay đổi cả chính thể của Nhà nước và các vấn đề quan trọng về mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân. Quyết định về “làm Hiến pháp” của Quốc hội thể hiện dưới hình thức “Hiến pháp”.“Sửa đổi Hiến pháp” là việc Quốc hội ban hành ra văn bản để điều chỉnh một số nội dung của Hiến pháp đang có hiệu lực (bãi bỏ, thêm nội dung, hoặc sửa câu từ trong các điều khoản của Hiến pháp). Sau khi văn bản sửa đổi Hiến pháp được thông qua thì văn bản đó trở thành một bộ phận cấu thành của Hiến pháp cùng với bản Hiến pháp được sửa đổi. Quyết định về “sửa đổi Hiến pháp” của Quốc hội thể hiện dưới hình thức “Nghị quyết”.Thông thường, Hiến pháp các nước không quy định về thủ tục “làm” Hiến pháp mà chỉ có quy định về “sửa đổi” Hiến pháp. Một số nước còn quy định rõ giới hạn về vấn đề được sửa đổi trong Hiến pháp. Còn ở Việt Nam, theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Quốc hội được quyết định ban hành Hiến pháp mới hoặc sửa đổi bất kỳ một nội dung nào của Hiến pháp mà không bị hạn chế. Do đó, mặc dù Hiến pháp có sự phân biệt việc “làm Hiến pháp” và “sửa đổi Hiến pháp” nhưng quy trình “làm Hiến pháp” và “sửa đổi Hiến pháp” không được tách riêng ra mà được thực hiện theo một quy trình sửa đổi Hiến pháp được quy định tại Điều 120 Hiến pháp năm 2013 và các quy định pháp luật khác.So với các nước, phạm vi chủ thể có quyền đề nghị sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam nhìn chung được mở rộng. Ở Mỹ, nguyên thủ quốc gia không được đề nghị sửa đổi Hiến pháp. Theo Điều V của Hiến pháp Mỹ năm 1787 thì việc xem xét sửa đổi Hiến pháp chỉ được đặt ra khi có hai phần ba thành viên của của cả hai viện của Nghị viện liên bang đề xuất hoặc theo yêu cầu của cơ quan lập pháp của hai phần ba các bang. Ngược lại, ở Pháp, quyền đưa ra sáng kiến sửa đổi Hiến pháp thuộc về Tổng thống (theo đề nghị của Thủ tướng và các thành viên của Nghị viện)155. Ở Trung Quốc thì việc sửa đổi Hiến pháp do Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc hoặc một phần năm đại biểu Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc đề nghị156. Theo Điều 120 Hiến pháp năm 2013, quyền đề nghị về việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp thuộc về Chủ tịch nước, UBTVQH, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội. Tuy nhiều chủ thể được quyền đề nghị việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp nhưng các chủ thể này chỉ được đưa ra đề nghị chung mà không trình kèm theo dự thảo với các nội dung điều khoản dự kiến cho Hiến pháp mới hoặc nội dung dự kiến sửa đổi. Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Để có bản dự thảo Hiến pháp, Quốc hội thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp theo đề nghị của UBTVQH. Ủy ban soạn thảo Hiến pháp sau khi soạn thảo xong dự thảo Hiến pháp sẽ công bố bản dự thảo và triển khai tổ chức lấy ý kiến Nhân dân. Mục đích của việc lấy ý kiến Nhân dân là để phát huy quyền làm chủ, tạo sự đồng thuận của Nhân dân đối với việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp. Biệc lấy ý kiến góp ý về dự thảo Hiến pháp có thể được thực hiện nhiều lần. Dự thảo Hiến pháp sau khi hoàn thiện sẽ được trình Quốc hội để Quốc hội thảo luận, biểu quyết thông qua tại phiên họp toàn thể. Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Theo quy định tại Điều 120 Hiến pháp năm 2013, Quốc hội có thể quyết định trưng cầu ý dân về Hiến pháp157. Chủ tịch nước có trách nhiệm phải công bố Hiến pháp theo quyết định của Quốc hội về thời hạn công bố, thời điểm có hiệu lực của Hiến pháp. Nhìn chung, mặc dù quy trình lập hiến sự tham gia của nhiều chủ thể, nhưng Quốc hội là cơ quan giữ những quyền hạn quan trọng, có ý nghĩa quyết định ở tất cả các khâu của quy trình lập hiến.2.4.2.2. Thẩm quyền của Quốc hội trong quyết định những vấn đề quan trọng của đất nướcVới vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Quốc hội được Hiến pháp trao quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước là những vấn đề liên quan đến lợi ích của toàn xã hội, sự phát triển, sống còn của đất nước. Khác với các nước thường đặt quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước trong nội hàm của quyền lập pháp và Quốc hội các nước sẽ ban hành văn bản Luật để quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, quy định của Hiến pháp Việt Nam từ trước đến nay có sự phân biệt giữa quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước với quyền lập hiến, lập pháp. Hầu hết các quyết định của Quốc hội về các vấn đề quan trọng của đất nước có ý nghĩa xử lý một vấn đề cụ thể trong một thời điểm hay một giai đoạn nhất định, gắn với định hướng, mục tiêu nhất định của Nhà nước tại thời điểm hay trong giai đoạn cụ thể đó. Tùy theo tính chất của các vấn đề quan trọng cần quyết định mà quy trình xem xét, thông qua của Quốc hội đối với các vấn đề sẽ có sự khác nhau. So với quy trình lập hiến, lập pháp, quy trình Quốc hội xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước thường đơn giản hơn. Việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước thể hiện dưới hình thức Nghị quyết được Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp Quốc hội.Theo quy định của Hiến pháp hiện hành, các vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền của Quốc hội gồm ba nhóm nội dung chủ yếu là:(1) Quyết định các vấn đề về tổ chức bộ máy nhà nước và nhân sự cấp cao của Nhà nước: Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên UBTVQH, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán TANDTC; Phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia. Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án TANDTC phải tuyên thê ̣trung thành vớ i Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp; Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật.(2) Quyết định các nhiệm vụ kinh tế - xã hội: Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước. Ngoài ra, Quốc hội còn quyết định đại xá; Quyết định trưng cầu ý dân.(3) Quyết định các vấn đề về quốc phòng, an ninh quốc gia và đối ngoại: Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; Quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; Quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; Phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa XHCN Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội.Các vấn đề quan trọng của đất nước được Quốc hội xem xét quyết định thông qua tại kỳ họp Quốc hội. Theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) thì dự thảo Nghị quyết của Quốc hội được xem xét tại nhiều nhất là 2 kỳ họp (trong khi dự thảo Luật có thể được xem xét tại ba kỳ họp). Trường hợp đặc biệt có thể được xem xét theo thủ tục rút gọn như: Trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp; Trường hợp đột xuất, khẩn cấp trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cháy, nổ; Trường hợp cấp bách để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn; Trường hợp cần ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của VBQPPL để kịp thời bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Hiện hành quy định: trường hợp để ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của VBQPPL trong một thời hạn nhất định); Trường hợp cần sửa đổi ngay cho phù hợp với VBQPPL mới được ban hành; Trường hợp cần ban hành ngay VBQPPL để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên; Trường hợp cần bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ VBQPPL trái pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội; Trường hợp cần kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của VBQPPL trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn.Quy trình, thủ tục để Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước được quy định bởi Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và Nội quy kỳ họp Quốc hội (Ban hành kèm theo Nghị quyết 102/2015/QH13 ngày 24/11/2015). Hình thức văn bản để Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước là Nghị quyết. Các Nghị quyết của Quốc hội được thông qua khi “được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”158, trừ một số vấn đề như: rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ của Quốc hội, bãi nhiệm đại biểu Quốc hội sẽ chỉ được thông qua khi có “ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành”159. Hình thức biểu quyết về các vấn đề quan trọng của đất nước do Quốc hội quyết định chọn một trong ba hình thức là: Biểu quyết bằng hệ thống biểu quyết điện tử; Biểu quyết bằng bỏ phiếu kín; Biểu quyết bằng giơ tay. Đối với các quyết định về nhân sự như: bầu, phê chuẩn; miễn nhiệm, bãi nhiệm, cho thôi làm nhiệm vụ; phê chuẩn miễn nhiệm, cách chức; lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn thì phải biểu quyết bằng bỏ phiếu kín. Trong các trường hợp này, Quốc hội bầu Quốc hội bầu Ban kiểm phiếu để hướng dẫn, điều hành việc biểu quyết bằng bỏ phiếu kín; xác định kết quả kiểm phiếu, kết quả biểu quyết.Khác với lập hiến, lập pháp, các nghị quyết của Quốc hội về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước không cần sự công bố của Chủ tịch nước và thường có hiệu lực ngay khi được Quốc hội thông qua.Nhìn chung, thẩm quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số quy định về thẩm quyền của Quốc hội, thể hiện rõ nét vị trí cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Quốc hội. Bằng việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội định ra mô hình, cấu trúc, phương thức vận hành các bộ phận cấu thành của đời sống kinh tế - xã hội quốc gia theo những mục tiêu, mục đích đề ra, phù hợp với chủ trương, chiến lược phát triển đất nước của Đảng.2.4.2.3. Thẩm quyền của Quốc hội trong giám sát tối cao hoạt động của Nhà nước“Giám sát” là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơquan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.160 Về mặt lịch sử, quyền giám sát tối cao của Quốc hội Việt Nam xuất hiện sau các quyền các quyền lập hiến, lập pháp và quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Quyền này lần đầu tiên được quy định tại khoản 3 Điều 50 Hiến pháp năm 1959. Hiện nay, theo Hiến pháp năm 2013, Quốc hội có quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước (Điều 69). Quyền giám sát tối cao của Quốc hội có mối liên hệ chặt chẽ với các quyền lập hiến, lập pháp và quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Thông qua giám sát tối cao mà Quốc hội biết được kết quả của việc triển khai Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, từ đó có thể phát hiện ra những điểm còn chưa phù hợp để điều chỉnh kịp thời. Mặt khác, quyền giám sát của Quốc hội được ví như việc “nắm dây cương”161, nhờ giữ quyền giám sát tối cao hoạt động của Nhà nước mà Quốc hội có thể ngăn ngừa được nguy cơ lạm quyền của các cơ quan nhà nước và khiến cho những cơ quan là đối tượng bị giám sát tăng cường trách nhiệm hơn trong tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội theo thẩm quyền của mình.Theo: Đinh Thị Cẩm HàLink luận án: https://docs.google.com/document/d/1CDbXbkodafex35-W9NtGPGygMw3emgDn/edit