0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64a3c2d589e4c-GIẢI-PHÁP-NHẰM-BẢO-ĐẢM-THỰC-HIỆN-QUYỀN-ĐƯỢC-XÉT-XỬ-CÔNG-BẰNG-CỦA-NGƯỜI-BỊ-BUỘC-TỘI-.jpg.webp

GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI

3.1.  Những yêu cầu đối với các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội

3.1.1. Yêu cầu về cơ sở khoa học và thực tiễn của các giải pháp

Quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội được nhận thức và bảo đảm thực hiện bởi các quyền tối thiểu. Người bị buộc tội được xét xử công bằng là mục đích chung, cơ bản, xuyên suốt của hệ thống các giải pháp, vì vậy, đối với mỗi quyền tố tụng cụ thể hợp thành nội dung quyền được xét xử công bằng chỉ cần hoàn thiện ở mức độ nhất định để đáp ứng mục đích chung đó. Điều đó có nghĩa, không đặt ra nhiệm vụ cho việc xây dựng và hoàn thiện trọn vẹn nội dung của từng quyền tố tụng cụ thể của người bị buộc tội.

Có những nội dung của quyền được xét xử công bằng chỉ có thể được thực hiện thông qua chức năng, nhiệm vụ, nghĩa vụ của các cơ quan có thẩm quyền THTT, đặc biệt là Tòa án (ví dụ, quyền được xét xử bởi Tòa án độc lập, vô tư; được xét xử bình đẳng, công khai, kịp thời; quyền được suy đoán vô tội...).. Vì vậy, thay vì chỉ tập trung vào việc xây dựng, hoàn thiện các quyền của người bị buộc tội thì cũng cần kiến nghị các giải pháp đối với các cơ quan, người có thẩm quyền THTT.

Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội phải xuất phát từ những vướng mắc về lý luận và pháp luật, những hạn chế trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Theo đó, các giải pháp cho quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội cần xuất phát từ những kết quả nghiên cứu đã được tổng kết, rút ra trước đó, bao gồm các giải pháp hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật và giải pháp đối với thực tiễn áp dụng pháp luật.

Với cách tiếp cận vấn đề như vậy, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội sẽ tập trung giải quyết các vấn đề pháp lý và thực tiễn sau đây:

-   Tình trạng chưa bảo đảm đầy đủ về độc lập tư pháp, độc lập và vô tư trong xét xử đã ảnh hưởng đến tiêu cực đến quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội. Đây là hạn chế cơ bản, cốt lõi nhất đã làm ảnh hưởng đến quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội, vì thế cần có những biện pháp khắc phục triệt để hơn nữa, kể cả những giải pháp có tính chất liên ngành. Nguyên nhân của thực trạng này chủ yếu từ phía Tòa án chứ không phải do người bị buộc tội từ bỏ hoặc không thực hiện đầy đủ quyền được xét xử công bằng. Vì vậy, các giải pháp chủ yếu tác động đến hệ thống Tòa án.

-  Quyền của người bị buộc tội được xét xử kịp thời và công khai cũng còn có những hạn chế và bị cắt xén nhất định. Việc trì hoãn xét xử thông qua hoãn phiên tòa hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung kéo dài, nhiều lần đã kéo dài thân phận bị can, bị cáo, gây thiệt hại đến quyền con người của người bị buộc tội. Việc xét xử công khai hơn mức cần thiết như xét xử lưu động hoặc cắt xén sự công khai xét xử như hạn chế người tham dự với nhiều lý do khác nhau đều ít nhiều làm ảnh hưởng quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội. Những nguyên nhân này chủ yếu đều xuất phát cơ quan, người có thẩm quyền THTT. Vì vậy, kiến nghị các biện pháp bảo đảm xét xử kịp thời, xét xử công khai đúng quy định, không làm kéo dài quá trình giải quyết vụ án luôn có ý nghĩa ở khía cạnh bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.

-      Quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa được thực hiện đầy đủ và tranh tụng chưa được công bằng, bình đẳng. Quyền bào chữa và tranh tụng công bằng, bình đẳng trước Tòa án là hai khía cạnh của một vấn đề. Vì những hạn chế của pháp luật và thực tiễn mà quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa được thực hiện đầy đủ, do đó người bị buộc tội cũng chưa được xét xử công bằng. Nguyên nhân của những hạn chế này trước hết là người bị buộc tội không có điều kiện để có sự trợ giúp sớm nhất, đầy đủ nhất của người bào chữa. Ngoài ra, người bị buộc tội không thể tự mình có thể bào chữa do hạn chế về kiến thức, điều kiện cách ly nên quyền bào chữa không được thực hiện đầy đủ. Đây cũng là hạn chế rất cơ bản làm ảnh hưởng đến quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội. Bình đẳng về tranh tụng trong TTHS là mục tiêu của cải cách tư pháp trong 20 năm qua (kể từ khi ra đời Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị) nhưng vẫn chưa đạt được những kết quả như kỳ vọng. Lợi thế tranh tụng thường nghiêng về cơ quan, người có thẩm quyền buộc tội nếu xét ở khía cạnh pháp lý lẫn thực tiễn. Kiến nghị về bảo đảm quyền bào chữa, quyền được tranh tụng công bằng, bình đẳng với cơ quan, người có thẩm quyền buộc tội luôn có tính cấp thiết trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư pháp hiện nay.

-  Quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội chưa được nhận thức và thực hiện đúng tinh thần của nó. Suy đoán vô tội là nhằm tránh oan sai, không được định kiến có tội, qua đó người bị buộc tội được xét xử công bằng. Suy đoán vô tội chưa được tôn trọng có nguyên nhân chủ yếu ở pháp luật chưa ghi nhận đầy đủ nội hàm về suy đoán vô tội và người THTT vẫn còn định kiến buộc tội, ứng xử chưa đúng với tinh thần suy đoán vô tội khi giải quyết vụ án hình sự dẫn đến không công bằng trong xét xử. Vấn đề này nằm ngoài khả năng thực hiện quyền của người bị buộc tội. Vì vậy để bảo đảm được xét xử công bằng, cần kiến nghị một số giải pháp cần khắc phục hạn chế của pháp luật và tác động lên ý thức của người THTT.

-   Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để Tòa án cấp trên trực xét xử lại theo trình tự phúc thẩm vẫn còn những tồn tại về nhận thức của người bị buộc tội, do chưa được giải thích rõ về những vấn đề của vụ án có thể kháng cáo trong khi chưa có sự hỗ trợ pháp lý đầy đủ từ phía các luật sư bào chữa. Mặc dù quyền kháng cáo của người bị buộc tội đã được thực hiện khá phổ biến, tuy nhiên vẫn còn những tồn tại về sự hiểu biết của bị cáo trong phạm vi, giới hạn thực hiện quyền này. Các bị cáo thường thiếu hiểu biết về các vi phạm thủ tục tố tụng, về tội danh và khung hình phạt, về các tình tiết tăng nặng, về các nhận định trong bản án chưa khách quan mà chủ yếu kháng cáo về mức hình phạt. Vì thế, việc kiến nghị về một số biện pháp liên quan đến quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để bảo đảm xét xử được công bằng, hạn chế oan sai cũng là biện pháp có ý nghĩa.

Như vậy, các giải pháp thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội được thiết kế cần bảo đảm tính hệ thống, tính đa dạng và tính có cơ sở của các giải pháp đó.

3.1.2. Yêu cầu về cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế của các giải pháp

 Vấn đề bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội chắc chắn sẽ được tiếp tục nghiên cứu và ngày càng hoàn thiện hơn. Con người là trung tâm của các chính sách và chiến lược quốc gia. Quyền con người của người bị buộc tội vẫn là trung tâm của các hoạt động tố tụng trong mô hình TTHS Việt Nam, đồng thời cũng là mục tiêu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và các biện pháp khác triển khai áp dụng pháp luật để bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội được xem xét trong mối quan hệ với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp và bảo đảm quyền con người; trong mối quan hệ với hợp tác và hội nhập quốc tế trong hệ thống tư pháp, bởi sự hội nhập toàn diện, sâu rộng các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác cũng như nhu cầu hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm trong tương lai. Ngoài ra, những tồn tại, hạn chế ở khía cạnh pháp luật và trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự vẫn còn hiện diện như một thách thức cần có giải pháp nhằm bảo đảm hơn nữa quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.

Thứ nhất, giải pháp thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội nhằm đáp ứng mục tiêu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

Chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay vẫn theo đuổi các mục tiêu độc lập tư pháp và bảo đảm tranh tụng, bảo đảm quyền con người. Vào thời điểm đầu năm 2002, Nghị quyết 08-NQ/TW (ngày 2/1/2002) của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, có nội dung: “Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định” và “Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà…”. Tư tưởng về độc lập tư pháp và bảo đảm tranh tụng bình đẳng, bảo đảm quyền bào chữa đã ảnh hưởng xuyên suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam từ BLTTHS năm 2003 đến nay.

Về vấn đề hoàn thiện chính sách, pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự và bảo đảm quyền con người trong tư pháp, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 có nêu phương hướng: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Như vậy, bảo đảm quyền con người; bảo đảm công khai, minh bạch trong tư pháp luôn luôn là nhiệm vụ của cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này có tác động đến các giải pháp nhằm bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.

Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng đề cập đến chủ trương tổ chức lại hệ thống Tòa án nhằm bảo đảm độc lập tư pháp, độc lập xét xử cũng là một trong những điểm nhấn quan trọng nữa được đề ra trong cải cách tư pháp. Đó là: “Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện”. Trong quá trình nghiên cứu để có các giải pháp toàn diện hơn, quy mô lớn hơn và lâu dài hơn cho cải cách tư pháp, Đảng đã có những Hội nghị tổng kết việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp của Nghị quyết 49 -NQ/TW ngày ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Kết quả các Hội nghị đã đưa ra các Kết luận mang tính định hướng như: Kết luận số 79-KL/TW ngày ngày 28 tháng 7 năm 2010 về đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW; Kết luận số 92-KL/TW ngày 12 tháng 3 năm 2014 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49- NQ/TW; Kết luận 84-KL/TW ngày 29 tháng 7 năm 2020 tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 49 -NQ/TW. Trong đó, những vấn đề về tổ chức lại hệ thống cơ quan Tòa án, VKS, CQĐT theo khu vực để bảo đảm độc lập tư pháp; chiến lược về con người trong cơ quan tư pháp; về tổ chức Đảng trong các cơ quan tư pháp… là những cơ sở chính trị trong lĩnh vực tư pháp và cũng có ý nghĩa bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.

Nhu cầu xây dựng nền tư pháp Việt Nam và mục tiêu bảo vệ quyền con người được tiếp tục khẳng định trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, văn minh, liêm chính, phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, của cá nhân”135. Để thực hiện mục tiêu này, trước mắt thực hiện nhiệm vụ: “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”136.

Như vậy, ở góc độ cải cách tư pháp hướng đến độc lập tư pháp, bảo đảm quyền con người, bảo đảm tranh tụng trong lĩnh vực tư pháp, sau hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết 49 -NQ/TW năm 2005, Đảng và Nhà nước ta vẫn đang kiên trì với mục tiêu này và mở ra những hướng mới với định hướng lâu dài. Đây cũng là cơ sở chính trị quan trọng làm nền tảng tư tưởng để tiếp tục nghiên cứu và có biện pháp bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội như yêu cầu về độc lập xét xử của Tòa án, bảo đảm tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội…

Thứ hai, giải pháp thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội cần gắn với nhu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự.

Ngày 20/9/1977, Việt Nam là thành viên của LHQ vì vậy những Tuyên ngôn của LHQ đều có giá trị khuyến nghị đến đời sống chính trị – pháp lý của Việt Nam, đặc biệt là UDHR. Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật liên quan đến quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội chịu ảnh hưởng bởi quy định tại Điều 10 của Tuyên ngôn này.

Ngày 24-9-1982, Việt Nam gia nhập ICCPR. Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam, đặc biệt là xây dựng BLTTHS năm 2015 thể hiện rất rõ việc nỗ lực đưa “những chuẩn mực nhân quyền quốc tế tối thiểu” được ghi nhận trong Công ước này nhằm bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội. Điển hình như việc ghi nhận và hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của TTHS như: suy đoán vô tội (Điều 13); không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14); bảo đảm quyền bào chữa (Điều 16) và các quy định bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội; Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai (Điều 25) tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); người bị buộc tội không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự (Điều 31) và quy định trong pháp luật có liên quan; chế định về các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; chế định về tư pháp đối với người dưới 18 tuổi…

Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (1989) vào ngày 20/2/1990. Với động thái pháp lý này và những thành tựu lập pháp hình sự trong thời gian qua, Việt Nam đã cố gắng đưa hầu hết các giá trị nhân đạo, tiến bộ của Công ước vào pháp luật quốc gia, trong đó có pháp luật TTHS theo tinh thần “vì lợi ích tốt nhất của trẻ em”. Ở góc độ bảo đảm quyền xét xử công bằng của người bị buộc tội thì những ngoại lệ về thủ tục mang tính nhân đạo này rất có ý nghĩa.

Ngày 07/11/2013, Việt Nam đã ký tham gia Công ước của LHQ về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (1984). Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về chống tra tấn vào ngày 28/11/2014. Việc tham gia Công ước đa phương của LHQ về quyền con người một lần nữa cho thấy thiện chí và nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người ở góc độ pháp luật hình sự và TTHS, qua đó thể hiện tôn trọng suy đoán vô tội, bảo đảm xét xử được công bằng và chống tra tấn.

Hiện tại Việt Nam đã và đang từng bước hội nhập quốc tế sâu rộng hơn về mọi mặt, chắc chắn sẽ kéo theo sự phát triển các giá trị pháp lý chung, mang tính toàn cầu. Đến nay, “nước ta có quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó có 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện gồm tất cả 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ, 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu (G7) và 17 trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20)…”137. Quan điểm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong tương lai được đưa ra trong Đại hội XIII là: “thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện và mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã cam kết”138. Với chủ trương hội nhập quốc tế bằng nhiều hình thức, trước tiên về mặt kinh tế, sẽ dẫn đến thay đổi và hoàn thiện về chính sách, pháp luật nói chung, trong đó có hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự.

Như vậy, các biện pháp bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội tiếp tục được xem xét ở góc độ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người và hội nhập quốc tế một cách sâu rộng ở lĩnh vực tư pháp. Đó cũng là tính thời sự và tính thời đại của các biện pháp bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội trong TTHS Việt Nam.

Theo: Nguyễn Trần Như Khuê

Link luận án: 

https://docs.google.com/document/d/19rk3sLt8-O5gyQ1RROlOuDJRyoAESs32/edit

avatar
Đặng Quỳnh
561 ngày trước
GIẢI PHÁP NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
3.1.  Những yêu cầu đối với các giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội3.1.1. Yêu cầu về cơ sở khoa học và thực tiễn của các giải phápQuyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội được nhận thức và bảo đảm thực hiện bởi các quyền tối thiểu. Người bị buộc tội được xét xử công bằng là mục đích chung, cơ bản, xuyên suốt của hệ thống các giải pháp, vì vậy, đối với mỗi quyền tố tụng cụ thể hợp thành nội dung quyền được xét xử công bằng chỉ cần hoàn thiện ở mức độ nhất định để đáp ứng mục đích chung đó. Điều đó có nghĩa, không đặt ra nhiệm vụ cho việc xây dựng và hoàn thiện trọn vẹn nội dung của từng quyền tố tụng cụ thể của người bị buộc tội.Có những nội dung của quyền được xét xử công bằng chỉ có thể được thực hiện thông qua chức năng, nhiệm vụ, nghĩa vụ của các cơ quan có thẩm quyền THTT, đặc biệt là Tòa án (ví dụ, quyền được xét xử bởi Tòa án độc lập, vô tư; được xét xử bình đẳng, công khai, kịp thời; quyền được suy đoán vô tội...).. Vì vậy, thay vì chỉ tập trung vào việc xây dựng, hoàn thiện các quyền của người bị buộc tội thì cũng cần kiến nghị các giải pháp đối với các cơ quan, người có thẩm quyền THTT.Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội phải xuất phát từ những vướng mắc về lý luận và pháp luật, những hạn chế trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Theo đó, các giải pháp cho quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội cần xuất phát từ những kết quả nghiên cứu đã được tổng kết, rút ra trước đó, bao gồm các giải pháp hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn áp dụng pháp luật và giải pháp đối với thực tiễn áp dụng pháp luật.Với cách tiếp cận vấn đề như vậy, các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội sẽ tập trung giải quyết các vấn đề pháp lý và thực tiễn sau đây:-   Tình trạng chưa bảo đảm đầy đủ về độc lập tư pháp, độc lập và vô tư trong xét xử đã ảnh hưởng đến tiêu cực đến quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội. Đây là hạn chế cơ bản, cốt lõi nhất đã làm ảnh hưởng đến quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội, vì thế cần có những biện pháp khắc phục triệt để hơn nữa, kể cả những giải pháp có tính chất liên ngành. Nguyên nhân của thực trạng này chủ yếu từ phía Tòa án chứ không phải do người bị buộc tội từ bỏ hoặc không thực hiện đầy đủ quyền được xét xử công bằng. Vì vậy, các giải pháp chủ yếu tác động đến hệ thống Tòa án.-  Quyền của người bị buộc tội được xét xử kịp thời và công khai cũng còn có những hạn chế và bị cắt xén nhất định. Việc trì hoãn xét xử thông qua hoãn phiên tòa hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung kéo dài, nhiều lần đã kéo dài thân phận bị can, bị cáo, gây thiệt hại đến quyền con người của người bị buộc tội. Việc xét xử công khai hơn mức cần thiết như xét xử lưu động hoặc cắt xén sự công khai xét xử như hạn chế người tham dự với nhiều lý do khác nhau đều ít nhiều làm ảnh hưởng quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội. Những nguyên nhân này chủ yếu đều xuất phát cơ quan, người có thẩm quyền THTT. Vì vậy, kiến nghị các biện pháp bảo đảm xét xử kịp thời, xét xử công khai đúng quy định, không làm kéo dài quá trình giải quyết vụ án luôn có ý nghĩa ở khía cạnh bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.-      Quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa được thực hiện đầy đủ và tranh tụng chưa được công bằng, bình đẳng. Quyền bào chữa và tranh tụng công bằng, bình đẳng trước Tòa án là hai khía cạnh của một vấn đề. Vì những hạn chế của pháp luật và thực tiễn mà quyền bào chữa của người bị buộc tội chưa được thực hiện đầy đủ, do đó người bị buộc tội cũng chưa được xét xử công bằng. Nguyên nhân của những hạn chế này trước hết là người bị buộc tội không có điều kiện để có sự trợ giúp sớm nhất, đầy đủ nhất của người bào chữa. Ngoài ra, người bị buộc tội không thể tự mình có thể bào chữa do hạn chế về kiến thức, điều kiện cách ly nên quyền bào chữa không được thực hiện đầy đủ. Đây cũng là hạn chế rất cơ bản làm ảnh hưởng đến quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội. Bình đẳng về tranh tụng trong TTHS là mục tiêu của cải cách tư pháp trong 20 năm qua (kể từ khi ra đời Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị) nhưng vẫn chưa đạt được những kết quả như kỳ vọng. Lợi thế tranh tụng thường nghiêng về cơ quan, người có thẩm quyền buộc tội nếu xét ở khía cạnh pháp lý lẫn thực tiễn. Kiến nghị về bảo đảm quyền bào chữa, quyền được tranh tụng công bằng, bình đẳng với cơ quan, người có thẩm quyền buộc tội luôn có tính cấp thiết trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư pháp hiện nay.-  Quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội chưa được nhận thức và thực hiện đúng tinh thần của nó. Suy đoán vô tội là nhằm tránh oan sai, không được định kiến có tội, qua đó người bị buộc tội được xét xử công bằng. Suy đoán vô tội chưa được tôn trọng có nguyên nhân chủ yếu ở pháp luật chưa ghi nhận đầy đủ nội hàm về suy đoán vô tội và người THTT vẫn còn định kiến buộc tội, ứng xử chưa đúng với tinh thần suy đoán vô tội khi giải quyết vụ án hình sự dẫn đến không công bằng trong xét xử. Vấn đề này nằm ngoài khả năng thực hiện quyền của người bị buộc tội. Vì vậy để bảo đảm được xét xử công bằng, cần kiến nghị một số giải pháp cần khắc phục hạn chế của pháp luật và tác động lên ý thức của người THTT.-   Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để Tòa án cấp trên trực xét xử lại theo trình tự phúc thẩm vẫn còn những tồn tại về nhận thức của người bị buộc tội, do chưa được giải thích rõ về những vấn đề của vụ án có thể kháng cáo trong khi chưa có sự hỗ trợ pháp lý đầy đủ từ phía các luật sư bào chữa. Mặc dù quyền kháng cáo của người bị buộc tội đã được thực hiện khá phổ biến, tuy nhiên vẫn còn những tồn tại về sự hiểu biết của bị cáo trong phạm vi, giới hạn thực hiện quyền này. Các bị cáo thường thiếu hiểu biết về các vi phạm thủ tục tố tụng, về tội danh và khung hình phạt, về các tình tiết tăng nặng, về các nhận định trong bản án chưa khách quan mà chủ yếu kháng cáo về mức hình phạt. Vì thế, việc kiến nghị về một số biện pháp liên quan đến quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để bảo đảm xét xử được công bằng, hạn chế oan sai cũng là biện pháp có ý nghĩa.Như vậy, các giải pháp thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội được thiết kế cần bảo đảm tính hệ thống, tính đa dạng và tính có cơ sở của các giải pháp đó.3.1.2. Yêu cầu về cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế của các giải pháp Vấn đề bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội chắc chắn sẽ được tiếp tục nghiên cứu và ngày càng hoàn thiện hơn. Con người là trung tâm của các chính sách và chiến lược quốc gia. Quyền con người của người bị buộc tội vẫn là trung tâm của các hoạt động tố tụng trong mô hình TTHS Việt Nam, đồng thời cũng là mục tiêu của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và các biện pháp khác triển khai áp dụng pháp luật để bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội được xem xét trong mối quan hệ với quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp và bảo đảm quyền con người; trong mối quan hệ với hợp tác và hội nhập quốc tế trong hệ thống tư pháp, bởi sự hội nhập toàn diện, sâu rộng các lĩnh vực kinh tế, xã hội khác cũng như nhu cầu hợp tác quốc tế phòng, chống tội phạm trong tương lai. Ngoài ra, những tồn tại, hạn chế ở khía cạnh pháp luật và trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự vẫn còn hiện diện như một thách thức cần có giải pháp nhằm bảo đảm hơn nữa quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.Thứ nhất, giải pháp thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội nhằm đáp ứng mục tiêu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.Chiến lược cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay vẫn theo đuổi các mục tiêu độc lập tư pháp và bảo đảm tranh tụng, bảo đảm quyền con người. Vào thời điểm đầu năm 2002, Nghị quyết 08-NQ/TW (ngày 2/1/2002) của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, có nội dung: “Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định” và “Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên toà…”. Tư tưởng về độc lập tư pháp và bảo đảm tranh tụng bình đẳng, bảo đảm quyền bào chữa đã ảnh hưởng xuyên suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam từ BLTTHS năm 2003 đến nay.Về vấn đề hoàn thiện chính sách, pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự và bảo đảm quyền con người trong tư pháp, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 có nêu phương hướng: “Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Như vậy, bảo đảm quyền con người; bảo đảm công khai, minh bạch trong tư pháp luôn luôn là nhiệm vụ của cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này có tác động đến các giải pháp nhằm bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng đề cập đến chủ trương tổ chức lại hệ thống Tòa án nhằm bảo đảm độc lập tư pháp, độc lập xét xử cũng là một trong những điểm nhấn quan trọng nữa được đề ra trong cải cách tư pháp. Đó là: “Tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính. Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện”. Trong quá trình nghiên cứu để có các giải pháp toàn diện hơn, quy mô lớn hơn và lâu dài hơn cho cải cách tư pháp, Đảng đã có những Hội nghị tổng kết việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp của Nghị quyết 49 -NQ/TW ngày ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Kết quả các Hội nghị đã đưa ra các Kết luận mang tính định hướng như: Kết luận số 79-KL/TW ngày ngày 28 tháng 7 năm 2010 về đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW; Kết luận số 92-KL/TW ngày 12 tháng 3 năm 2014 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49- NQ/TW; Kết luận 84-KL/TW ngày 29 tháng 7 năm 2020 tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 49 -NQ/TW. Trong đó, những vấn đề về tổ chức lại hệ thống cơ quan Tòa án, VKS, CQĐT theo khu vực để bảo đảm độc lập tư pháp; chiến lược về con người trong cơ quan tư pháp; về tổ chức Đảng trong các cơ quan tư pháp… là những cơ sở chính trị trong lĩnh vực tư pháp và cũng có ý nghĩa bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.Nhu cầu xây dựng nền tư pháp Việt Nam và mục tiêu bảo vệ quyền con người được tiếp tục khẳng định trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, văn minh, liêm chính, phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, của cá nhân”135. Để thực hiện mục tiêu này, trước mắt thực hiện nhiệm vụ: “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”136.Như vậy, ở góc độ cải cách tư pháp hướng đến độc lập tư pháp, bảo đảm quyền con người, bảo đảm tranh tụng trong lĩnh vực tư pháp, sau hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết 49 -NQ/TW năm 2005, Đảng và Nhà nước ta vẫn đang kiên trì với mục tiêu này và mở ra những hướng mới với định hướng lâu dài. Đây cũng là cơ sở chính trị quan trọng làm nền tảng tư tưởng để tiếp tục nghiên cứu và có biện pháp bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội như yêu cầu về độc lập xét xử của Tòa án, bảo đảm tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội…Thứ hai, giải pháp thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội cần gắn với nhu cầu hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự.Ngày 20/9/1977, Việt Nam là thành viên của LHQ vì vậy những Tuyên ngôn của LHQ đều có giá trị khuyến nghị đến đời sống chính trị – pháp lý của Việt Nam, đặc biệt là UDHR. Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật liên quan đến quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội chịu ảnh hưởng bởi quy định tại Điều 10 của Tuyên ngôn này.Ngày 24-9-1982, Việt Nam gia nhập ICCPR. Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật TTHS Việt Nam, đặc biệt là xây dựng BLTTHS năm 2015 thể hiện rất rõ việc nỗ lực đưa “những chuẩn mực nhân quyền quốc tế tối thiểu” được ghi nhận trong Công ước này nhằm bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội. Điển hình như việc ghi nhận và hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của TTHS như: suy đoán vô tội (Điều 13); không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14); bảo đảm quyền bào chữa (Điều 16) và các quy định bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội; Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai (Điều 25) tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); người bị buộc tội không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự (Điều 31) và quy định trong pháp luật có liên quan; chế định về các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; chế định về tư pháp đối với người dưới 18 tuổi…Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (1989) vào ngày 20/2/1990. Với động thái pháp lý này và những thành tựu lập pháp hình sự trong thời gian qua, Việt Nam đã cố gắng đưa hầu hết các giá trị nhân đạo, tiến bộ của Công ước vào pháp luật quốc gia, trong đó có pháp luật TTHS theo tinh thần “vì lợi ích tốt nhất của trẻ em”. Ở góc độ bảo đảm quyền xét xử công bằng của người bị buộc tội thì những ngoại lệ về thủ tục mang tính nhân đạo này rất có ý nghĩa.Ngày 07/11/2013, Việt Nam đã ký tham gia Công ước của LHQ về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (1984). Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn Công ước về chống tra tấn vào ngày 28/11/2014. Việc tham gia Công ước đa phương của LHQ về quyền con người một lần nữa cho thấy thiện chí và nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người ở góc độ pháp luật hình sự và TTHS, qua đó thể hiện tôn trọng suy đoán vô tội, bảo đảm xét xử được công bằng và chống tra tấn.Hiện tại Việt Nam đã và đang từng bước hội nhập quốc tế sâu rộng hơn về mọi mặt, chắc chắn sẽ kéo theo sự phát triển các giá trị pháp lý chung, mang tính toàn cầu. Đến nay, “nước ta có quan hệ ngoại giao với 189 trong 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó có 30 đối tác chiến lược, đối tác toàn diện gồm tất cả 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ, 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu (G7) và 17 trong 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20)…”137. Quan điểm nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong tương lai được đưa ra trong Đại hội XIII là: “thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện và mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã cam kết”138. Với chủ trương hội nhập quốc tế bằng nhiều hình thức, trước tiên về mặt kinh tế, sẽ dẫn đến thay đổi và hoàn thiện về chính sách, pháp luật nói chung, trong đó có hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự.Như vậy, các biện pháp bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội tiếp tục được xem xét ở góc độ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, bảo đảm quyền con người và hội nhập quốc tế một cách sâu rộng ở lĩnh vực tư pháp. Đó cũng là tính thời sự và tính thời đại của các biện pháp bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội trong TTHS Việt Nam.Theo: Nguyễn Trần Như KhuêLink luận án: https://docs.google.com/document/d/19rk3sLt8-O5gyQ1RROlOuDJRyoAESs32/edit