GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN ĐƯỢC XÉT XỬ CÔNG BẰNG CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI
3.1. Các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội
3.1.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng pháp luật
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định nhằm bảo đảm thực hiện quyền của người bị buộc tội được xét xử bởi Thẩm phán, Hội thẩm vô tư.
Cần quy định rõ Tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ mà chỉ có trách nhiệm kiểm tra, đánh giá chứng cứ do các bên cung cấp để ra bản án, quyết định. Từ đó có thể dẫn đến những sửa đổi, bổ sung nội dung này trong các điều luật khác có liên quan (Điều 15, điểm d khoản 2 Điều 45, Điều 88, Điều 252, khoản 2 Điều 307 BLTTHS). Giải pháp này có ý nghĩa làm cho Tòa án, trong đó có Thẩm phán, Hội thẩm được vô tư trong xét xử, đồng thời hạn chế định kiến buộc tội khi thu thập chứng cứ để chứng minh tội phạm. Tòa án chỉ có nghĩa vụ kiểm tra, đánh giá chứng cứ để chứng minh cho nhận định trong bản án, quyết định.
Theo quy định của pháp luật TTHS hiện nay thì Tòa án (Thẩm phán, Hội thẩm) có nghĩa vụ chứng minh làm rõ sự thật khách quan vụ án một cách đầy đủ, toàn diện như những cơ quan có thẩm quyền THTT khác. Tức là cũng tiến hành thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Quy định này cũng có ý nghĩa tích cực nhất định trong trường hợp người bị buộc tội không có điều kiện chứng minh, trong khi tỷ lệ vụ án hình sự có tỷ lệ người bào chữa tham gia 23,4% (xem mục 3.1.3). Tuy nhiên, quy định này đã ảnh hưởng đến sự vô tư của Thẩm phán, Hội thẩm khi có ý định thu thập chứng cứ buộc tội hay gỡ tội. Việc nhiều chức năng giao cho một chủ thể như Tòa án thì khó thực hiện chức năng xét xử một cách sự vô tư, công bằng, khách quan. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến tranh tụng công bằng, bởi dễ có định kiến mà thường là định kiến buộc tội. Thực tiễn thu thập chứng cứ mới của Thẩm phán, Hội thẩm cũng rất hạn chế, đặc biệt là tại phiên tòa. Vì vậy, chỉ nên quy định Tòa án (Thẩm phán, Hội thẩm) có nghĩa vụ kiểm tra, đánh giá chứng cứ khi ra bản án, quyết định của Tòa án. Tòa án có thể tiếp nhận chứng cứ do các chủ thể khác thu thập để kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ.
Việc tiếp nhận chứng cứ trong trường hợp này không nên coi là thu thập chứng cứ theo nghĩa thu thập một cách thụ động. Đây cũng là điều kiện bảo đảm vô tư của Thẩm phán, Hội thẩm khi xét xử, qua đó bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.
Về vấn đề nêu trên, Báo cáo tổng kết thực tiễn 8 năm thi hành BLTTHS năm 2003 và đề xuất sửa đổi, bổ sung của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Dự thảo năm 2012, phần thứ 3) liên quan đến sửa đổi, bổ sung chức năng của Tòa án có đề xuất hai phương án:139 “Phương án 1: Tiếp tục xác định Tòa án có trách nhiệm trong việc chứng minh tội phạm. Theo đó, Tòa án vẫn có quyền trả hồ sơ yêu cầu VKS điều tra bổ sung; xét xử bị cáo vượt quá giới hạn truy tố của VKS; tiếp tục xét xử khi VKS rút toàn bộ quyết định truy tố; tiếp tục quy định trình tự xét hỏi như hiện hành: HĐXX hỏi trước, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Phương án 2: Tòa án không có trách nhiệm chứng minh tội phạm, Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử, không thực hiện việc buộc tội bị cáo, loại bỏ một số thẩm quyền không phù hợp với chức năng xét xử của Tòa án (như: khởi tố vụ án, xét xử bị cáo vượt quá giới hạn truy tố của VKS; tiếp tục xét xử khi VKS rút toàn bộ quyết định truy tố). Đổi mới thủ tục xét hỏi tại phiên tòa theo hướng Tòa án chủ yếu làm nhiệm vụ điều khiển việc xét hỏi, tranh luận giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Tòa án chỉ hỏi khi thấy cần thiết để kiểm tra chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội nhằm nhận thức đúng sự thật”. Mặc dù đã có nhiều ý kiến như trên nhưng BLTTHS năm 2015 vẫn tiếp tục quy định trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan có thẩm quyền THTT tại Điều 15 mà không có sự phân biệt nào về mức độ thực hiện nghĩa vụ chứng minh giữa chủ thể này. Quy định này chưa phù hợp với chức năng xét xử của Tòa án. Với chức năng xét xử, Tòa án không có trách nhiệm chứng minh tội phạm giống như các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội. Tòa án không có nghĩa vụ thu thập chứng cứ nhưng để ra bản án, quyết định, Tòa án phải có nghĩa vụ chứng minh cho nhận định của mình vì sao có tội hoặc vô tội và những vấn đề khác của vụ án. Chính vì vậy, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 15 BLTTHS năm 2015 theo hướng giải phóng một phần nghĩa vụ chứng minh của Tòa án, chỉ còn nghĩa vụ kiểm tra, đánh giá chứng cứ để bảo đảm xét xử được vô tư. Trong kiến nghị này, tác giả chia sẻ với quan điểm sửa đổi Điều 15 BLTTHS năm 2015: theo hướng Tòa án chỉ có nghĩa vụ kiểm tra, đánh giá chứng cứ.
Thứ hai, hoàn thiện các quy định nhằm bảo đảm thực hiện quyền được suy đoán vô tội.
- Bổ sung nội dung suy đoán có lợi trong nội hàm suy đoán vô tội tại Điều 13 BLTTHS. Theo đó, người bị buộc tội còn được suy đoán có lợi trong trường hợp: pháp luật quy định chưa rõ hoặc có tranh chấp quan điểm thì giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội; trường hợp còn nghi ngờ về chứng cứ hoặc tội được áp dụng thì có thể suy đoán vô tội hoặc suy đoán có lợi cho người bị buộc tội nếu việc suy đoán có lợi đó không còn nghi ngờ gì nữa. Kiến nghị này góp phần hạn chế oan, sai cho người bị buộc tội, qua đó được xét xử công bằng hơn.
- Cần ghi nhận “quyền im lặng” của người bị buộc tội thay vì quyền “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” như hiện nay vì sự phát triển trong tư duy pháp lý và thực tiễn về quyền này so với thời điểm ra đời ICCPR (1966). Đồng thời để thống nhất với quyền im lặng, cần quy định “người bị buộc tội còn có quyền từ chối yêu cầu cung cấp bất kỳ tài liệu nào, bất kỳ thứ gì mà nếu làm như vậy sẽ chống lại họ”. Kiến nghị này chủ yếu xuất phát từ những hạn chế của pháp luật, được nghiên cứu ở góc độ so sánh luật chứ chưa được đánh giá ở góc độ thực tiễn. Như đã trình bày ở Chương 1, quyền im lặng rộng hơn quyền không phải khai báo chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội, bởi đặc quyền chống tự buộc tội là một khía cạnh của quyền im lặng. Quyền im lặng bảo vệ quyền không bị buộc phải khai báo chống lại chính mình, bất kể lời khai đó có buộc tội hay không. Thay vì quy định người bị buộc tội “không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” thì nên quy định rộng hơn, đó là quyền im lặng (hay quyền từ chối khai báo) đối với bất kỳ câu hỏi nào và bất kỳ ở giai đoạn tố tụng nào. Sự im lặng đó không được suy đoán có tội và cũng không có nghĩa vô tội mà đơn giản là không có ý nghĩa gì. Tham khảo Điều 311 (1) BLTTHS Nhật Bản: “Bị cáo có thể giữ im lặng trong toàn bộ thời gian xét hỏi hoặc có thể từ chối khai báo với những câu hỏi riêng tư”.
Thứ ba, hoàn thiện quy định về xét xử kịp thời và quyền được xét xử kịp thời.
Sửa đổi, hoàn thiện Điều 25 BLTTHS nhằm bảo đảm thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội: “Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định. Tòa án xét xử nhanh chóng khi đủ điều kiện mà không có sự trì hoãn quá mức. Xét xử kịp thời cũng phải bảo đảm quyền bào chữa”.
Xét xử kịp thời hay không trì hoãn xét xử một cách thiếu căn cứ sẽ hạn chế được những thiệt hại phát sinh đối với người bị buộc tội, đặc biệt là đối với người bị buộc tội không được tại ngoại trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Vì vậy, bảo đảm xét xử kịp thời góp phần bảo đảm xét xử công bằng của người bị buộc tội. Biện pháp bảo đảm quyền được xét xử kịp thời chủ yếu được bảo đảm ở khía cạnh pháp luật và nghĩa vụ của các cơ quan có thẩm quyền THTT. Xét xử kịp thời không chỉ được xem xét ở giai đoạn xét xử mà được xem xét cả quá trình tố tụng diễn ra trước khi đi đến giai đoạn xét xử.
Với kiến nghị trên, cần thay đổi trong nhận thức về điều kiện được coi là xét xử kịp thời. Xét xử kịp thời không chỉ xét xử trong thời hạn luật định (Điều 25 BLTTHS) mà còn xem xét theo từng vụ án cụ thể để biết được có trì hoãn việc xét xử một cách vô lý không mặc dù vẫn bảo đảm thời hạn. Việc quy định gia hạn thời hạn tố tụng đã phản ánh phần nào sự khác biệt về thời hạn giữa các vụ án cùng tính chất nghiêm trọng nhưng khác về tính chất phức tạp trong hoạt động chứng minh cũng như số lượng những người tham gia tố tụng. Nếu đã có đủ điều kiện về thủ tục tố tụng và kết quả chứng minh đủ chứng cứ nhưng quá trình tố tụng vẫn kéo dài theo thời hạn tố tụng cho phép, kể cả được phép gia hạn mà không khẩn trương giải quyết vụ án thì vẫn có thể bị coi là xét xử không kịp thời hoặc trì hoãn việc xét xử.
Như vậy, xét xử kịp thời đáp ứng hai điều kiện: một là xét xử trong thời hạn luật định (điều kiện cần); hai là khi đã bảo đảm các thủ tục tố tụng và có đủ chứng cứ để đưa ra xét xử thì khẩn trương xét xử mà không trì hoãn theo thời hạn tố tụng (điều kiện đủ). Điều kiện thứ hai chỉ có thể bảo đảm thực hiện ở khía cạnh nhận thức và trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền THTT trong thực tiễn giải quyết vụ án. Rất khó có thể đưa ra một căn cứ cụ thể nào (ví dụ như thời hạn) để đánh giá các cơ quan THTT bảo đảm yêu cầu xét xử kịp thời vụ án hay không.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định và hướng dẫn áp dụng một số vấn đề nhằm bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội.
- Đề nghị bỏ quy định “Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra” (Điều 74 BLTTHS). Quy định này không bảo đảm công bằng về thủ tục trong TTHS vì ngoại lệ của nó không được giải thích một cách thuyết phục giống như trường hợp có thủ tục đặc đối với người dưới 18 tuổi, pháp nhân phạm tội hoặc trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia, hầu hết là các tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng nên phải bảo đảm ở mức cao nhất sự tuân thủ đầy đủ và công bằng về thủ tục. Như vậy, cần bỏ quy định có tính chất cắt xén quyền bào chữa như hiện nay để bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bào chữa, từ đó bảo đảm thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.
- Cần mở rộng các trường hợp người bị buộc tội được chỉ định bào chữa. Theo đó, cần sửa đổi quy định về trường hợp được chỉ định bào chữa (tại điểm a khoản 1 Điều 76) đối với bị can, bị cáo về tội có mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân, tử hình (quy định hiện hành được chỉ định bào chữa là bị can, bị cáo về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình). Với kết quả tính toán cho thấy hiện chỉ có 23,4% số vụ án hình sự có người bào chữa (xem mục 3.1.3), trong khi nguyên tắc bảo đảm tranh tụng đòi hỏi “Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa” (Điều 26). Nếu không có người bào chữa tham gia tố tụng thì phán quyết của Tòa án dễ bị ảnh hưởng bởi quan điểm của bên buộc tội. Tội có mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân, tử hình hiện nay thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp tỉnh. Tuy nhiên cấp xét xử này (bao gồm cả một số tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt dưới 15 năm tù) cũng chỉ chiếm khoảng 10% số lượng vụ án xét xử sơ thẩm (“thực tế Tòa án cấp huyện xét xử tới hơn 90% số lượng vụ án theo trình tự sơ thẩm”143). Hơn nữa, bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình đã thuộc trường hợp chỉ định bào chữa nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa. Như vậy, việc mở rộng phạm vi các trường hợp chỉ định bào chữa chỉ tác động đến nhóm các tội có mức cao nhất của khung hình phạt là trên 15 năm tù đến (dưới) 20 năm tù nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa. Kiến nghị này có lẽ không gây nhiều khó khăn cho ngân sách nhà nước để chi trả các trường hợp chỉ định bào chữa nhưng lại góp phần bảo đảm thực hiện quyền bào chữa trong những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.
- Hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định người bào chữa phải được Cơ quan có thẩm quyền THTT báo trước một thời gian hợp lý về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo quy định của BLTTHS (Điều 79 BLTTHS).
Ở giai đoạn xét xử, khoản 1 Điều 286 BLTTHS năm 2015 quy định: “Quyết định đưa vụ án ra xét xử được giao cho bị cáo hoặc người đại diện của họ; gửi cho người bào chữa, bị hại, đương sự chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên tòa”. Việc thông báo kịp thời không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo đảm sự có mặt của người bào chữa (luật sư, người trợ giúp pháp lý, người đại diện) mà còn bảo đảm sự chuẩn bị nội dung, kế hoạch bào chữa. Đó cũng là điều kiện để bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.
Trước đây, sự chậm trễ về thời hạn thông báo trước cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành tố tụng nếu có chủ yếu ở giai đoạn điều tra (có 40,5% trong số 74 người được hỏi không đồng tình việc được thông báo kịp thời). Ngày 10/10/2019, Bộ Công an đã ra Thông tư 46/2019/TT-BCA hướng dẫn kịp thời và tương đối hợp lý nhằm khắc phục chậm trễ về thời hạn mà CQĐT phải thông báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng cho người bào chữa để họ có mặt và tham dự. Theo đó, CQĐT phải báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành tố tụng mà người bào chữa có quyền tham gia tối thiểu 24 giờ đối với trường hợp người bào chữa, cư trú cùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với cơ quan đang thụ lý vụ án, vụ việc; 48 giờ đối với trường hợp người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cư trú khác tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với cơ quan đang thụ lý vụ án, vụ việc trước ngày tiến hành hoạt động tố tụng. Ngoài ra, còn khuyến khích sự thỏa thuận thời gian thông báo sớm hơn giữa người bào chữa và CQĐT. Tuy nhiên, “phạm vi điều chỉnh của Thông tư này về trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của BLTTHS năm 2015 liên quan đến bảo đảm chung về quyền bào chữa. Những chủ thể khác như VKS, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, người bào chữa là người trợ giúp pháp lý, người đại diện không thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư này”144. Vì vậy, cần có văn bản chung (dạng Thông tư Liên tịch) để hướng dẫn áp dụng thống nhất đối với các chủ thể THTT và các chủ thể tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố liên quan đến yêu cầu thông báo kịp thời nhất, sớm nhất đến người bào chữa, người đại diện của người bị buộc tội về thời gian, địa điểm THTT. Nội dung hướng dẫn có thể tham khảo quy định tại Thông tư 46/2019.
Thứ năm, cần hướng dẫn cụ thể bằng văn bản về nội dung và phạm vi quyền kháng cáo của bị cáo.
Về nội dung (căn cứ), bị cáo có quyền kháng cáo việc kết án bị cáo về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, loại hình phạt, mức hình phạt và các biện pháp trách nhiệm hình sự khác, đồng thời kháng cáo về bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, án phí được áp dụng đối với bị cáo; bị cáo còn có quyền kháng cáo việc vi phạm các thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Về phạm vi, bị cáo, người đại diện, người bào chữa chỉ kháng cáo các vấn đề có liên quan đến lợi ích của họ. Như vậy, không phải vấn đề nào thuộc về bản án cũng thuộc phạm vi quyền kháng cáo (BLTTHS quy định chung chung là bị cáo có quyền “kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án” (điểm m khoản 2 Điều 61 Điều 331 BLTHS) hoặc “Bị cáo... người đại diện của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm” (khoản 1 Điều 331 BLTTHS)). Nếu được hướng dẫn cụ thể thì bị cáo, người đại diện thực hiện đúng quyền kháng cáo, vụ án được xét xử lại bảo đảm công bằng hơn.
Thứ sáu, hoàn thiện quy định được trợ giúp phiên dịch miễn phí và bảo đảm phiên dịch đầy đủ cho người bị buộc tội nếu họ không hiểu và nói được tiếng Việt để tự bào chữa.
Ở góc độ quyền được xét xử công bằng thì người bị buộc tội có quyền yêu cầu phiên dịch miễn phí để tranh tụng bình đẳng và bào chữa chỉ trong trường hợp họ không thể hiểu hoặc nói tiếng Việt. Điều này cũng có nghĩa, nếu người bị buộc tội hiểu và nói được tiếng Việt đủ để tự bào chữa thì không được hưởng quyền có phiên dịch miễn phí. Như vậy, cần bổ sung quy định từ Điều 58 đến Điều 61: người bị bắt/ người bị tạm giữ/ bị can/ bị cáo “được sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trong trường hợp không thể hiểu hoặc nói tiếng Việt” và “được hỗ trợ phiên dịch miễn phí”. Ngoài ra, yêu cầu về phiên dịch, đặc biệt là tại phiên tòa cần đầy đủ hơn chứ không hạn chế ở phiên dịch tóm tắt. Việc phiên dịch về hỏi đáp có thể dễ đáp ứng, tuy nhiên phiên dịch phát biểu quan điểm luận tội của Kiểm sát viên và nội dung tranh luận thì thực tiễn khó đáp ứng đầy đủ. Mặc khác, bị cáo cũng cần được phiên dịch để hiểu đầy đủ việc hỏi đáp, đối đáp liên quan đến các chủ thể tham gia tố tụng khác (ví dụ, bị hại, người làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định...) trong trường hợp có nội dung chống lại bị cáo.
3.1.2. Các giải pháp khác bảo đảm thực hiện quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội
Thứ nhất, các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền được xét xử bởi Tòa án độc lập, vô tư và đúng thẩm quyền.
- Cần tổ chức lại hệ thống Tòa án cấp huyện theo mô hình Tòa án khu vực, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.
Để bảo đảm Tòa án xét xử độc lập, vô tư, đúng thẩm quyền, ngoài quy định pháp luật TTHS cũng cần thiết xem xét tính hợp lý của tổ chức hệ thống Tòa án, thẩm quyền xét xử và chế độ đối với Thẩm phán. Giải pháp có tính chất liên ngành này mới có thể giải quyết triệt để những hạn chế, tồn tại về độc lập tư pháp, độc lập Tòa án mà cụ thể hơn là độc lập xét xử. Đó cũng là điều kiện để có xét xử công bằng và bảo đảm quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội.
Mục đích của kiến nghị này là để bảo đảm cho Tòa án độc lập với chính quyền và tổ chức Đảng ở địa phương. Từ đó Thẩm phán, Hội thẩm có điều kiện xét xử độc lập mà không chịu tác động hoặc sức ép từ cơ quan, cá nhân, tổ chức ở địa phương. Quyền được xét xử công bằng của người bị buộc tội phải được xem xét trong mối quan hệ với độc lập xét xử xử của Tòa án. “Thực tiễn tư pháp thế giới cho thấy, các Tòa án càng có ít mối quan hệ ngang với các cơ quan đại diện, với cơ quan hành chính địa phương thì nguyên tắc độc lập càng được thực hiện tốt. Khi Tòa án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ thì càng nhiều nguy cơ can thiệp từ phía cơ quan lãnh đạo, các cơ quan cùng cấp”. Mặc dù theo Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, trong hệ thống bộ máy chính quyền địa phương chỉ có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, tuy nhiên, trong nhận thức của nhiều người vẫn coi Tòa án, kể cả VKS như một bộ phận của bộ máy chính quyền địa phương nên dễ gây sức ép lên hoạt động tư pháp.
Theo: Nguyễn Trần Như Khuê
Link luận án:
https://docs.google.com/document/d/19rk3sLt8-O5gyQ1RROlOuDJRyoAESs32/edit