0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64aec4fcb7665-NHỮNG-VƯỚNG-MẮC,-BẤT-CẬP-TRONG-GIẢI-QUYẾT-TRANH-CHẤP-CÔNG-TY-CỔ-PHẦN-TẠI-TÒA-ÁN.jpg.webp

NHỮNG VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CÔNG TY CỔ PHẦN TẠI TÒA ÁN

 

1.1.  Vướng mắc, bất cập trong xác định người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án

Xác định tư cách đương sự tham gia tố tụng trong vụ án dân sự nói chung và trong giải quyết tranh chấp trong CTCP là nhiệm vụ của Tòa án trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án. Điểm b khoản 2 Điều 203 BLTTDS quy định “trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, thẩm phán thực hiện “xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác”. Như vậy, tư cách đương sự tham gia tố tụng gồm nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ được xác định sau khi tòa án thụ lý vụ án và là trách nhiệm của Tòa án, là hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền của thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Việc xác định đúng và đầy đủ đương sự tham gia tố tụng có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung và tố tụng, bởi lẽ mỗi đương sự tham gia vụ án với quyền và nghĩa vụ khác nhau, có vị thế, vai trò khác nhau [60, tr. 156]. Việc xác định sai hoặc bỏ sót tư cách đương sự tham gia tố tụng sẽ dẫn đến ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong vụ án và dẫn đến quyết định, bản án của tòa án có thể bị hủy bởi cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm. Đối với tranh chấp trong CTCP, sự tách biệt về tư cách tham gia tố tụng trong vụ án giữa công ty, cổ đông và NQLCT thường dẫn đến việc xác định sai hoặc bỏ sót người tham gia tố tụng trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án. Đây cũng là sai sót phổ biến của Tòa án các cấp dẫn đến việc bị hủy án .

Xác định sai tư cách người tham gia tố tụng khi giải quyết tranh chấp trong CTCP bằng Tòa án trong thực tiễn thường xảy ra đối với trường hợp Tòa án xác định tư cách người tham gia tố tụng trên cơ sở đơn khởi kiện chứ không đánh giá toàn diện quan hệ pháp luật tranh chấp. Cơ sở pháp lý của việc xác định tư cách đương sự theo đơn khởi kiện là khái niệm bị đơn được quy định tại khoản 3 Điều 68 BLTTDS, và quyền tự định đoạt của đương sự tại khoản 1 Điều 5 BLTTDS. Theo đó, người khởi kiện có quyền xác định việc khởi kiện ai, khởi kiện vấn đề gì và Tòa án căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện để xác định nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tuy nhiên, nếu người khởi kiện không am hiểu pháp luật thì họ sẽ xác định không đúng quan hệ pháp luật và dẫn đến xác định sai người bị kiện, tức là người khởi kiện giả thiết không đúng về người có nghĩa vụ với mình . Điều này mặc dù không sai về tố tụng nhưng khiến cho người bị kiện phải gánh chịu phí tổn về thời gian, chi phí cho việc khởi kiện nhưng không thu được kết quả và phải bắt đầu vòng tố tụng mới (nếu tiếp tục khởi kiện đúng đối tượng). Cũng có quan điểm cho rằng Tòa án cần xác định tư cách đương sự tham gia tố tụng trên cơ sở xem xét toàn diện quan hệ pháp luật tranh chấp và hướng dẫn người khởi kiện thay đổi Đơn khởi kiện từ ban đầu. Quan điểm này cũng là đường lối của TANDTC về xác định tư cách đương sự thì “địa vị tố tụng của mỗi đương sự trong một vụ kiện phản ánh quan hệ giữa các đương sự với nhau trong một quan hệ pháp luật nhất định nào đó: người có quyền lợi bị xâm phạm ra trước Tòa án với tư cách nguyên đơn và người có ngh a vụ liên quan hoặc phải chịu trách nhiệm tham gia vụ kiện ở vị trí bị đơn” [27]. Tuy nhiên, trường hợp Tòa án yêu cầu đương sự thay đổi đơn khởi kiện để xác định lại tư cách tham gia tố tụng cho phù hợp nhưng người khởi kiện không đồng ý thì cũng phải tôn trọng quyền tự định đoạt của họ.

Trong vụ án ông Lê Chí S khởi kiện các đồng bị đơn bao gồm: ông Hồng Chánh C; ông Phạm Đình T và ông Trần Hoài T1, ông S xác định yêu cầu tranh chấp của ông là tranh chấp dân sự về quyền sở hữu tài sản theo khoản 2 Điều 25 BLTTDS và buộc ông C, ông T và ông T1 là 03 cổ đông còn lại trong CTCP K phải hoàn trả cho ông 1.903.147.023đ tương đương 33% tỷ lệ cổ phần góp vốn của ông vào Công ty K, cụ thể mỗi người phải trả cho ông 634.382.241đ tương ứng tỷ lệ 11% nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông trong CTCP K. Tuy nhiên, Tòa án các cấp đã xác định, mặc dù ông S cho rằng ông khởi kiện cá nhân 03 bị đơn chứ không phải khởi kiện tranh chấp thành viên công ty, nhưng thông qua các đơn khởi kiện, lời trình bày của ông S và tại phiên tòa ông vẫn yêu cầu 03 bị đơn phải trả lại cho ông 1.903.147.023đ tương đương 33% cổ phần trong Công ty K nên về bản chất là tranh chấp giữa các thành viên công ty. Đồng thời, Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông buộc các cổ đông phải hoàn trả cho ông S số tiền tương đương với 33% cổ phần của ông tại Công ty K. Việc ông S xác định tranh chấp của ông là đòi tài sản đã dẫn đến xác định sai tư cách tham gia tố tụng của bị đơn. Ở đây, trong trường hợp ông S có ý định rút vốn góp khỏi công ty thì nếu ông S yêu cầu công ty mua lại cổ phần tương ứng thì xác định công ty là người bị kiện trong việc yêu cầu mua lại cổ phần của cổ đông hoặc nếu ông S chuyển nhượng cổ phần cho người khác thì khi có tranh chấp sẽ xác định người bị kiện và quan hệ pháp luật tương ứng (Phụ lục 01, Bản án số: 27/2018/KDTM-PT Ngày: 16/ 7/2018 V/v: “Tranh chấp giữa các thành viên trong công ty” giữa nguyên đơn: Ông Lê Chí S và bị đơn gồm các ông: Hồng Chánh C, Phạm Đình T, Trần Hoài T1).

Ngoài ra, sai sót từ việc xác định thiếu người tham gia tố tụng trong vụ án còn xuất phát từ việc thiếu hiểu biết pháp luật và thiếu thiện chí từ phía các đương sự. Nhiều trường hợp tài sản và quan hệ tranh chấp liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người thứ ba nhưng các đương sự không trình báo dẫn đến Tòa án không có căn cứ đưa người thứ ba vào tham gia tố tụng. Chẳng hạn: trong vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phiếu giữa nguyên đơn là ông Lý Quốc Hoàng và bị đơn ông Giang Tuấn Long (Quyết định Giám đốc thẩm số 18/2010/KDTM-GĐT ngày 08/12/2010 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phiếu”),[113, tr. 163- 174] HĐXX Giám đốc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm do vi phạm về thủ tục tố tụng với nhận định: căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì trong suốt quá trình giải quyết vụ án, ông Giang Tuấn Long, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng và Ngân hàng CP ngoại thương Việt Nam không thông báo cho Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm biết việc Sổ chứng nhận sở hữu cổ phần của ông Long đang bị cầm cố tại các Ngân hàng trên nên tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không có căn cứ để đưa Ngân hàng vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đối với số cổ phiếu đang cầm cố nêu trên không thể thi hành được nếu ông Long không thanh toán được nợ cho các ngân hàng và tài sản cầm cố không được ngân hàng giải chấp.

Quan điểm xác định tư cách đương sự tham gia tố tụng giữa từng cấp xét xử khác nhau cũng là vấn đề gây tranh cãi trong hệ thống Tòa án. Có nhiều trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng không cần thiết đưa một cá nhân, tổ chức vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng cấp phúc thẩm lại có quan điểm trái ngược nên dẫn đến hủy án sơ thẩm để giải quyết lại. Hệ quả của việc xác định tư cách đương sự không đúng là bản án sơ thẩm sẽ bị cấp phúc thẩm hủy hoặc bản án sơ thẩm hoặc phúc thẩm sẽ bị quyết định giám đốc thẩm hủy do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án. Trong vụ án yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng cổ phần vô hiệu giữa nguyên đơn Ngân hàng SHB và bị đơn: Ông Lê Tấn Hòa đối với cổ phần công ty Lilama – SHB (Phụ lục 01, Bản án số 17/2019/KDTM-PT ngày 08/11/2019 của TANDCC tại Đà Nẵng và Bản án số 03/2019/KDTM-ST ngày 22/5/2019 của TAND tp. Đà Nẵng, Bản án KDTM sơ thẩm số 16/2017/KDTM-ST ngày 26/9/2017 của TAND thành phố Đà Nẵng), ông Nguyễn Văn Lê là người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng và đã có người đại diện ủy quyền tham gia vụ án. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cần đưa ông Lê vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để lấy lời khai của ông vì ông Lê là đại diện cho phần vốn góp của Ngân hàng và tham gia vào cuộc họp HĐQT của công ty Lilama-SHB, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa vào vì tại thời điểm Ngân hàng khởi kiện, ông Nguyễn Văn Lê là người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng SHB tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn trong vụ án này. Mặc dù ông Lê đã ủy quyền cho đại diện theo ủy quyền của ngân hàng tham gia tố tụng nhưng điều đó không làm mất đi tư cách đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng của ông trong vụ án này. Trong suốt quá trình tham gia giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền do của ông cũng không có bất kỳ ý kiến gì đối với việc có mặt hay không có mặt ông Lê trong cuộc họp này. Tất cả các chứng cứ các bên giao nộp đều được Tòa án cấp sơ thẩm công khai và cho phép các bên sao chụp theo đúng quy định. Căn cứ khoản 1 và 2 Điều 92 BLTTDS 2015 thì đây là chứng cứ không cần phải chứng minh trong vụ án. Như vậy, tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cấp sơ thẩm chưa bổ sung ông Lê vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để lấy lời khai và làm rõ việc ông Lê có tham gia phiên họp HĐQT công ty hay không và lấy lý do này để hủy bản án sơ thẩm là thiếu căn cứ, vì ông Lê là người đại diện phần vốn của Ngân hàng SHB trong công ty chứ không phải là chủ sở hữu phần vốn của công ty nên ông Lê không thể tham gia vụ án một cách độc lập được.

Ngoài ra, với đặc điểm của công ty đối vốn và tách bạch giữa phần tài sản của CTCP với cổ đông, nhiều trường hợp trong vụ án, cổ đông đồng thời nắm giữ chức vụ trong công ty khi tham gia tranh chấp trong CTCP thì tùy từng trường hợp, Tòa án ngoài việc xác định họ tham gia với tư cách đại diện cho công ty tham gia trong vụ án thì cổ đông còn được xác định tham gia với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nhiều vụ án tranh chấp giữa các thành viên công ty, Tòa án cho rằng thành viên công ty đã tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật như giám đốc, chủ tịch HĐQT của doanh nghiệp hoặc là người đại diện theo ủy quyền nên không cần thiết đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại khoản 4 Điều 68 và Điều 73 BLTTDS năm 2015 nữa là không đầy đủ, không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ và đồng thời không giải quyết toàn diện, triệt để vụ án. Chẳng hạn, vụ án “Tranh chấp thành viên công ty với công ty”, giữa nguyên đơn là ông Lưu Doãn Th với bị đơn là Công ty T do ông Đinh Ngọc T là người đại diện theo pháp luật. Đồng thời, ông Đinh Ngọc T cũng là thành viên Công ty, đã góp vốn với tỷ lệ 50% cổ phần, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không đưa cá nhân ông T tham gia tố tụng với tư cách người có quyền và nghĩa vụ liên quan là vi phạm khoản 4 Điều 68 BLTTDS năm 2015. Đây là một trong những căn cứ mà bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị hủy tại Quyết định giám đốc thẩm số 05/2019/KDTM-GĐT ngày 03/4/2019 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao.

Xác định thiếu tư cách người tham gia tố tụng khi giải quyết tranh chấp trong CTCP bằng Tòa án còn xảy ra trong trường hợp giải quyết các tranh chấp trong CTCP giữa công ty và NQLCT liên quan đến thiệt hại cho công ty trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 153 LDN 2020, nghị quyết, quyết định do HĐQT thông qua trái với quy định của pháp luật, nghị quyết ĐHĐCĐ, ĐLCT gây thiệt hại cho công ty thì các thành viên tán thành thông qua phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân và đền bù thiệt hại cho công ty. Như vậy, trường hợp các giao dịch, hợp đồng do NQLCT thực hiện trên cơ sở tán thành của HĐQT nhưng trái với pháp luật, nghị quyết ĐHĐCĐ, ĐLCT và gây thiệt hại cho công ty thì những thành viên HĐQT tán thành phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho công ty. Tuy nhiên, nhiều vụ án công ty yêu cầu NQLCT bồi thường do ký kết các hợp đồng, giao dịch gây thiệt hại cho công ty nhưng không đưa các thành viên HĐQT vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên dẫn đến việc bản án của tòa án các cấp bị hủy. Chẳng hạn, vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty”, CTCP ô tô 3/2 yêu cầu ông Bùi Quốc Luyến bồi thường thiệt hại do việc ký kết các hợp đồng gây thiệt hại cho công ty trong quá trình ông Bùi Quốc Luyến làm giám đốc công ty. Các hợp đồng do phía công ty yêu cầu bồi thường đều đã được HĐQT công ty khóa cũ thông qua và giao cho ông Bùi Quốc Luyến thực hiện. Tuy nhiên, quá trình xét xử vụ án tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm, tòa án các cấp đã không đưa các thành viên HĐQT nhiệm kỳ trước vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để xem xét trách nhiệm của các thành viên trong việc quyết định gây thiệt hại cho công ty là không đúng với quy định tại khoản 4 Điều 108 LDN 2005, khoản 4 Điều 68 và Điều 73 BLTTDS. Đây là một trong những căn cứ mà bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị hủy theo Quyết định giám đốc thẩm số 28/2017/KDTM-GĐT ngày 13/12/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao [121, tr.406-412]. (Phụ lục số 01, Bản án số 09/2015/KDTM-PT ngày 19/3/2015 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng).

Theo: Nguyễn Hữu Hưng

Link luận án: 

https://docs.google.com/document/d/1ZV5qhVpXSpmoBguYCsZHv0FJMTX2QkKr/edit?rtpof=true

avatar
Đặng Quỳnh
885 ngày trước
NHỮNG VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP CÔNG TY CỔ PHẦN TẠI TÒA ÁN
 1.1.  Vướng mắc, bất cập trong xác định người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ ánXác định tư cách đương sự tham gia tố tụng trong vụ án dân sự nói chung và trong giải quyết tranh chấp trong CTCP là nhiệm vụ của Tòa án trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án. Điểm b khoản 2 Điều 203 BLTTDS quy định “trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, thẩm phán thực hiện “xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác”. Như vậy, tư cách đương sự tham gia tố tụng gồm nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ được xác định sau khi tòa án thụ lý vụ án và là trách nhiệm của Tòa án, là hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền của thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Việc xác định đúng và đầy đủ đương sự tham gia tố tụng có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung và tố tụng, bởi lẽ mỗi đương sự tham gia vụ án với quyền và nghĩa vụ khác nhau, có vị thế, vai trò khác nhau [60, tr. 156]. Việc xác định sai hoặc bỏ sót tư cách đương sự tham gia tố tụng sẽ dẫn đến ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong vụ án và dẫn đến quyết định, bản án của tòa án có thể bị hủy bởi cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm. Đối với tranh chấp trong CTCP, sự tách biệt về tư cách tham gia tố tụng trong vụ án giữa công ty, cổ đông và NQLCT thường dẫn đến việc xác định sai hoặc bỏ sót người tham gia tố tụng trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án. Đây cũng là sai sót phổ biến của Tòa án các cấp dẫn đến việc bị hủy án .Xác định sai tư cách người tham gia tố tụng khi giải quyết tranh chấp trong CTCP bằng Tòa án trong thực tiễn thường xảy ra đối với trường hợp Tòa án xác định tư cách người tham gia tố tụng trên cơ sở đơn khởi kiện chứ không đánh giá toàn diện quan hệ pháp luật tranh chấp. Cơ sở pháp lý của việc xác định tư cách đương sự theo đơn khởi kiện là khái niệm bị đơn được quy định tại khoản 3 Điều 68 BLTTDS, và quyền tự định đoạt của đương sự tại khoản 1 Điều 5 BLTTDS. Theo đó, người khởi kiện có quyền xác định việc khởi kiện ai, khởi kiện vấn đề gì và Tòa án căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện để xác định nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Tuy nhiên, nếu người khởi kiện không am hiểu pháp luật thì họ sẽ xác định không đúng quan hệ pháp luật và dẫn đến xác định sai người bị kiện, tức là người khởi kiện giả thiết không đúng về người có nghĩa vụ với mình . Điều này mặc dù không sai về tố tụng nhưng khiến cho người bị kiện phải gánh chịu phí tổn về thời gian, chi phí cho việc khởi kiện nhưng không thu được kết quả và phải bắt đầu vòng tố tụng mới (nếu tiếp tục khởi kiện đúng đối tượng). Cũng có quan điểm cho rằng Tòa án cần xác định tư cách đương sự tham gia tố tụng trên cơ sở xem xét toàn diện quan hệ pháp luật tranh chấp và hướng dẫn người khởi kiện thay đổi Đơn khởi kiện từ ban đầu. Quan điểm này cũng là đường lối của TANDTC về xác định tư cách đương sự thì “địa vị tố tụng của mỗi đương sự trong một vụ kiện phản ánh quan hệ giữa các đương sự với nhau trong một quan hệ pháp luật nhất định nào đó: người có quyền lợi bị xâm phạm ra trước Tòa án với tư cách nguyên đơn và người có ngh a vụ liên quan hoặc phải chịu trách nhiệm tham gia vụ kiện ở vị trí bị đơn” [27]. Tuy nhiên, trường hợp Tòa án yêu cầu đương sự thay đổi đơn khởi kiện để xác định lại tư cách tham gia tố tụng cho phù hợp nhưng người khởi kiện không đồng ý thì cũng phải tôn trọng quyền tự định đoạt của họ.Trong vụ án ông Lê Chí S khởi kiện các đồng bị đơn bao gồm: ông Hồng Chánh C; ông Phạm Đình T và ông Trần Hoài T1, ông S xác định yêu cầu tranh chấp của ông là tranh chấp dân sự về quyền sở hữu tài sản theo khoản 2 Điều 25 BLTTDS và buộc ông C, ông T và ông T1 là 03 cổ đông còn lại trong CTCP K phải hoàn trả cho ông 1.903.147.023đ tương đương 33% tỷ lệ cổ phần góp vốn của ông vào Công ty K, cụ thể mỗi người phải trả cho ông 634.382.241đ tương ứng tỷ lệ 11% nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của ông trong CTCP K. Tuy nhiên, Tòa án các cấp đã xác định, mặc dù ông S cho rằng ông khởi kiện cá nhân 03 bị đơn chứ không phải khởi kiện tranh chấp thành viên công ty, nhưng thông qua các đơn khởi kiện, lời trình bày của ông S và tại phiên tòa ông vẫn yêu cầu 03 bị đơn phải trả lại cho ông 1.903.147.023đ tương đương 33% cổ phần trong Công ty K nên về bản chất là tranh chấp giữa các thành viên công ty. Đồng thời, Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông buộc các cổ đông phải hoàn trả cho ông S số tiền tương đương với 33% cổ phần của ông tại Công ty K. Việc ông S xác định tranh chấp của ông là đòi tài sản đã dẫn đến xác định sai tư cách tham gia tố tụng của bị đơn. Ở đây, trong trường hợp ông S có ý định rút vốn góp khỏi công ty thì nếu ông S yêu cầu công ty mua lại cổ phần tương ứng thì xác định công ty là người bị kiện trong việc yêu cầu mua lại cổ phần của cổ đông hoặc nếu ông S chuyển nhượng cổ phần cho người khác thì khi có tranh chấp sẽ xác định người bị kiện và quan hệ pháp luật tương ứng (Phụ lục 01, Bản án số: 27/2018/KDTM-PT Ngày: 16/ 7/2018 V/v: “Tranh chấp giữa các thành viên trong công ty” giữa nguyên đơn: Ông Lê Chí S và bị đơn gồm các ông: Hồng Chánh C, Phạm Đình T, Trần Hoài T1).Ngoài ra, sai sót từ việc xác định thiếu người tham gia tố tụng trong vụ án còn xuất phát từ việc thiếu hiểu biết pháp luật và thiếu thiện chí từ phía các đương sự. Nhiều trường hợp tài sản và quan hệ tranh chấp liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người thứ ba nhưng các đương sự không trình báo dẫn đến Tòa án không có căn cứ đưa người thứ ba vào tham gia tố tụng. Chẳng hạn: trong vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phiếu giữa nguyên đơn là ông Lý Quốc Hoàng và bị đơn ông Giang Tuấn Long (Quyết định Giám đốc thẩm số 18/2010/KDTM-GĐT ngày 08/12/2010 của Hội đồng thẩm phán TANDTC về vụ án “Tranh chấp hợp đồng mua bán cổ phiếu”),[113, tr. 163- 174] HĐXX Giám đốc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm và phúc thẩm do vi phạm về thủ tục tố tụng với nhận định: căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì trong suốt quá trình giải quyết vụ án, ông Giang Tuấn Long, Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng và Ngân hàng CP ngoại thương Việt Nam không thông báo cho Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm biết việc Sổ chứng nhận sở hữu cổ phần của ông Long đang bị cầm cố tại các Ngân hàng trên nên tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không có căn cứ để đưa Ngân hàng vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đối với số cổ phiếu đang cầm cố nêu trên không thể thi hành được nếu ông Long không thanh toán được nợ cho các ngân hàng và tài sản cầm cố không được ngân hàng giải chấp.Quan điểm xác định tư cách đương sự tham gia tố tụng giữa từng cấp xét xử khác nhau cũng là vấn đề gây tranh cãi trong hệ thống Tòa án. Có nhiều trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng không cần thiết đưa một cá nhân, tổ chức vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng cấp phúc thẩm lại có quan điểm trái ngược nên dẫn đến hủy án sơ thẩm để giải quyết lại. Hệ quả của việc xác định tư cách đương sự không đúng là bản án sơ thẩm sẽ bị cấp phúc thẩm hủy hoặc bản án sơ thẩm hoặc phúc thẩm sẽ bị quyết định giám đốc thẩm hủy do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án. Trong vụ án yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng cổ phần vô hiệu giữa nguyên đơn Ngân hàng SHB và bị đơn: Ông Lê Tấn Hòa đối với cổ phần công ty Lilama – SHB (Phụ lục 01, Bản án số 17/2019/KDTM-PT ngày 08/11/2019 của TANDCC tại Đà Nẵng và Bản án số 03/2019/KDTM-ST ngày 22/5/2019 của TAND tp. Đà Nẵng, Bản án KDTM sơ thẩm số 16/2017/KDTM-ST ngày 26/9/2017 của TAND thành phố Đà Nẵng), ông Nguyễn Văn Lê là người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng và đã có người đại diện ủy quyền tham gia vụ án. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cần đưa ông Lê vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để lấy lời khai của ông vì ông Lê là đại diện cho phần vốn góp của Ngân hàng và tham gia vào cuộc họp HĐQT của công ty Lilama-SHB, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa vào vì tại thời điểm Ngân hàng khởi kiện, ông Nguyễn Văn Lê là người đại diện theo pháp luật của Ngân hàng SHB tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn trong vụ án này. Mặc dù ông Lê đã ủy quyền cho đại diện theo ủy quyền của ngân hàng tham gia tố tụng nhưng điều đó không làm mất đi tư cách đại diện theo pháp luật tham gia tố tụng của ông trong vụ án này. Trong suốt quá trình tham gia giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền do của ông cũng không có bất kỳ ý kiến gì đối với việc có mặt hay không có mặt ông Lê trong cuộc họp này. Tất cả các chứng cứ các bên giao nộp đều được Tòa án cấp sơ thẩm công khai và cho phép các bên sao chụp theo đúng quy định. Căn cứ khoản 1 và 2 Điều 92 BLTTDS 2015 thì đây là chứng cứ không cần phải chứng minh trong vụ án. Như vậy, tòa án cấp phúc thẩm cho rằng cấp sơ thẩm chưa bổ sung ông Lê vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để lấy lời khai và làm rõ việc ông Lê có tham gia phiên họp HĐQT công ty hay không và lấy lý do này để hủy bản án sơ thẩm là thiếu căn cứ, vì ông Lê là người đại diện phần vốn của Ngân hàng SHB trong công ty chứ không phải là chủ sở hữu phần vốn của công ty nên ông Lê không thể tham gia vụ án một cách độc lập được.Ngoài ra, với đặc điểm của công ty đối vốn và tách bạch giữa phần tài sản của CTCP với cổ đông, nhiều trường hợp trong vụ án, cổ đông đồng thời nắm giữ chức vụ trong công ty khi tham gia tranh chấp trong CTCP thì tùy từng trường hợp, Tòa án ngoài việc xác định họ tham gia với tư cách đại diện cho công ty tham gia trong vụ án thì cổ đông còn được xác định tham gia với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nhiều vụ án tranh chấp giữa các thành viên công ty, Tòa án cho rằng thành viên công ty đã tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo pháp luật như giám đốc, chủ tịch HĐQT của doanh nghiệp hoặc là người đại diện theo ủy quyền nên không cần thiết đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại khoản 4 Điều 68 và Điều 73 BLTTDS năm 2015 nữa là không đầy đủ, không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ và đồng thời không giải quyết toàn diện, triệt để vụ án. Chẳng hạn, vụ án “Tranh chấp thành viên công ty với công ty”, giữa nguyên đơn là ông Lưu Doãn Th với bị đơn là Công ty T do ông Đinh Ngọc T là người đại diện theo pháp luật. Đồng thời, ông Đinh Ngọc T cũng là thành viên Công ty, đã góp vốn với tỷ lệ 50% cổ phần, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không đưa cá nhân ông T tham gia tố tụng với tư cách người có quyền và nghĩa vụ liên quan là vi phạm khoản 4 Điều 68 BLTTDS năm 2015. Đây là một trong những căn cứ mà bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị hủy tại Quyết định giám đốc thẩm số 05/2019/KDTM-GĐT ngày 03/4/2019 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao.Xác định thiếu tư cách người tham gia tố tụng khi giải quyết tranh chấp trong CTCP bằng Tòa án còn xảy ra trong trường hợp giải quyết các tranh chấp trong CTCP giữa công ty và NQLCT liên quan đến thiệt hại cho công ty trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 153 LDN 2020, nghị quyết, quyết định do HĐQT thông qua trái với quy định của pháp luật, nghị quyết ĐHĐCĐ, ĐLCT gây thiệt hại cho công ty thì các thành viên tán thành thông qua phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân và đền bù thiệt hại cho công ty. Như vậy, trường hợp các giao dịch, hợp đồng do NQLCT thực hiện trên cơ sở tán thành của HĐQT nhưng trái với pháp luật, nghị quyết ĐHĐCĐ, ĐLCT và gây thiệt hại cho công ty thì những thành viên HĐQT tán thành phải liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho công ty. Tuy nhiên, nhiều vụ án công ty yêu cầu NQLCT bồi thường do ký kết các hợp đồng, giao dịch gây thiệt hại cho công ty nhưng không đưa các thành viên HĐQT vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên dẫn đến việc bản án của tòa án các cấp bị hủy. Chẳng hạn, vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản và tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty”, CTCP ô tô 3/2 yêu cầu ông Bùi Quốc Luyến bồi thường thiệt hại do việc ký kết các hợp đồng gây thiệt hại cho công ty trong quá trình ông Bùi Quốc Luyến làm giám đốc công ty. Các hợp đồng do phía công ty yêu cầu bồi thường đều đã được HĐQT công ty khóa cũ thông qua và giao cho ông Bùi Quốc Luyến thực hiện. Tuy nhiên, quá trình xét xử vụ án tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm, tòa án các cấp đã không đưa các thành viên HĐQT nhiệm kỳ trước vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để xem xét trách nhiệm của các thành viên trong việc quyết định gây thiệt hại cho công ty là không đúng với quy định tại khoản 4 Điều 108 LDN 2005, khoản 4 Điều 68 và Điều 73 BLTTDS. Đây là một trong những căn cứ mà bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị hủy theo Quyết định giám đốc thẩm số 28/2017/KDTM-GĐT ngày 13/12/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao [121, tr.406-412]. (Phụ lục số 01, Bản án số 09/2015/KDTM-PT ngày 19/3/2015 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng).Theo: Nguyễn Hữu HưngLink luận án: https://docs.google.com/document/d/1ZV5qhVpXSpmoBguYCsZHv0FJMTX2QkKr/edit?rtpof=true