0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64b2c63e0ec6b-MỘT-SỐ-LÝ-THUYẾT-NGHIÊN-CỨU-VỀ-TUÂN-THỦ-THUẾ.jpg.webp

MỘT SỐ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU VỀ TUÂN THỦ THUẾ

2.1.1.  Một số lý thuyết nghiên cứu về tuân thủ thuế

2.1.1.1.   Lý thuyết thông tin bất cân xứng

Vấn đề thông tin bất cân xứng lần đầu tiên được đề cập trong một bài báo kinh điển xuất bản vào năm 1978 của nhà kinh tế học người Mỹ George Akerlof: “The Market of Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism”. Trong nghiên cứu của mình, ông cho rằng người bán với nhiều thông tin về sản phẩm của mình thì không sẵn lòng bán sản phẩm cho người mua thiếu thông tin về sản phẩm đó. Còn người mua lại cho rằng, nếu người bán sẵn lòng bán ngay sản phẩm của họ với giá mà người mua đưa ra, điều đó nghĩa là giá mua đó đã cao hơn giá trị của sản phẩm. Vấn đề thông tin bất cân xứng đã dẫn đến giá cả của sản phẩm trên thị trường bị đánh giá thấp khi người mua và người bán không có cùng mức độ thông tin.

Thông tin bất cân xứng được hiểu là hiện tượng xảy ra khi một trong các bên giao dịch không biết tất cả và chính xác những thông tin cần biết về bên kia để đưa ra quyết định đúng đắn trong giao dịch. Đối với các quốc gia, tính minh bạch của thông tin trên thị trường, khả năng tiếp cận thông tin và cơ sở hạ tầng thông tin yếu kém thì thông tin bất cân xứng càng phổ biến và càng trở nên trầm trọng hơn.

Bất cân xứng về thông tin có ba đặc điểm cơ bản sau: (1) có sự khác biệt về thông tin giữa các bên giao dịch; (2) có nhiều trở ngại trong việc chuyển thông tin giữa các bên; (3) trong hai bên có một bên có thông tin chính xác hơn.

Tác động của thông tin bất cân xứng: sự xuất hiện của thông tin bất cân xứng là yếu tố quan trọng kìm hãm giao dịch. Thông tin bất cân xứng dẫn tới hai rủi ro chính trên thị trường là chọn lựa đối nghịch và rủi ro đạo đức. Chọn lựa đối nghịch là hậu quả của vấn đề thông tin bất cân xứng, được tạo ra khi diễn ra cuộc giao dịch và nguy cơ lựa chọn đối nghịch tỉ lệ thuận với mức độ bất cân xứng thông tin. Rủi ro đạo đức là hậu quả của thông tin bất cân xứng với đặc điểm: xuất hiện những hoạt động không tích cực (thiếu đạo đức) và các hoạt động trên làm tăng xác suất xảy ra hậu quả xấu.

Giải pháp cho vấn đề thông tin bất cân xứng:

- Tự sản xuất và bán thông tin;

- Tăng cường sự điều hành của chính phủ để tăng thông tin;

- Tăng cường vai trò của các trung gian tài chính để tăng chất lượng thông tin;

- Thực hiện cơ chế tự sàng lọc thông tin.

2.1.1.2.   Lý thuyết người đại diện

Lý thuyết người đại diện giải thích mối quan hệ bản chất giữa ông chủ, người đại diện và bên thứ ba. Jackson và Milliron (1986a) cho rằng có mối quan hệ đặc biệt với các nghiên cứu về tuân thủ thuế và khẳng định vai trò của người kê khai thuế chính là đại diện cho NNT. Nhiều nghiên cứu đã cố gắng đánh giá việc người kê khai thuế có tác động thế nào đến việc tuân thủ của NNT với các luật thuế. Phần lớn các nghiên cứu về tuân thủ thuế đều cho rằng, người quản lý DN là đại diện cho các cổ đông luôn được khuyến khích các biện pháp để tối đa hóa lợi ích của DN. Friedman (1970) cho rằng DN phải có trách nhiệm tuân thủ pháp luật tuy nhiên nhiệm vụ trung tâm của người đại diện DN làm ra lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Điều này thể hiện bản chất vì lợi nhuận “for profit” của DN. Bởi vậy, yếu tố kinh tế và lợi ích của DN sẽ là yếu tố then chốt để khiến cho người đại diện tuân thủ hay gian lận thuế. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, Weber (1978) cũng cho rằng hành vi của con người có những logic riêng và nhiều khi không chỉ là vì những lợi ích kinh tế.

2.1.1.3.   Mô hình các cấp độ tuân thủ thuế của Grabosky và Braithwaite

Theo mô hình này, tác giả Grabosky và Braithwaite (1986) đã tiến hành phân loại cấp độ hay mức độ tuân thủ của DN dựa trên mức độ sẵn sàng và khả năng thực hiện những nghĩa vụ thuế đúng của DN. Đây cũng chính là các cấp độ thể hiện mối quan hệ và thái độ của DN với cơ quan thuế, hay thể hiện mức độ chấp nhận hay từ chối các quy định của luật thuế, các kế hoạch và công cụ quản lý thu thuế. Để đánh giá sự tuân thủ thuế của DN thì biến số về cấp độ (mức độ) tuân thủ là biến số đầy đủ phản ánh rõ sự tuân thủ cả về tính tự nguyện, tính đầy đủ, tính kịp thời. 

Các mức độ tuân thủ thuế trong mô hình được giải thích như sau:

- Cam kết: DN cảm thấy thoải mái với hoạt động quản lý thuế, hợp tác với cơ quan thuế theo các kế hoạch quản lý thuế và tuân thủ một cách tích cực, thậm chí có thể thay mặt cơ quan thuế khuyến khích đối tượng khác tuân thủ.

- Chấp nhận hay hoà hợp: DN chấp nhận những yêu cầu quản lý thu thuế và tin tưởng vào cơ quan thuế.

- Miễn cưỡng hay kháng cự: đó là cách tiếp cận chống đối, DN có sự đối đầu, đối nghịch với cơ quan thuế.

- Từ chối: DN hoàn toàn tách ra khỏi sự quản lý của của cơ quan thuế.

NNT ở cấp độ thứ nhất hay thứ hai nói chung là tuân thủ trong khi ở nhóm đối tượng thứ ba và thứ tư thể hiện sự kháng cự và thù địch đối với nghĩa vụ thuế. Vì vây, tương ứng với 4 nhóm người này là 4 nguyên tắc xử lý khác nhau của cơ quan thuế. Cụ thể là:

  • Nếu hành vi của NNT là “cam kết” thì nguyên tắc xử lý của CQT là “tạo điều kiện thuận lợi nhất” để người nộp thuế tuân thủ.
  • Nếu hành vi của NNT là “chấp nhận” thì nguyên tắc xử lý của CQT là “hỗ trợ” để NNT tuân thủ.
  • Nếu hành vi của NNT là “miễn cưỡng” thì nguyên tắc xử lý của CQT là “Ngăn chặn thông qua các biện pháp phát hiện vi phạm” để NNT tuân thủ.
  • Nếu hành vi của người nộp thuế là “từ chối” thì nguyên tắc xử lý của CQT là “áp dụng toàn bộ quyền lực theo pháp luật” để buộc NNT tuân thủ.

Cách chỉ số đặc trưng cho từng cấp độ tuân thủ thuế của DN

Theo mô hình các cấp độ tuân thủ, sự tuân thủ thuế của DN thay đổi ở 4 cấp độ hay mức độ tuân thủ khác nhau. Sự tuân thủ thuế ở mỗi cấp độ được thể hiện qua các chỉ số nộp đủ, đúng thời gian và tự nguyện.

Theo: Mạc Thị Hải Yến

Link luận án: 

https://docs.google.com/document/d/1fmBNZ4Uftd2f6-kOmVl5w_bnuXetyeGC/edit

avatar
Đặng Quỳnh
882 ngày trước
MỘT SỐ LÝ THUYẾT NGHIÊN CỨU VỀ TUÂN THỦ THUẾ
2.1.1.  Một số lý thuyết nghiên cứu về tuân thủ thuế2.1.1.1.   Lý thuyết thông tin bất cân xứngVấn đề thông tin bất cân xứng lần đầu tiên được đề cập trong một bài báo kinh điển xuất bản vào năm 1978 của nhà kinh tế học người Mỹ George Akerlof: “The Market of Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism”. Trong nghiên cứu của mình, ông cho rằng người bán với nhiều thông tin về sản phẩm của mình thì không sẵn lòng bán sản phẩm cho người mua thiếu thông tin về sản phẩm đó. Còn người mua lại cho rằng, nếu người bán sẵn lòng bán ngay sản phẩm của họ với giá mà người mua đưa ra, điều đó nghĩa là giá mua đó đã cao hơn giá trị của sản phẩm. Vấn đề thông tin bất cân xứng đã dẫn đến giá cả của sản phẩm trên thị trường bị đánh giá thấp khi người mua và người bán không có cùng mức độ thông tin.Thông tin bất cân xứng được hiểu là hiện tượng xảy ra khi một trong các bên giao dịch không biết tất cả và chính xác những thông tin cần biết về bên kia để đưa ra quyết định đúng đắn trong giao dịch. Đối với các quốc gia, tính minh bạch của thông tin trên thị trường, khả năng tiếp cận thông tin và cơ sở hạ tầng thông tin yếu kém thì thông tin bất cân xứng càng phổ biến và càng trở nên trầm trọng hơn.Bất cân xứng về thông tin có ba đặc điểm cơ bản sau: (1) có sự khác biệt về thông tin giữa các bên giao dịch; (2) có nhiều trở ngại trong việc chuyển thông tin giữa các bên; (3) trong hai bên có một bên có thông tin chính xác hơn.Tác động của thông tin bất cân xứng: sự xuất hiện của thông tin bất cân xứng là yếu tố quan trọng kìm hãm giao dịch. Thông tin bất cân xứng dẫn tới hai rủi ro chính trên thị trường là chọn lựa đối nghịch và rủi ro đạo đức. Chọn lựa đối nghịch là hậu quả của vấn đề thông tin bất cân xứng, được tạo ra khi diễn ra cuộc giao dịch và nguy cơ lựa chọn đối nghịch tỉ lệ thuận với mức độ bất cân xứng thông tin. Rủi ro đạo đức là hậu quả của thông tin bất cân xứng với đặc điểm: xuất hiện những hoạt động không tích cực (thiếu đạo đức) và các hoạt động trên làm tăng xác suất xảy ra hậu quả xấu.Giải pháp cho vấn đề thông tin bất cân xứng:- Tự sản xuất và bán thông tin;- Tăng cường sự điều hành của chính phủ để tăng thông tin;- Tăng cường vai trò của các trung gian tài chính để tăng chất lượng thông tin;- Thực hiện cơ chế tự sàng lọc thông tin.2.1.1.2.   Lý thuyết người đại diệnLý thuyết người đại diện giải thích mối quan hệ bản chất giữa ông chủ, người đại diện và bên thứ ba. Jackson và Milliron (1986a) cho rằng có mối quan hệ đặc biệt với các nghiên cứu về tuân thủ thuế và khẳng định vai trò của người kê khai thuế chính là đại diện cho NNT. Nhiều nghiên cứu đã cố gắng đánh giá việc người kê khai thuế có tác động thế nào đến việc tuân thủ của NNT với các luật thuế. Phần lớn các nghiên cứu về tuân thủ thuế đều cho rằng, người quản lý DN là đại diện cho các cổ đông luôn được khuyến khích các biện pháp để tối đa hóa lợi ích của DN. Friedman (1970) cho rằng DN phải có trách nhiệm tuân thủ pháp luật tuy nhiên nhiệm vụ trung tâm của người đại diện DN làm ra lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Điều này thể hiện bản chất vì lợi nhuận “for profit” của DN. Bởi vậy, yếu tố kinh tế và lợi ích của DN sẽ là yếu tố then chốt để khiến cho người đại diện tuân thủ hay gian lận thuế. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, Weber (1978) cũng cho rằng hành vi của con người có những logic riêng và nhiều khi không chỉ là vì những lợi ích kinh tế.2.1.1.3.   Mô hình các cấp độ tuân thủ thuế của Grabosky và BraithwaiteTheo mô hình này, tác giả Grabosky và Braithwaite (1986) đã tiến hành phân loại cấp độ hay mức độ tuân thủ của DN dựa trên mức độ sẵn sàng và khả năng thực hiện những nghĩa vụ thuế đúng của DN. Đây cũng chính là các cấp độ thể hiện mối quan hệ và thái độ của DN với cơ quan thuế, hay thể hiện mức độ chấp nhận hay từ chối các quy định của luật thuế, các kế hoạch và công cụ quản lý thu thuế. Để đánh giá sự tuân thủ thuế của DN thì biến số về cấp độ (mức độ) tuân thủ là biến số đầy đủ phản ánh rõ sự tuân thủ cả về tính tự nguyện, tính đầy đủ, tính kịp thời. Các mức độ tuân thủ thuế trong mô hình được giải thích như sau:- Cam kết: DN cảm thấy thoải mái với hoạt động quản lý thuế, hợp tác với cơ quan thuế theo các kế hoạch quản lý thuế và tuân thủ một cách tích cực, thậm chí có thể thay mặt cơ quan thuế khuyến khích đối tượng khác tuân thủ.- Chấp nhận hay hoà hợp: DN chấp nhận những yêu cầu quản lý thu thuế và tin tưởng vào cơ quan thuế.- Miễn cưỡng hay kháng cự: đó là cách tiếp cận chống đối, DN có sự đối đầu, đối nghịch với cơ quan thuế.- Từ chối: DN hoàn toàn tách ra khỏi sự quản lý của của cơ quan thuế.NNT ở cấp độ thứ nhất hay thứ hai nói chung là tuân thủ trong khi ở nhóm đối tượng thứ ba và thứ tư thể hiện sự kháng cự và thù địch đối với nghĩa vụ thuế. Vì vây, tương ứng với 4 nhóm người này là 4 nguyên tắc xử lý khác nhau của cơ quan thuế. Cụ thể là:Nếu hành vi của NNT là “cam kết” thì nguyên tắc xử lý của CQT là “tạo điều kiện thuận lợi nhất” để người nộp thuế tuân thủ.Nếu hành vi của NNT là “chấp nhận” thì nguyên tắc xử lý của CQT là “hỗ trợ” để NNT tuân thủ.Nếu hành vi của NNT là “miễn cưỡng” thì nguyên tắc xử lý của CQT là “Ngăn chặn thông qua các biện pháp phát hiện vi phạm” để NNT tuân thủ.Nếu hành vi của người nộp thuế là “từ chối” thì nguyên tắc xử lý của CQT là “áp dụng toàn bộ quyền lực theo pháp luật” để buộc NNT tuân thủ.Cách chỉ số đặc trưng cho từng cấp độ tuân thủ thuế của DNTheo mô hình các cấp độ tuân thủ, sự tuân thủ thuế của DN thay đổi ở 4 cấp độ hay mức độ tuân thủ khác nhau. Sự tuân thủ thuế ở mỗi cấp độ được thể hiện qua các chỉ số nộp đủ, đúng thời gian và tự nguyện.Theo: Mạc Thị Hải YếnLink luận án: https://docs.google.com/document/d/1fmBNZ4Uftd2f6-kOmVl5w_bnuXetyeGC/edit