THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ TÀI SẢN PHÁ SẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Sơ lược tình hình phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
Luật Phá sản năm 2014 được ra đời đã tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết vụ việc phá sản nhanh hơn, chính xác hơn, từng bước thể hiện vai trò là một trong những công cụ pháp lý quan trọng tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, qua gần 07 năm triển khai thực thi, việc giải quyết các vụ án phá sản trong thực tiễn đã bộc lộ vướng mắc, trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động quản lý tài sản phá sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
So với số doanh nghiệp chấm dứt hoạt động trên thực tế thì số vụ việc được giải quyết thông qua thủ tục phá sản là khá ít. Theo Sách trắng Việt Nam năm 2020, bình quân giai đoạn 2016-2019, mỗi năm có khoảng 24.365 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có đăng ký. Năm 2019, con số này là 28.731 doanh nghiệp. Năm 2019 có khoảng 43.711 doanh nghiệp chờ giải thể và 16.840 doanh nghiệp đã hoàn thành thủ tục giải thể. Số lượng doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, không tìm thấy, không liên lạc được trong năm 2019 là 46.841 doanh nghiệp. Sang năm 2020, cũng theo Sách trắng Việt Nam năm 2020, số lượng doanh nghiệp tạm dừng kinh doanh có đăng ký là
46.592 doanh nghiệp (tăng 62,2% so với năm 2019) và số doanh nghiệp giải thể là 17.464 doanh nghiệp. Như vậy, có thể thấy, một số lượng rất lớn các doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh và không hoạt động đã được thống kê, tuy nhiên, lại rất ít các doanh nghiệp tuyên bố tình trạng phá sản hay giải quyết các quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan bằng thủ tục phá sản.
Theo Ngân hàng Thế giới, Chỉ số giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam là một chỉ số không có nhiều sự cải thiện, thậm chí đi xuống. Cụ thể biểu hiện ở sơ đồ sau:
Theo Doing Business 2020, chỉ số giải quyết phá sản Việt Nam đạt 38 điểm. Mặc dù chỉ số phá sản tăng được 11 bậc so với năm 2019 nhưng chỉ số này của Việt Nam vẫn đứng thấp nhất thế giới (122/190 nền kinh tế) với thời gian trung bình để giải quyết 1 vụ phá sản là 5 năm. Tỷ lệ thu hồi nợ chỉ đạt 21,3%; chi phí giải quyết phá sản doanh nghiệp lên tới 14,5%; kết quả giải quyết phá sản chỉ đạt 0 điểm do hầu hết các trường hợp đều bị tuyên bố phá sản và phải thanh lý, không phục hồi được; chất lượng của khuôn khổ pháp lý về phá sản doanh nghiệp chỉ đạt 8,5/16 điểm.
Về số lượng quản tài viên/doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản, Báo cáo tổng kết thi hành Luật Phá sản của Bộ Tư pháp cho biết, tính đến tháng 4/2020, cả nước có 277 quản tài viên hành nghề với tư cách cá nhân; hơn 40 doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đang hoạt động. Nếu so sánh số lượng này trên tổng số dân cư thì là một tỷ lệ thấp, tuy nhiên nếu so sánh với tổng số vụ việc được mở thủ tục phá sản thì tỷ lệ lại xấp xỉ 1:1. Tỷ lệ này lớn là do số lượng vụ việc mở thủ tục phá sản ở Việt Nam hiện nay là quá thấp so với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động hoặc không hoạt động nhưng không có bất kỳ một thủ tục pháp lý nào chấm dứt tư cách pháp lý của doanh nghiệp.
Thực tiễn thi hành Luật Phá sản 2014 trong những năm qua cho thấy, để xử lý vụ việc phá sản, Toà án Nhân dân các tỉnh đã gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình xử lý các vụ việc phá sản. Các nguyên nhân chính dẫn đến chưa giải quyết vụ việc thụ lý là do đương sự không hợp tác, hoặc không có khả năng nộp phí mời quản tài viên, hoặc người yêu cầu không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ cần thiết để giải quyết vụ việc như hồ sơ doanh nghiệp, các chứng từ, báo cáo tài chính công nợ…Hơn nữa, các loại vụ việc phá sản chiếm tỷ lệ nhỏ trong các tranh chấp về kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, hầu hết các vụ việc phá sản mang tính chất rất phức tạp, bao gồm nhiều quan hệ pháp luật như các loại hợp đồng tín dụng, thế chấp, gia công, mua bán… cho đến quan hệ về tiền lương, bảo hiểm, thuế… có những hồ sơ vụ việc phá sản phải giải quyết hàng trăm hồ sơ tín dụng, có hàng trăm chủ nợ, người mắc nợ…với thời gian giải quyết kéo dài nhiều năm. Vì vậy đòi hỏi Thẩm phán không những phải nắm vững kiến thức về Luật Phá sản mà còn phải nắm vững kiến thức của các lĩnh vực liên quan. Điều này khiến cho các vụ việc thường phải bị kéo dài, gặp nhiều khó khăn, các Thẩm phán lại rất ngại khi phải tiếp xúc xử lý các vụ phá sản. Một phần xuất phát từ việc các quy định của Luật Phá sản 2014 chưa rõ ràng, chưa đầy đủ, mặt khác cũng do thiếu cơ chế đồng bộ, khả thi để các quy định của luật có thể triển khai trong thực tiễn, trong đó có vấn đề quản lý tài sản phá sản của các doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
Theo: Nguyễn Tuấn Hải
Link luận án: Tại đây