0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64b950adc42ec-NHỮNG-VẤN-ĐỀ-LÝ-LUẬN-VỀ-PHÁP-LUẬT-GÓP-VỐN-BẰNG-QUYỀN-SỬ-DỤNG-ĐẤT-.jpg.webp

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

2.1. Khái quát về góp vốn bằng quyền sử dụng đất 

2.1.1.   Khái niệm, đặc trưng cơ bản của góp vốn bằng quyền sử dụng đất

2.1.1.1.   Khái niệm góp vốn bằng quyền sử dụng đất

Theo Từ điển Kinh tế học, vốn là “tổng thể nói chung những tài sản bỏ ra lúc đầu, thường biểu hiện bằng tiền, dùng trong sản xuất kinh doanh” Vốn có vị trí quan trọng trong nền kinh tế, vì thế các quốc gia trên thế giới đều có những biện pháp nhằm thu hút vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trƣờng, vốn đƣợc quan niệm là toàn bộ những giá trị ứng ra lúc ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. “Vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu trong quá trình sản xuất, kinh doanh” ..
Một trong những hình thức tích tụ tư bản, đó là góp vốn. Góp vốn theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp là: “Việc nhà đầu tư  tài sản dưới các hình thức khác nhau vào doanh nghiệp để trở thành chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu doanh nghiệp. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, kim loại quý, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật hoặc tài sản khác đƣợc pháp luật cho phép. Tài sản góp vốn bằng hiện vật hoặc quyền tài sản phải đƣợc định giá thành tiền. Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì ngƣời góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền” . Còn theo PGS.TS. Lê Thị Châu thì “góp vốn vào công ty là việc một cá nhân hay tổ chức chuyển dịch tài sản của mình (biểu hiện bằng vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá đƣợc bằng tiền hoặc các quyền về tài sản) theo một trình tự, thủ tục nhất định vào công ty và theo đó được hưởng các quyền và các nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn” . Do tầm quan trọng của góp vốn mà từ Luật Công ty năm 1990 đến Luật Doanh nghiệp năm 2014 đều đƣa ra khái niệm góp vốn. Theo khoản 4 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005: “Góp vốn là việc đƣa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ đƣợc tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong điều lệ công ty do các thành viên góp để tạo thành vốn của công ty” . Khoản 13 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã đƣợc thành lập”. “Tài sản góp vốn có thể là đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá đƣợc bằng đồng Việt Nam” (khoản 1 Điều 35 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Bản chất của góp vốn là đƣa tài sản vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Vì thế, hành vi góp vốn đƣợc xem xét trên cả hai phƣơng diện kinh tế và pháp lý.
Trên phương diện kinh tế, góp vốn là tạo ra tài sản cho doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khi góp vốn vào doanh nghiệp, tài sản đƣợc chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng từ thành viên góp vốn sang doanh nghiệp. Việc dịch chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản thông qua hợp đồng góp vốn, hợp đồng thành lập công ty. Bằng hành vi góp vốn, các thành viên đã tạo ra tài sản cho doanh nghiệp và đổi lại quyền lợi của mình trong doanh nghiệp. Những quyền lợi này đƣợc xác định theo quy định của pháp luật và điều lệ doanh nghiệp. Có thể thấy rằng, góp vốn là việc nhiều ngƣời cùng góp nguồn lực của mình để tạo nên nguồn lực chung lớn hơn nhằm thực hiện ý tƣởng kinh doanh.
Trên phương diện pháp lý, góp vốn là hành vi chuyển giao tài sản, nói cách khác là hành vi chuyển các quyền đối với tài sản là vốn góp để đổi lấy quyền lợi đối với doanh nghiệp. “Nghĩa vụ đối ứng giữa ngƣời góp vốn thành lập công ty và công ty khác với nghĩa vụ đối ứng giữa các bên trong quan hệ mua bán hay cho thuê ở chỗ quyền lợi mà người bỏ tiền ra nhận lại là một thứ đặc quyền đó là quyền sở hữu công ty” . Nếu căn cứ vào chủ thể của quyền sở hữu thì góp vốn có thể được thực hiện bằng quyền sở hữu tài sản hoặc quyền sử dụng tài sản. Nếu căn cứ vào tính chất của tài sản góp vốn thì góp vốn có thể đƣợc thực hiện bằng tiền, vật, quyền tài sản, bằng công nghệ, bí quyết, công việc… Nguyên tắc chung, mọi tài sản đều có thể đem góp vốn, tuy nhiên điều này còn lệ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng góp vốn, hợp đồng thành lập công ty. Việc phân loại góp vốn thành các hình thức khác nhau chủ yếu dựa vào đối tƣợng góp vốn. Có thể thấy, ngoài quy định chung thì mỗi hình thức góp vốn lại có quy chế pháp lý riêng, điều này xuất phát từ chính đối tƣợng góp vốn. Các hình thức góp vốn phổ biến hiện nay là góp vốn bằng tài sản (tiền, hiện vật, quyền tài sản), góp vốn bằng tri thức, góp vốn bằng công việc và các hình thức khác.
Đất đai có vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, là nơi diễn ra hoạt động sống, sản xuất, kinh doanh, là tƣ liệu sản xuất không thể thay thế, là tài sản có giá trị lớn. “Điều này đã làm cho việc phân bổ đất đai luôn là vấn đề hết sức quan trọng của mọi xã hội, bởi qua đó, nó quyết định lợi ích, sự công bằng đối với từng ngƣời dân và sự thành công hay thất bại của một chế độ chính trị. Do đó, vấn đề đất đai thuộc về ai, bao nhiêu luôn là vấn đề hết sức quan trọng”. Vì thế, sở hữu đất đai luôn là vấn đề hết sức phức tạp. “Đặc tính này xuất phát từ những đặc điểm khác biệt của đất đai so với tài sản khác, tài nguyên thiên nhiên khác”. Theo Điều 53 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc đại diện chủ sở hữu thống nhất quản lý. Tuy nhiên, Nhà nƣớc không trực tiếp sử dụng đất mà chuyển giao cho các chủ thể khác thông qua giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ. Khi sử dụng đất, ngoài quyền khai thác sử dụng đất, NSDĐ còn đƣợc chuyển QSDĐ. Có thể thấy, QSDĐ là chế định đặc thù của pháp luật Việt Nam, là phƣơng thức để duy trì chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai trong nền kinh tế thị trường. Quyền sử dụng tài sản là quyền khai thác công dụng, hƣởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Đất đai là bất động sản, ở góc độ quyền sử dụng tài sản thì QSDĐ là quyền khai thác công dụng, hƣởng hoa lợi, lợi tức từ đất đai. Trên phương diện này, QSDĐ là khái niệm pháp lý chỉ một trong những quyền của chủ sở hữu đất đai. Từ Hiến pháp năm 1992 cho đến nay, ngoài quyền khai thác, sử dụng đất thì quyền của NSDĐ ngày càng được mở rộng. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, ngoài những quyền chung, NSDĐ còn đƣợc thực hiện các giao dịch về QSDĐ (chuyển đổi, chuyển nhƣợng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, tặng cho, góp vốn) như những giao dịch về tài sản. Tuy nhiên, không phải tất cả chủ thể sử dụng đất đều có đầy đủ 8 quyền trên mà việc xác lập và thực hiện những quyền này phụ thuộc vào từng chủ thể sử dụng đất và nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nƣớc. Về bản chất, QSDĐ bao gồm một số quyền của chủ sở hữu đất đai chuyển giao cho NSDĐ. Tuy nhiên, Nhà nước không chuyển giao tất cả các quyền của chủ sở hữu cho NSDĐ mà chỉ chuyển giao một số quyền, trong đó có góp vốn. Khi nói về QSDĐ, ông Akiyama Yasuhiro chuyên gia pháp luật đến từ Nhật Bản cho rằng: “Trên nguyên t c đất đai được xem là sở hữu nhà nƣớc, nhƣng một phạm vi nhất định, người có QSDĐ lại có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất ấy, riêng về QSDĐ, nếu xem xét nội dung của nó, chúng ta thấy rằng quyền này bản chất rất gần với quyền sở hữu” . “QSDĐ là một quyền tài sản. Quyền tài sản này không chỉ dừng lại ở quyền khai thác những thuộc tính có ích của đất mà còn bao hàm cả quyền đƣợc giao dịch nó nhƣ giao dịch các loại tài sản hữu hình. Đây chính là yếu tố làm cho QSDĐ có điểm gần giống với quyền sở hữu đất đai. Việc thực hiện hành vi giao dịch QSDĐ của NSDĐ đƣợc pháp luật quy định hầu nhƣ “tƣơng đƣơng” hay gần gũi với quyền định đoạt của chủ sở hữu”. QSDĐ là một bộ phận của quyền sở hữu đất đai, phái sinh từ quyền sở hữu đất đai. Vì thế, dù NSDĐ có đƣợc thực hiện các giao dịch QSDĐ nhƣ đối tƣợng là tài sản thì các quyền này cũng bị hạn chế và chi phối bởi ý chí của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đất đai.
Trên phƣơng diện lý luận, khái niệm góp vốn bằng QSDĐ đã đƣợc đề cập trong một số công trình nghiên cứu. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý Bộ Tƣ pháp, góp vốn bằng QSDĐ là: “Sự thỏa thuận giữa các bên tuân theo điều kiện, nội dung, hình thức chuyển quyền sử dụng đất được Bộ luật Dân sự và pháp luật về đất đai quy định, theo đó, ngƣời sử dụng đất đƣợc quyền góp phần vốn của mình bằng quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh. Góp vốn bằng quyền sử dụng đất lần đầu tiên được quy định tại Luật Đất đai năm 1993 và tiếp đó Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và Luật Đất đai năm 2003. Các văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho phép ngƣời sử dụng đất góp vốn bằng quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật phù hợp với mục đích khi giao đất …” . Còn trong Giáo trình Luật Đất đai của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, TS. Trần Quang Huy cho rằng: “Góp vốn bằng QSDĐ đƣợc hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên; theo đó hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất hợp pháp, có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất để hợp tác, sản xuất, kinh doanh với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nƣớc hoặc ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài”. Với tư cách là một hình thức góp vốn, tác giả Hồng Vân cho rằng: “Góp vốn bằng QSDĐ là việc NSDĐ  tài sản thuộc quyền sử dụng của mình là QSDĐ đối với một diện tích nhất định để góp vốn thành lập công ty hoặc góp vốn vào doanh nghiệp đã được thành lập để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty”. Như vậy, khái niệm góp vốn bằng QSDĐ đã đƣợc đề cập trong một số công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, các định nghĩa góp vốn bằng QSDĐ trên mới chỉ đề cập đến những khía cạnh cụ thể của góp vốn bằng QSDĐ nhƣ chủ thể, đối tượng, hình thức mang tính liệt kê dựa trên pháp luật thực định. Cũng nhƣ các hình thức góp vốn khác, góp vốn bằng QSDĐ làm chấm dứt QSDĐ của bên góp vốn, đồng thời xác lập QSDĐ đối với bên nhận góp vốn thông qua hợp đồng góp vốn. Điều 727 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó ngƣời sử dụng đất (sau đây gọi là bên góp vốn) góp phần vốn của mình bằng giá trị quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh với cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”. Trên phương diện kinh tế, góp vốn bằng QSDĐ là hành vi của chủ sử dụng đất (bên góp vốn) tự nguyện chuyển giao QSDĐ và các lợi ích từ đất đai cho bên nhận góp vốn để đổi lấy quyền lợi đối với doanh nghiệp (góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn vào doanh nghiệp đã đƣợc thành lập) hay quyền lợi đối với bên nhận góp vốn (góp vốn bằng hình thức hợp tác kinh doanh). 

Theo: Sỹ Hồng Nam 
Link luận án: Tại đây
 

 

 

avatar
Đặng Quỳnh
877 ngày trước
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
2.1. Khái quát về góp vốn bằng quyền sử dụng đất 2.1.1.   Khái niệm, đặc trưng cơ bản của góp vốn bằng quyền sử dụng đất2.1.1.1.   Khái niệm góp vốn bằng quyền sử dụng đấtTheo Từ điển Kinh tế học, vốn là “tổng thể nói chung những tài sản bỏ ra lúc đầu, thường biểu hiện bằng tiền, dùng trong sản xuất kinh doanh” Vốn có vị trí quan trọng trong nền kinh tế, vì thế các quốc gia trên thế giới đều có những biện pháp nhằm thu hút vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trƣờng, vốn đƣợc quan niệm là toàn bộ những giá trị ứng ra lúc ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. “Vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới mọi khâu trong quá trình sản xuất, kinh doanh” ..Một trong những hình thức tích tụ tư bản, đó là góp vốn. Góp vốn theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp là: “Việc nhà đầu tư  tài sản dưới các hình thức khác nhau vào doanh nghiệp để trở thành chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu doanh nghiệp. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, kim loại quý, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật hoặc tài sản khác đƣợc pháp luật cho phép. Tài sản góp vốn bằng hiện vật hoặc quyền tài sản phải đƣợc định giá thành tiền. Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc giá trị quyền sử dụng đất thì ngƣời góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền” . Còn theo PGS.TS. Lê Thị Châu thì “góp vốn vào công ty là việc một cá nhân hay tổ chức chuyển dịch tài sản của mình (biểu hiện bằng vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá đƣợc bằng tiền hoặc các quyền về tài sản) theo một trình tự, thủ tục nhất định vào công ty và theo đó được hưởng các quyền và các nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn” . Do tầm quan trọng của góp vốn mà từ Luật Công ty năm 1990 đến Luật Doanh nghiệp năm 2014 đều đƣa ra khái niệm góp vốn. Theo khoản 4 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005: “Góp vốn là việc đƣa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ đƣợc tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong điều lệ công ty do các thành viên góp để tạo thành vốn của công ty” . Khoản 13 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã đƣợc thành lập”. “Tài sản góp vốn có thể là đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá đƣợc bằng đồng Việt Nam” (khoản 1 Điều 35 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Bản chất của góp vốn là đƣa tài sản vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Vì thế, hành vi góp vốn đƣợc xem xét trên cả hai phƣơng diện kinh tế và pháp lý.Trên phương diện kinh tế, góp vốn là tạo ra tài sản cho doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Khi góp vốn vào doanh nghiệp, tài sản đƣợc chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng từ thành viên góp vốn sang doanh nghiệp. Việc dịch chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản thông qua hợp đồng góp vốn, hợp đồng thành lập công ty. Bằng hành vi góp vốn, các thành viên đã tạo ra tài sản cho doanh nghiệp và đổi lại quyền lợi của mình trong doanh nghiệp. Những quyền lợi này đƣợc xác định theo quy định của pháp luật và điều lệ doanh nghiệp. Có thể thấy rằng, góp vốn là việc nhiều ngƣời cùng góp nguồn lực của mình để tạo nên nguồn lực chung lớn hơn nhằm thực hiện ý tƣởng kinh doanh.Trên phương diện pháp lý, góp vốn là hành vi chuyển giao tài sản, nói cách khác là hành vi chuyển các quyền đối với tài sản là vốn góp để đổi lấy quyền lợi đối với doanh nghiệp. “Nghĩa vụ đối ứng giữa ngƣời góp vốn thành lập công ty và công ty khác với nghĩa vụ đối ứng giữa các bên trong quan hệ mua bán hay cho thuê ở chỗ quyền lợi mà người bỏ tiền ra nhận lại là một thứ đặc quyền đó là quyền sở hữu công ty” . Nếu căn cứ vào chủ thể của quyền sở hữu thì góp vốn có thể được thực hiện bằng quyền sở hữu tài sản hoặc quyền sử dụng tài sản. Nếu căn cứ vào tính chất của tài sản góp vốn thì góp vốn có thể đƣợc thực hiện bằng tiền, vật, quyền tài sản, bằng công nghệ, bí quyết, công việc… Nguyên tắc chung, mọi tài sản đều có thể đem góp vốn, tuy nhiên điều này còn lệ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng góp vốn, hợp đồng thành lập công ty. Việc phân loại góp vốn thành các hình thức khác nhau chủ yếu dựa vào đối tƣợng góp vốn. Có thể thấy, ngoài quy định chung thì mỗi hình thức góp vốn lại có quy chế pháp lý riêng, điều này xuất phát từ chính đối tƣợng góp vốn. Các hình thức góp vốn phổ biến hiện nay là góp vốn bằng tài sản (tiền, hiện vật, quyền tài sản), góp vốn bằng tri thức, góp vốn bằng công việc và các hình thức khác.Đất đai có vị trí và vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, là nơi diễn ra hoạt động sống, sản xuất, kinh doanh, là tƣ liệu sản xuất không thể thay thế, là tài sản có giá trị lớn. “Điều này đã làm cho việc phân bổ đất đai luôn là vấn đề hết sức quan trọng của mọi xã hội, bởi qua đó, nó quyết định lợi ích, sự công bằng đối với từng ngƣời dân và sự thành công hay thất bại của một chế độ chính trị. Do đó, vấn đề đất đai thuộc về ai, bao nhiêu luôn là vấn đề hết sức quan trọng”. Vì thế, sở hữu đất đai luôn là vấn đề hết sức phức tạp. “Đặc tính này xuất phát từ những đặc điểm khác biệt của đất đai so với tài sản khác, tài nguyên thiên nhiên khác”. Theo Điều 53 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 thì đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc đại diện chủ sở hữu thống nhất quản lý. Tuy nhiên, Nhà nƣớc không trực tiếp sử dụng đất mà chuyển giao cho các chủ thể khác thông qua giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ. Khi sử dụng đất, ngoài quyền khai thác sử dụng đất, NSDĐ còn đƣợc chuyển QSDĐ. Có thể thấy, QSDĐ là chế định đặc thù của pháp luật Việt Nam, là phƣơng thức để duy trì chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai trong nền kinh tế thị trường. Quyền sử dụng tài sản là quyền khai thác công dụng, hƣởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Đất đai là bất động sản, ở góc độ quyền sử dụng tài sản thì QSDĐ là quyền khai thác công dụng, hƣởng hoa lợi, lợi tức từ đất đai. Trên phương diện này, QSDĐ là khái niệm pháp lý chỉ một trong những quyền của chủ sở hữu đất đai. Từ Hiến pháp năm 1992 cho đến nay, ngoài quyền khai thác, sử dụng đất thì quyền của NSDĐ ngày càng được mở rộng. Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, ngoài những quyền chung, NSDĐ còn đƣợc thực hiện các giao dịch về QSDĐ (chuyển đổi, chuyển nhƣợng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, tặng cho, góp vốn) như những giao dịch về tài sản. Tuy nhiên, không phải tất cả chủ thể sử dụng đất đều có đầy đủ 8 quyền trên mà việc xác lập và thực hiện những quyền này phụ thuộc vào từng chủ thể sử dụng đất và nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nƣớc. Về bản chất, QSDĐ bao gồm một số quyền của chủ sở hữu đất đai chuyển giao cho NSDĐ. Tuy nhiên, Nhà nước không chuyển giao tất cả các quyền của chủ sở hữu cho NSDĐ mà chỉ chuyển giao một số quyền, trong đó có góp vốn. Khi nói về QSDĐ, ông Akiyama Yasuhiro chuyên gia pháp luật đến từ Nhật Bản cho rằng: “Trên nguyên t c đất đai được xem là sở hữu nhà nƣớc, nhƣng một phạm vi nhất định, người có QSDĐ lại có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đất ấy, riêng về QSDĐ, nếu xem xét nội dung của nó, chúng ta thấy rằng quyền này bản chất rất gần với quyền sở hữu” . “QSDĐ là một quyền tài sản. Quyền tài sản này không chỉ dừng lại ở quyền khai thác những thuộc tính có ích của đất mà còn bao hàm cả quyền đƣợc giao dịch nó nhƣ giao dịch các loại tài sản hữu hình. Đây chính là yếu tố làm cho QSDĐ có điểm gần giống với quyền sở hữu đất đai. Việc thực hiện hành vi giao dịch QSDĐ của NSDĐ đƣợc pháp luật quy định hầu nhƣ “tƣơng đƣơng” hay gần gũi với quyền định đoạt của chủ sở hữu”. QSDĐ là một bộ phận của quyền sở hữu đất đai, phái sinh từ quyền sở hữu đất đai. Vì thế, dù NSDĐ có đƣợc thực hiện các giao dịch QSDĐ nhƣ đối tƣợng là tài sản thì các quyền này cũng bị hạn chế và chi phối bởi ý chí của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đất đai.Trên phƣơng diện lý luận, khái niệm góp vốn bằng QSDĐ đã đƣợc đề cập trong một số công trình nghiên cứu. Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý Bộ Tƣ pháp, góp vốn bằng QSDĐ là: “Sự thỏa thuận giữa các bên tuân theo điều kiện, nội dung, hình thức chuyển quyền sử dụng đất được Bộ luật Dân sự và pháp luật về đất đai quy định, theo đó, ngƣời sử dụng đất đƣợc quyền góp phần vốn của mình bằng quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh. Góp vốn bằng quyền sử dụng đất lần đầu tiên được quy định tại Luật Đất đai năm 1993 và tiếp đó Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và Luật Đất đai năm 2003. Các văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho phép ngƣời sử dụng đất góp vốn bằng quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật phù hợp với mục đích khi giao đất …” . Còn trong Giáo trình Luật Đất đai của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, TS. Trần Quang Huy cho rằng: “Góp vốn bằng QSDĐ đƣợc hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên; theo đó hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất hợp pháp, có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất để hợp tác, sản xuất, kinh doanh với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nƣớc hoặc ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài”. Với tư cách là một hình thức góp vốn, tác giả Hồng Vân cho rằng: “Góp vốn bằng QSDĐ là việc NSDĐ  tài sản thuộc quyền sử dụng của mình là QSDĐ đối với một diện tích nhất định để góp vốn thành lập công ty hoặc góp vốn vào doanh nghiệp đã được thành lập để trở thành chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty”. Như vậy, khái niệm góp vốn bằng QSDĐ đã đƣợc đề cập trong một số công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, các định nghĩa góp vốn bằng QSDĐ trên mới chỉ đề cập đến những khía cạnh cụ thể của góp vốn bằng QSDĐ nhƣ chủ thể, đối tượng, hình thức mang tính liệt kê dựa trên pháp luật thực định. Cũng nhƣ các hình thức góp vốn khác, góp vốn bằng QSDĐ làm chấm dứt QSDĐ của bên góp vốn, đồng thời xác lập QSDĐ đối với bên nhận góp vốn thông qua hợp đồng góp vốn. Điều 727 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó ngƣời sử dụng đất (sau đây gọi là bên góp vốn) góp phần vốn của mình bằng giá trị quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất, kinh doanh với cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai”. Trên phương diện kinh tế, góp vốn bằng QSDĐ là hành vi của chủ sử dụng đất (bên góp vốn) tự nguyện chuyển giao QSDĐ và các lợi ích từ đất đai cho bên nhận góp vốn để đổi lấy quyền lợi đối với doanh nghiệp (góp vốn để thành lập doanh nghiệp hoặc góp vốn vào doanh nghiệp đã đƣợc thành lập) hay quyền lợi đối với bên nhận góp vốn (góp vốn bằng hình thức hợp tác kinh doanh). Theo: Sỹ Hồng Nam Link luận án: Tại đây