0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
timeline_post_file64b95ea2ee3fc-XÂY-DỰNG-GIẢI-PHÁP-PHÁP-LÝ-THU-HÚT-HIỆU-QUẢ-ĐẦU-TƯ-TRONG-LĨNH-VỰC-KẾT-CẤU-HẠ-TẦNG-.jpg.webp

CƠ SỞ XÂY DỰNG CÁC GIẢI PHÁP PHÁP LÝ THU HÚT HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ KẾT CẤU HẠ TẦNG

4.1.   Cơ sở xây dựng các giải pháp pháp lý thu hút hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng

4.1.1.   Từ thực tiễn yêu cầu thu hút đầu tư kết cấu hạ tầng tại Việt Nam

Nhận thức về yêu cầu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam xuất hiện từ rất sớm, ngay khi bước vào thời kỳ đổi mới. Đây là giai đoạn Việt Nam thực hiện “mở cửa” nền kinh tế và hội nhập quốc tế, bắt đầu nhận được nhiều cam kết hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ các nước phát triển và các tổ chức phi chính phủ (NGO). Trong giai đoạn này, Việt Nam đã ưu tiên sử dụng nguồn lực này cho phát triển cơ sở hạ tầng để tái cấu trúc nền kinh tế, 56,3% vốn ODA được phân bổ cho phát triển cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, thông tin truyền thông, năng lượng và công nghiệp. Đứng đầu trong các quốc gia và tổ chức trên là Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á với số vốn cam kết chiếm 70-80% tổng nguồn vốn ODA hằng năm mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam.
Có thể nhận thấy, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng tại Việt Nam đã có những tiền đề và điều kiện phát triển từ giai đoạn 1993 – 2012. Tuy nhiên, tư duy về phát triển kết cấu hạ tầng còn chậm đổi mới, quan điểm và nhận thức về nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam chưa phù hợp với cơ chế thị trường do trong một giai đoạn khá dài Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn vốn ODA, chưa huy động được nhiều nguồn lực ngoài nhà nước, chưa tạo được sự ủng hộ mạnh mẽ và chia sẻ trách nhiệm của toàn dân. Nguyên nhân được chỉ ra là do:
- Thứ nhất, một thời gian dài ở Việt Nam, việc thu hút nguồn lực tư nhân tham gia vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng xã hội còn được thực hiện song song bởi khung pháp lý về “xã hội hóa”. Thuật ngữ “xã hội hóa” được sử dụng phổ biến trong giai đoạn này nhưng về bản chất đây là phương hướng, chủ trương và chính sách khuyến khích mà không phải là một phương thức đầu tư. Chủ trương xã hội hóa diễn ra đa dạng ở tất cả các lĩnh vực, từ đầu tư tư nhân thuần túy đến tham gia hợp tác trong các dự án cung cấp dịch vụ công tại các đơn vị sự nghiệp tự chủ về tài chính và thường triển khai ở các dự án quy mô nhỏ, vốn ít, thời gian ngắn, quy trình thực hiện đơn giản.

-Thực tế, có quan điểm cho rằng, so sánh với khung pháp lý về PPP, chính sách khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư theo chủ trương “xã hội hóa” dễ triển khai do không phải nghiên cứu, chuẩn bị dự án, không phải đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, không quản lý trên cơ sở hợp đồng…Ngược lại, có quan điểm cho rằng cách làm xã hội hóa tuy có thu hút được sự tham gia đầu tư nhưng cần xem xét lại ở nhiều khía cạnh, đặc biệt là vai trò quản lý của nhà nước trong những dự án này nhằm đảm bảo sự công bằng, lợi ích của người dân trong sử dụng các dịch vụ công.
Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, chính sách về đầu tư được làm rõ và tiệm cận với thông lệ quốc tế, pháp luật Việt Nam ghi nhận PPP là một phương thức đầu tư. Chủ trương xã hội hóa cần phải được quy định rõ về quy trình, thủ tục đầu tư để áp dụng cho các dự án ở quy mô nhỏ, đơn giản. Trong khi đó, đầu tư PPP áp dụng với dựa án quy mô lớn, phức tạp, thực hiện theo quy trình thủ tục từ chuẩn bị đầu tư, lựa chọn nhà đầu tư, đồng thời ràng buộc trách nhiệm giữa các bên thông qua hợp đồng dài hạn.
Về bản chất, thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng theo phương thức PPP là dự án công được đầu tư tư. Thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng hoàn toàn khác với việc “xã hội hóa” hay các dự án đầu tư kinh doanh thuần túy do tư nhân thực hiện theo cơ chế thị trường. Đầu tư trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng với sự tham gia của nhà dầu tư tư nhân nhằm mục đích cung cấp các sản phẩm dịch vụ công (mục đích công) thông qua đầu tư tư nhân (vốn tư) và/hoặc quản lý tư. Trường hợp không thu hút được nhà đầu tư tư nhân thì nhà nước cũng phải chi ngân sách hoặc huy động các khoản vay ODA cho đầu tư và gánh vác mọi rủi ro. Do dó, nếu muốn thu hút được nguồn lực tài chính lớn hơn từ phía khu vực tư nhân, tận dụng được tri thức, năng lực quản lý từ các thành phần kinh tế thì Nhà nước cần có trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc bảo đảm tính khả thi của dự án thông qua các công cụ hỗ trợ, bảo đảm, bảo lãnh, mà không thể đẩy toàn bộ trách nhiệm, rủi ro của việc thực hiện dự án có mục đích công cho tư nhân như đối với dự án đầu kinh doanh thương mại thuần túy. Trong khi đó, trong cơ chế cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, nhà đầu tư cũng cân nhắc để lựa chọn đầu tư hoặc không đầu tư vào các lĩnh vực mà nhà nước kêu gọi.

Theo: Châu Phục Chi

Link luận án: Tại đây

 

 

avatar
Đặng Quỳnh
877 ngày trước
CƠ SỞ XÂY DỰNG CÁC GIẢI PHÁP PHÁP LÝ THU HÚT HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ KẾT CẤU HẠ TẦNG
4.1.   Cơ sở xây dựng các giải pháp pháp lý thu hút hiệu quả đầu tư trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng4.1.1.   Từ thực tiễn yêu cầu thu hút đầu tư kết cấu hạ tầng tại Việt NamNhận thức về yêu cầu đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam xuất hiện từ rất sớm, ngay khi bước vào thời kỳ đổi mới. Đây là giai đoạn Việt Nam thực hiện “mở cửa” nền kinh tế và hội nhập quốc tế, bắt đầu nhận được nhiều cam kết hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ các nước phát triển và các tổ chức phi chính phủ (NGO). Trong giai đoạn này, Việt Nam đã ưu tiên sử dụng nguồn lực này cho phát triển cơ sở hạ tầng để tái cấu trúc nền kinh tế, 56,3% vốn ODA được phân bổ cho phát triển cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực giao thông vận tải, thông tin truyền thông, năng lượng và công nghiệp. Đứng đầu trong các quốc gia và tổ chức trên là Nhật Bản, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á với số vốn cam kết chiếm 70-80% tổng nguồn vốn ODA hằng năm mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam.Có thể nhận thấy, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng tại Việt Nam đã có những tiền đề và điều kiện phát triển từ giai đoạn 1993 – 2012. Tuy nhiên, tư duy về phát triển kết cấu hạ tầng còn chậm đổi mới, quan điểm và nhận thức về nguồn lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam chưa phù hợp với cơ chế thị trường do trong một giai đoạn khá dài Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào các nguồn vốn ODA, chưa huy động được nhiều nguồn lực ngoài nhà nước, chưa tạo được sự ủng hộ mạnh mẽ và chia sẻ trách nhiệm của toàn dân. Nguyên nhân được chỉ ra là do:- Thứ nhất, một thời gian dài ở Việt Nam, việc thu hút nguồn lực tư nhân tham gia vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng xã hội còn được thực hiện song song bởi khung pháp lý về “xã hội hóa”. Thuật ngữ “xã hội hóa” được sử dụng phổ biến trong giai đoạn này nhưng về bản chất đây là phương hướng, chủ trương và chính sách khuyến khích mà không phải là một phương thức đầu tư. Chủ trương xã hội hóa diễn ra đa dạng ở tất cả các lĩnh vực, từ đầu tư tư nhân thuần túy đến tham gia hợp tác trong các dự án cung cấp dịch vụ công tại các đơn vị sự nghiệp tự chủ về tài chính và thường triển khai ở các dự án quy mô nhỏ, vốn ít, thời gian ngắn, quy trình thực hiện đơn giản.-Thực tế, có quan điểm cho rằng, so sánh với khung pháp lý về PPP, chính sách khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư theo chủ trương “xã hội hóa” dễ triển khai do không phải nghiên cứu, chuẩn bị dự án, không phải đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, không quản lý trên cơ sở hợp đồng…Ngược lại, có quan điểm cho rằng cách làm xã hội hóa tuy có thu hút được sự tham gia đầu tư nhưng cần xem xét lại ở nhiều khía cạnh, đặc biệt là vai trò quản lý của nhà nước trong những dự án này nhằm đảm bảo sự công bằng, lợi ích của người dân trong sử dụng các dịch vụ công.Cùng với phát triển kinh tế - xã hội, chính sách về đầu tư được làm rõ và tiệm cận với thông lệ quốc tế, pháp luật Việt Nam ghi nhận PPP là một phương thức đầu tư. Chủ trương xã hội hóa cần phải được quy định rõ về quy trình, thủ tục đầu tư để áp dụng cho các dự án ở quy mô nhỏ, đơn giản. Trong khi đó, đầu tư PPP áp dụng với dựa án quy mô lớn, phức tạp, thực hiện theo quy trình thủ tục từ chuẩn bị đầu tư, lựa chọn nhà đầu tư, đồng thời ràng buộc trách nhiệm giữa các bên thông qua hợp đồng dài hạn.Về bản chất, thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng theo phương thức PPP là dự án công được đầu tư tư. Thu hút đầu tư tư nhân vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng hoàn toàn khác với việc “xã hội hóa” hay các dự án đầu tư kinh doanh thuần túy do tư nhân thực hiện theo cơ chế thị trường. Đầu tư trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng với sự tham gia của nhà dầu tư tư nhân nhằm mục đích cung cấp các sản phẩm dịch vụ công (mục đích công) thông qua đầu tư tư nhân (vốn tư) và/hoặc quản lý tư. Trường hợp không thu hút được nhà đầu tư tư nhân thì nhà nước cũng phải chi ngân sách hoặc huy động các khoản vay ODA cho đầu tư và gánh vác mọi rủi ro. Do dó, nếu muốn thu hút được nguồn lực tài chính lớn hơn từ phía khu vực tư nhân, tận dụng được tri thức, năng lực quản lý từ các thành phần kinh tế thì Nhà nước cần có trách nhiệm, nghĩa vụ trong việc bảo đảm tính khả thi của dự án thông qua các công cụ hỗ trợ, bảo đảm, bảo lãnh, mà không thể đẩy toàn bộ trách nhiệm, rủi ro của việc thực hiện dự án có mục đích công cho tư nhân như đối với dự án đầu kinh doanh thương mại thuần túy. Trong khi đó, trong cơ chế cạnh tranh của nền kinh tế thị trường, nhà đầu tư cũng cân nhắc để lựa chọn đầu tư hoặc không đầu tư vào các lĩnh vực mà nhà nước kêu gọi.Theo: Châu Phục ChiLink luận án: Tại đây