0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
banner
avatar

Trần Thành GĐ

Điểm thưởng: 32
Tìm kiếm công ty Luật/ Doanh nghiệp

Người theo dõi

6 người
Xem tất cả

Đang theo dõi

7 người
Xem tất cả
avatar
Trần Thành GĐ
473 ngày trước
Bài viết
Thẩm Quyền Cấp Văn Bằng, Chứng Chỉ Trong Hệ Thống Giáo Dục: Ai Là Người Quyết Định?
Trong hệ thống giáo dục, việc cấp phát văn bằng và chứng chỉ là một quy trình quan trọng và phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên liên quan. Vậy, ai là người có thẩm quyền cấp văn bằng và chứng chỉ? Hãy cùng tìm hiểu thêm về vấn đề này và các quy định pháp luật liên quan.Ai Có Thẩm Quyền Cấp Văn Bằng?Theo quy định của Điều 15 Quy chế ban hành kèm theo Thông tư 21/2019/TT-BGDĐT, có một số thẩm quyền cấp văn bằng trong hệ thống giáo dục như sau:Bằng tốt nghiệp trung học cơ sở được cấp bởi trưởng phòng giáo dục và đào tạo cấp.Bằng tốt nghiệp trung học phổ thông được cấp bởi giám đốc sở giáo dục và đào tạo cấp.Bằng tốt nghiệp trung cấp sư phạm và bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm được cấp bởi người đứng đầu cơ sở đào tạo giáo viên hoặc người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học có ngành đào tạo giáo viên cấp.Văn bằng giáo dục đại học được cấp bởi giám đốc đại học, hiệu trưởng trường đại học, giám đốc học viện, viện trưởng viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo và cấp văn bằng ở trình độ tương ứng cấp.Giám đốc đại học có thẩm quyền cấp văn bằng giáo dục đại học cho người học của các đơn vị đào tạo, nghiên cứu trực thuộc (trừ các trường đại học thành viên).Ai Có Thẩm Quyền Cấp Chứng Chỉ?Theo quy định tại khoản (ii) mục 1 của Điều 15 Quy chế ban hành kèm theo Thông tư 21/2019/TT-BGDĐT, giám đốc sở giáo dục và đào tạo, thủ trưởng cơ sở giáo dục có thẩm quyền cấp chứng chỉ cho người học theo quy định. Chứng chỉ được cấp cho người học để xác nhận kết quả học tập sau khi hoàn thành khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp hoặc dự thi lấy chứng chỉ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.Điều Kiện Cấp Văn Bằng và Chứng Chỉ Trong Hệ Thống Giáo DụcĐiều kiện cấp văn bằng và chứng chỉ trong hệ thống giáo dục được quy định tại Điều 16 Quy chế ban hành kèm theo Thông tư 21/2019/TT-BGDĐT. Cụ thể như sau:Văn bằng của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học sau khi tốt nghiệp cấp học hoặc sau khi hoàn thành chương trình đào tạo và đạt chuẩn đầu ra của trình độ đào tạo theo quy định và hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm của người học.Chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học để xác nhận kết quả học tập sau khi được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp hoặc cấp cho người dự thi lấy chứng chỉ theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.Thời Hạn Cấp Văn Bằng, Chứng Chỉ Trong Hệ Thống Giáo DụcThời hạn cấp văn bằng và chứng chỉ trong hệ thống giáo dục được quy định tại Điều 17 Quy chế ban hành kèm theo Thông tư 21/2019/TT-BGDĐT như sau:Người có thẩm quyền cấp văn bằng phải thực hiện cấp văn bằng cho người học trong thời hạn sau:75 ngày kể từ ngày có quyết định công nhận tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông.30 ngày kể từ ngày có quyết định công nhận tốt nghiệp trung cấp sư phạm, cao đẳng sư phạm, đại học.30 ngày kể từ ngày có quyết định công nhận tốt nghiệp và cấp bằng thạc sĩ.30 ngày kể từ ngày có quyết định công nhận học vị tiến sĩ và cấp bằng tiến sĩ.Người có thẩm quyền cấp chứng chỉ phải cấp chứng chỉ cho người học chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày kết thúc khóa đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp hoặc dự thi lấy chứng chỉ.Ngoài ra, trong thời gian chờ cấp văn bằng, người học đủ điều kiện cấp bằng tốt nghiệp được cơ sở giáo dục nơi đã theo học cấp giấy chứng nhận tốt nghiệp tạm thời. Điều này giúp người học có thể sử dụng giấy chứng nhận tạm thời để nộp đơn vào các cơ quan, tổ chức khi cần thiết.Tóm lại, trong hệ thống giáo dục, việc cấp phát văn bằng và chứng chỉ là một quá trình quan trọng, tuân thủ các quy định pháp luật và đảm bảo tính chính xác, công bằng. Nhà nước, các cơ quan quản lý giáo dục và các cơ sở giáo dục đóng vai trò chủ chốt trong việc thực hiện quy trình cấp phát này, đồng thời đảm bảo quyền lợi và nguyên tắc đối với người học. Các thủ tục pháp luật rõ ràng và được giám sát cẩn thận để đảm bảo việc cấp phát văn bằng và chứng chỉ được thực hiện một cách minh bạch và hiệu quả.Câu hỏi về: Thẩm Quyền Cấp Văn Bằng, Chứng Chỉ Trong Hệ Thống Giáo Dục: Ai Là Người Quyết Định?Văn bằng chứng chỉ trong sơ yếu lý lịchVăn bằng và chứng chỉ là hai loại giấy tờ quan trọng được ghi vào sơ yếu lý lịch của người học. Sơ yếu lý lịch là một tài liệu tổng hợp về thông tin cá nhân, học vấn, kinh nghiệm làm việc và các thành tựu khác của người đó. Thông thường, các thông tin về văn bằng và chứng chỉ cũng được ghi vào sơ yếu lý lịch để chứng minh trình độ học vấn và năng lực của người đó khi nộp đơn xin việc hoặc tham gia các hoạt động xã hội.Trình độ văn bằng, chứng chỉ ghi như thế nàoTrình độ văn bằng và chứng chỉ thường được ghi rõ trong sơ yếu lý lịch của người học. Thông tin về văn bằng và chứng chỉ bao gồm:Tên văn bằng hoặc chứng chỉ đã đạt được.Chuyên ngành hoặc ngành học tương ứng với văn bằng hoặc chứng chỉ.Tên trường hoặc cơ sở giáo dục đã cấp văn bằng/chứng chỉ.Thời gian tốt nghiệp hoặc nhận chứng chỉ.Thông tin này giúp nhà tuyển dụng hoặc các tổ chức đánh giá trình độ và năng lực của người xin việc.Văn bằng được cấp ghi như thế nàoQuy trình cấp văn bằng thường khác nhau tùy theo từng quốc gia và hệ thống giáo dục. Trong nước, văn bằng thường được cấp sau khi học viên hoặc sinh viên hoàn thành đầy đủ chương trình đào tạo và đáp ứng đủ các yêu cầu do trường đề ra. Các cơ quan quản lý giáo dục sẽ xem xét và duyệt việc cấp văn bằng để đảm bảo tính chính xác và công bằng.Quyền của người họcNgười học có nhiều quyền khi tham gia vào hệ thống giáo dục. Các quyền này thường bảo vệ và đảm bảo tính công bằng, chất lượng và trung thực trong quá trình học tập. Một số quyền của người học bao gồm:Quyền được tiếp cận môi trường học tập công bằng, an toàn và đáng tin cậy.Quyền được đăng ký vào các khóa học phù hợp với sở thích và nhu cầu học tập của mình.Quyền được nhận đầy đủ thông tin về chương trình đào tạo, mục tiêu học tập, cấu trúc chương trình và các yêu cầu để nhận văn bằng hoặc chứng chỉ.Quyền được tham gia vào quá trình đánh giá và phản hồi về chất lượng giảng dạy và học tập.Quyền được xem xét lại hoặc gửi khiếu nại nếu có vấn đề về việc cấp văn bằng hoặc chứng chỉ.Có bao nhiêu quyền của người họcSố lượng quyền của người học thường thay đổi tùy thuộc vào quy định và chính sách của từng quốc gia và hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, các quyền của người học thường tập trung vào việc bảo vệ quyền lợi và đảm bảo quyền công bằng và chất lượng trong quá trình học tập và nhận văn bằng/chứng chỉ.Nền giáo dục Việt Nam làNền giáo dục Việt Nam là một hệ thống giáo dục được tổ chức và quản lý bởi nhà nước. Nền giáo dục Việt Nam bao gồm các cấp học từ mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông đến giáo dục đại học và nghề. Các cơ sở giáo dục đều phải tuân thủ các quy định và quy trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra.Hệ thống giáo dục quốc dân là gì?Hệ thống giáo dục quốc dân là một phần quan trọng của hệ thống giáo dục trong một quốc gia. Nó bao gồm các cơ sở giáo dục công lập hoặc do nhà nước đầu tư và quản lý. Hệ thống giáo dục quốc dân nhằm đảm bảo cung cấp môi trường học tập công bằng và chất lượng cho người dân, bất kể tầng lớp hay địa điểm sinh sống, từ đó đóng góp vào phát triển văn hóa và kinh tế của quốc gia.  
avatar
Trần Thành GĐ
511 ngày trước
hướng dẫn điểm mới về đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế với hộ kinh doanh
Tổng cục Thuế vừa hướng dẫn điểm mới về đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế với hộ kinh doanh trong tài liệu tập huấn Thông báo 439/TB-TCT ngày 23/6/2023. ????Bài viết này sẽ phân tích chi tiết những điểm mới được Tổng cục Thuế đề cập, giúp bạn hiểu rõ hơn về quy trình và quy định mới trong việc đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế với hộ kinh doanh.#TổngCụcThuế #ĐăngKýKinhDoanh #ĐăngKýThuế #HộKinhDoanh Hướng dẫn với trường hợp hộ kinh doanh đã được cấp mã số thuế nhưng chưa cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh:Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư 02/2023/TT-BKHĐT, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện sẽ tiếp nhận hồ sơ đăng ký thành lập hộ kinh doanh và cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh. Đồng thời, thông báo về cơ quan thuế quản lý trực tiếp hộ kinh doanh hoặc thông báo về mã số thuế và cơ quan thuế quản lý trực tiếp địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh.Các thông tin đăng ký hộ kinh doanh sẽ được truyền từ hệ thống thông tin về đăng ký hộ kinh doanh sang Hệ thống ứng dụng đăng ký thuế để phối hợp và trao đổi thông tin giữa cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế. Về mã số hộ kinh doanh của hộ kinh doanh:Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư 02/2023/TT-BKHĐT, mã số hộ kinh doanh sẽ được tạo tự động bởi Hệ thống ứng dụng đăng ký thuế và ghi trên Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh. Mã số hộ kinh doanh này đồng thời cũng là mã số thuế của hộ kinh doanh.Về việc tiếp nhận hồ sơ và cấp mã số hộ kinh doanh, mã số địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh:Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Thông tư 02/2023/TT-BKHĐT, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện sẽ tiếp nhận hồ sơ đăng ký thành lập hộ kinh doanh và xác nhận thông tin. Sau đó, cơ quan này sẽ cấp mã số hộ kinh doanh và mã số địa điểm kinh doanh cho hộ kinh doanh.Thông tin đăng ký hộ kinh doanh sẽ được truyền từ hệ thống thông tin về đăng ký hộ kinh doanh sang Hệ thống ứng dụng đăng ký thuế. Điều này nhằm đảm bảo sự phối hợp và trao đổi thông tin giữa cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế.Về thời hạn cấp mã số thuế và Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh:Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Thông tư 02/2023/TT-BKHĐT, cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện sẽ tiến hành cấp mã số thuế và cấp Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ đăng ký thành lập hộ kinh doanh.Trường hợp không cấp mã số thuế và Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh trong thời hạn nêu trên, cơ quan đăng ký kinh doanh cần lập biên bản, ghi rõ lý do và thời gian trễ cấp để trình Tổng cục Thuế xem xét và xử lý.Về nộp thuế và thủ tục quyết toán thuế:Sau khi nhận được mã số thuế và Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, hộ kinh doanh sẽ thực hiện các thủ tục nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế. Hộ kinh doanh cần thực hiện việc quyết toán thuế hàng tháng, hàng quý hoặc hàng năm và nộp thuế đúng hạn.Nếu hộ kinh doanh có nhu cầu thay đổi thông tin đăng ký kinh doanh, như địa chỉ kinh doanh, ngành nghề kinh doanh, chủ sở hữu, hộ kinh doanh cần thực hiện thủ tục sửa đổi, bổ sung thông tin đăng ký kinh doanh theo quy định của Tổng cục Thuế.Tổng kết:Tổng cục Thuế đã hướng dẫn những điểm mới về đăng ký kinh doanh và đăng kýthuế cho hộ kinh doanh dựa trên quy định tại Thông tư 02/2023/TT-BKHĐT. Việc đăng ký hộ kinh doanh và nộp thuế đúng hạn là một trong những nhiệm vụ quan trọng để hộ kinh doanh hoạt động theo quy định của pháp luật và đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu hộ kinh doanh.Với những quy định và hướng dẫn cụ thể từ Tổng cục Thuế, hy vọng quy trình đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế cho hộ kinh doanh sẽ trở nên rõ ràng và thuận lợi hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân và hộ gia đình trong việc kinh doanh và đóng góp vào phát triển kinh tế đất nước..
avatar
Trần Thành GĐ
511 ngày trước
Bài viết
HỢP ĐỒNG VAY VỐN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập – Tự do – Hạnh phúc------------- HỢP ĐỒNG VAY VỐNSố: 03/HĐ-JW Hôm nay, ngày 16 tháng 02 năm 2019.Tại số 11, Đường 10, Khu công nghiệp, Đô thị và Dịch vụ VSIP Bắc Ninh, Xã Đại Đồng, Huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh, Việt NamChúng tôi gồm có:Bên A: CÔNG TY TNHH JWORLDMã số doanh nghiệp : 135111-0071723 do Tòa án quận Suwon, Hàn Quốc cấp ngày 16/04/2004Địa chỉ trụ sở chính: Dangjeong-dong), 120, Gosan-ro, Gunpo-si, Gyeonggi-do, Hàn Quốc.  Người đại diện theo pháp luật:Bên B: CÔNG TY TNHH JWORLD VINAMã số doanh nghiệp: 2300755090Địa chỉ trụ sở chính: Lô số 085/086A1, số 11, Đường 10, Khu công nghiệp, Đô thị và Dịch vụ VSIP Bắc Ninh, Xã Đại Đồng, Huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc Ninh, Việt NamNgười đai diện theo pháp luật: Ông KOO DONG KYUChức vụ: Tổng giám đốc. Sau khi thỏa thuận cùng nhau ký hợp đồng vay tiền với các điều khoản sau: Điều 1: Về số lượng tiền vayBên A đồng ý cho bên B vay số tiền:Bằng số: 354.684.702.973 VNĐBằng chữ: Ba trăm năm mươi bốn tỷ, sáu trăm tám mươi bốn triệu, bảy trăm linh hai nghìn, chín trăm bảy mươi ba đồng Việt Nam. Điều 2: Thời hạn và phương thức vay1.     Thời hạn vay là ………… thángKể từ ngày … tháng … năm ….Đến ngày … tháng … năm ….2.     Phương thức vay (có thể chọn các phương thức sau):Chuyển khoản qua tài khoản: ………………………   Mở tại ngân hàng: ………………………………………Cho vay bằng tiền mặtChuyển giao thành ……… đợt+ Đợt 1: ………………………………………………+ Đợt 2: …………………………………………Điều 3: Lãi suất1 - Bên B đồng ý vay số tiền trên với lãi suất ……….. % một tháng tính từ ngày nhận tiền vay.2 - Tiền lãi được trả hàng tháng đúng vào ngày thứ 30 tính từ ngày vay, lãi trả chậm bị phạt …….. % tháng.3 - Trước khi hợp đồng này đáo hạn ….. ngày; nếu bên B muốn tiếp tục gia hạn phải được sự thỏa thuận trước tại địa điểm …………………4 - Trong thời hạn hợp đồng có hiệu lực không thay đổi mức lãi suất cho vay đã thỏa thuận trong hợp đồng này.5 - Khi nợ đáo hạn, bên B không trả đủ vốn và lãi cho bên A, tổng số vốn và lãi còn thiếu sẽ chuyển sang nợ quá hạn, và chịu lãi suất tính theo nợ quá hạn là …… % một tháng.6 - Thời hạn thanh toán nợ quá không quá …. Ngày nếu không có sự thỏa thuận nào khác của hai bên.Điều 4: Biện pháp bảo đảm hợp đồng    1. Bên B bằng lòng thế chấp (hoặc cầm cố) tài sản thuộc sở hữu của mình là …… và giao toàn bộ bản chính giấy chủ quyền tài sản cho bên A giữ (có thể nhờ người khác có tài sản đưa giấy tờ sở hữu đến bảo lãnh cho bên B vay). Việc đưa tài sản ra bảo đảm đã được hai bên lập biên bản đính kèm sau khi có xác nhận của phòng Công chứng Nhà nước tỉnh (thành)…      2. Khi đáo hạn, bên B đã thanh toán tất cả vốn và lãi cho bên A, thì bên này sẽ làm các thủ tục giải tỏa thế chấp (hoặc cầm cố, bảo lãnh) và trao lại bản chính giấy chủ quyền tài sản đã đưa ra bảo đảm cho bên B.     3. Bên B thỏa thuận rằng, nếu không trả đúng thời hạn đã cam kết trong hợp đồng này sau …. Ngày thì bên A có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền phát mại tài sản đưa ra bảo đảm để thu hồi khoản nợ quá hạn từ bên B.Điều 5: Trách nhiệm chi trả những phí tổn có liên quan đến hợp đồng.Những chi phí có liên quan đến việc vay nợ như: tiền lưu kho tài sản bảo đảm, phí bảo hiểm, lệ phí tố tụng, v.v… bên B có trách nhiệm thanh toán.Điều 6: Những cam kết chung1 - Hai bên cam kết thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng này, nếu những nội dung khác đã quy định trong pháp luật Nhà nước không ghi trong hợp đồng này, hai bên cần tôn trọng chấp hành.2 - Nếu có tranh chấp xảy ra, hai bên sẽ giải quyết bằng thương lượng.3 - Nếu tự giải quyết không thỏa mãn, hai bên sẽ chuyển vụ việc tới Tòa án nhân dân… nơi hai bên vay cư trú.Điều 7: Hiệu lực của hợp đồngHợp đồng này có hiệu lực từ ngày … tháng … năm … đến ngày … tháng … năm …Hợp đồng này được lập thành … bản. Mỗi bên giữ … bản.ĐẠI DIỆN BÊN A  ĐẠI DIỆN BÊN BChức vụ     (Ký tên, đóng dấu)                                                                              
avatar
Trần Thành GĐ
511 ngày trước
Bài viết
HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
MỘT SỐ BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢNThS. TRẦN LINH HUÂN ThS. NGUYỄN PHẠM THANH HOAHiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những quy định tương đối cụ thể về hợp đồng nói chung và hợp đồng vay tài sản nói riêng. Tuy nhiên, quy định điều chỉnh về loại hợp đồng này vẫn còn một số bất cập, vướng mắc liên quan đến đối tượng, hình thức hợp đồng, nghĩa vụ chứng minh việc giao tiền khi thực hiện hợp đồng, lãi suất vay; từ đó đặt ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật nhằm áp dụng thống nhất, hiệu quả trong thực tiễn.Quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sảnCăn cứ Điều 463 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 thì hợp đồng vay tài sản được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Hợp đồng vay tài sản có một số đặc điểm sau:Hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng song vụ hoặc hợp đồng đơn vụ. Theo đó, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng song vụ khi mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau (Điều 402 BLDS năm 2015); có nghĩa là, quyền lợi của bên này là nghĩa vụ của bên kia, có tính chất “có đi, có lại”, thời điểm hợp đồng phát sinh hiệu lực cũng đồng thời phát sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Ngược lại, hợp đồng vay tài sản sẽ là hợp đồng đơn vụ khi thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm bên vay chuyển giao tài sản cho bên cho vay, kể từ thời điểm này mới phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể.Đối tượng của hợp đồng vay tài sản là các loại tài sản mà cá nhân, tổ chức được phép sở hữu. Tài sản theo quy định là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản (Điều 105 BLDS năm 2015). Tuy nhiên, không phải tài sản nào được liệt kê trên cũng đều thuộc đối tượng điều chỉnh của hợp đồng vay tài sản. Bởi đối tượng của hợp đồng vay tài sản phải là các động sản. Ngoài ra, không phải động sản nào cũng có thể trở thành đối tượng của hợp đồng vay tài sản, bên cạnh các điều kiện chung về tính hợp pháp, động sản chỉ có thể là một khoản tiền hoặc vật cùng loại. Điều này đồng nghĩa rằng, các loại vật khác như vật đặc định, vật không tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng vay tài sản, chúng chỉ có thể là đối tượng của hợp đồng thuê hoặc hợp đồng mượn tài sản. Bên cạnh đó, tài sản cho vay phải là tài sản thuộc quyền sở hữu, quản lý, chiếm hữu, sử dụng hợp pháp của bên cho vay.Về hình thức hợp đồng: Theo quy định thì khi giao kết, hình thức hợp đồng dân sự mà các bên tham gia có thể áp dụng là bằng miệng, bằng văn bản, bằng hành vi, bằng thông điệp dữ liệu (Điều 119 BLDS năm 2015). Như vậy, hợp đồng vay tài sản cũng sẽ có những hình thức trên và các bên sẽ được tự do thỏa thuận lựa chọn hình thức phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế của nội dung hợp đồng. Tuy nhiên, thực tế, để hạn chế tranh chấp, các bên tham gia vào hợp đồng nên lựa chọn hình thức bằng văn bản. Bởi hình thức bằng miệng chỉ nên áp dụng đối với những trường hợp cho vay với giá trị tài sản không lớn hoặc giữa các bên có mối quan hệ thân thiết. Một khi tranh chấp xảy ra, những hợp đồng vay tài sản bằng miệng thường rất khó chứng minh, xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các bên.Đối với việc xác định thời điểm chuyển rủi ro trong hợp đồng vay tài sản, về nguyên tắc, ai là chủ sở hữu tài sản thì phải gánh chịu rủi ro đối với tài sản của mình. Các bên có thể thỏa thuận cụ thể về thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản trong hợp đồng vay. Nếu trong quá trình giao kết, các bên không thỏa thuận thì khi bên vay tài sản nhận tài sản cho vay sẽ là thời điểm chuyển rủi ro. Hợp đồng vay tài sản là một loại hợp đồng chuyển quyền sở hữu nên khi bên vay nhận tài sản cũng chính là thời điểm bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản và phải gánh chịu mọi rủi ro liên quan (nếu trường hợp không thỏa thuận về thời điểm chuyển rủi ro).Về phân loại, hợp đồng vay tài sản gồm hợp đồng vay không kỳ hạn và hợp đồng vay có kỳ hạn. Hợp đồng vay không kỳ hạn (có lãi và không có lãi) là loại hợp đồng mà bên cho vay có quyền đòi lại tài sản và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý. Còn đối với hợp đồng vay có kỳ hạn (có lãi và không có lãi), nghĩa vụ của bên vay phụ thuộc vào kỳ hạn mà hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.Bất cập trong quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sảnThực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về hợp đồng vay tài sản cho thấy một số hạn chế, bất cập sau đây:Thứ nhất, về đối tượng của hợp đồng vay tài sản. Trên thực tế, đối tượng của hợp đồng này thường là tiền, vì đây là tài sản trao đổi ngang giá chung cho mọi hàng hóa, thuận tiện cho việc trao đổi và thanh toán khi trả nợ. Tuy nhiên, đối tượng của hợp đồng vay tài sản là tiền trong một số trường hợp lại mâu thuẫn với văn bản pháp luật khác. Chẳng hạn, Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) quy định mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự khác của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trường hợp được phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Có thể thấy, ngoại hối là đối tượng bị hạn chế trong các giao dịch. Ngoại hối cũng là tiền. Do vậy, hiện việc quy định đối tượng của hợp đồng vay tài sản chưa thật sự rõ ràng, nhầm lẫn giữa hai đối tượng là tiền và ngoại hối. Một vấn đề khác cũng được đặt ra: Tài sản hình thành trong tương lai có được xem là đối tượng của hợp đồng vay tài sản không?Thứ hai, về hình thức của hợp đồng vay tài sản. Như đã đề cập, hình thức hợp đồng vay tài sản do các bên thỏa thuận lựa chọn một trong các hình thức của hợp đồng dân sự nói chung. Tuy nhiên, luật không quy định khi nào hợp đồng vay tài sản được giao kết bằng miệng, khi nào được giao kết bằng văn bản, bằng hành vi hay bằng thông điệp dữ liệu. Do vậy, trên thực tế, đa phần các tranh chấp đều phát sinh đối với trường hợp giao kết hợp đồng vay tài sản bằng miệng vì các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng này thường dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau nên họ thường chỉ vay mượn bằng lời nói, chỉ đến khi có mâu thuẫn và phát sinh tranh chấp, các bên lại không có giấy vay để chứng minh.Ví dụ: Ngày 26/12/2016, chị L vay của bà U 20 triệu đồng, thời hạn trả ngày 26/01/2017, có giấy vay tiền do chị L ký. Trong giấy vay tiền không thỏa thuận lãi suất, nhưng có thỏa thuận bằng miệng lãi suất là 3.000 đồng/ 01 triệu/ 01 ngày. Đến hạn trả nợ, chị L chỉ trả được cho bà U 03 tháng lãi theo thỏa thuận với số tiền là 5,4 triệu đồng và không trả được tiền gốc. Bà U khởi kiện yêu cầu chị L phải có nghĩa vụ trả cho bà U số tiền vay gốc và tiền lãi. Tuy nhiên, chị L không đồng ý với yêu cầu trả lãi suất bằng miệng vì cho rằng lãi suất cao. Nếu bà U và chị L có thỏa thuận trong hợp đồng về lãi suất thì sẽ có cơ sở rõ ràng để giải quyết. Trong vụ án này, Tòa án lựa chọn cách giải quyết có lợi cho chị L, tức là sẽ đối trừ số tiền lãi đã trả vào tiền lãi theo quy định của pháp luật, nếu còn thì trừ vào số tiền vay gốc.Thứ ba, về nghĩa vụ chứng minh việc giao tiền, trong thực tiễn còn nhiều ý kiến trái chiều. Theo nội dung vụ án, phía nguyên đơn là bà D trình bày: “Do có quan hệ làm ăn nên bà C và bà D cho nhau vay mượn tiền nhiều lần. Năm 2010, bà C hỏi vay tiền nhưng bà D gửi tại ngân hàng chưa đến hạn rút. Ngày 05/3/2010, bà D làm thủ tục thế chấp sổ tiết kiệm để vay số tiền hơn 700 triệu đồng đưa cho bà C. Hai bên đã lập khế ước vay có nội dung thể hiện số tiền vay, mục đích vay, thời hạn vay, lãi suất và giao nhận tiền tại nhà ông H nhưng ông H không chứng kiến việc giao nhận này. Đến cuối năm 2020, bà D khởi kiện ra Tòa yêu cầu bà C trả tiền gốc và lãi theo khế ước. Tuy nhiên, phía bà C trình bày: “Yêu cầu của nguyên đơn không có cơ sở, vì bà có hỏi vay tiền nhưng bà D nói không có tiền mặt mà chỉ có tiền gửi ngân hàng. Nếu bà C chắc chắn vay thì bà D sẽ đi rút tiền. Bà D yêu cầu bà C viết khế ước vay và hẹn sẽ đưa tiền cho bà C sau khi viết khế ước từ 01, 02 ngày. Trong bản khế ước không có nội dung đã giao nhận tiền. Sau khi viết tờ giấy đó, bà C không có nhu cầu vay nữa nên không hỏi bà D về số tiền này, do sơ suất nên bà cũng không yêu cầu bà D hủy bỏ bản khế ước. Hai bên tiếp tục làm ăn với nhau, bà D từng mua nhà và vay tiền của bà C (ngày 13/9/2010, bà C cho bà D vay 600 triệu đồng) mà không nhắc gì đến bản khế ước đó”. Đối với vụ án này, có hai quan điểm trái chiều: (1) Không đủ cơ sở để khẳng định bà D đã giao tiền cho bà C vay; (2) Có đủ cơ sở để xác định bà D cho bà C vay tiền dựa trên lời thừa nhận của bà C.Thứ tư, về lãi suất vay trong hợp đồng vay tài sản. Về cách tính lãi suất trong hợp đồng vay tài sản, BLDS năm 2015 quy định cụ thể tại Điều 468 như sau: “1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. 2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”. Căn cứ quy định này thì mức lãi suất quy định tại khoản 2 được tính bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1, tức là 10%/năm (tương ứng với 0,83%/tháng). Theo khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015, bên cạnh tiền gốc thì bên vay còn có trách nhiệm thanh toán cho bên cho vay các khoản lãi. Và mức lãi suất cho vay theo quy định mang tính cố định là 20%, sẽ không dao động tăng, giảm hay phụ thuộc vào Ngân hàng Nhà nước. Quy định này đảm bảo sự minh bạch, dễ áp dụng, tuy nhiên, vẫn gây khó khăn trong việc xác định chính xác khoản tiền vay tại từng thời điểm trong trường hợp bên cho vay liên tục nhập các khoản lãi suất vào nợ gốc và yêu cầu bên vay phải trả lãi trên toàn bộ số nợ đó. Khi đó, một câu hỏi đặt ra là, việc áp dụng lãi suất 20%/năm cho khoản vay vào thời điểm nào mới phù hợp và số tiền nào được gọi là khoản tiền vay.Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luậtĐể khắc phục những vướng mắc, bất cập nêu trên, theo chúng tôi, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh về hợp đồng vay tài sản theo hướng sau:Một là, về đối tượng của hợp đồng vay tài sảnCần quy định rõ ràng rằng ngoại hối sẽ bị giới hạn trong những trường hợp nào hoặc những điều kiện nào để ngoại hối trở thành đối tượng của hợp đồng vay tài sản. Về điều kiện, theo tác giả, để ngoại hối là đồng USD hoặc ngoại tệ khác trở thành đối tượng của hợp đồng vay tài sản thì nó phải được quy đổi sang tiền Việt Nam đồng. Đối với việc tài sản được hình thành trong tương lai có được xem là đối tượng của hợp đồng vay tài sản không, phải phụ thuộc vào sự đảm bảo của bên cho vay. Nếu bên cho vay có đảm bảo rằng, trong tương lai, số tiền hoặc tài sản đó sẽ được hình thành và thuộc phạm vi giá trị mà bên vay vay thì tài sản đó sẽ được xem là đối tượng của hợp đồng vay tài sản. Ngược lại, nếu bên cho vay không đảm bảo được số tiền hoặc tài sản đó sẽ được hình thành hoặc trong trường hợp có sự cam kết cho vay nhưng tài sản đó không hình thành hay hình thành không đủ thì cũng không được xem là đối tượng của loại hợp đồng này.Hai là, về hình thức của hợp đồng vay tài sảnPháp luật hiện hành không quy định cụ thể khi nào các bên giao kết hợp đồng bằng miệng, khi nào bằng văn bản, bằng hành vi cụ thể hay bằng thông điệp dữ liệu; dẫn đến áp dụng tùy nghi. Tuy nhiên, khi xảy ra tranh chấp thì việc chứng minh đối với hình thức bằng miệng rất khó khăn do không có căn cứ chính xác để chứng minh quyền và nghĩa vụ của các bên dẫn đến quyền lợi của bên cho vay bị ảnh hưởng khi bên vay từ chối nghĩa vụ trả nợ. Do đó, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về giá trị tài sản khi vay để các bên có căn cứ lựa chọn hình thức thích hợp, giảm thiểu tối đa rủi ro và tranh chấp có thể xảy ra. Quy định này nên được điều chỉnh theo hướng bắt buộc nhưng vẫn có hướng áp dụng linh hoạt mà không phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của các chủ thể.Trên thế giới, pháp luật một số nước có quy định về hình thức của hợp đồng vay tài sản như: Điều 653 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định nếu vay quá 50 bat thì phải lập văn bản; Điều 197 Luật Hợp đồng Trung Quốc quy định việc vay tiền dùng hình thức văn bản, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Để phù hợp với thực tiễn và bảo đảm nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận đang được pháp luật ghi nhận, theo chúng tôi, có thể quy định: Số tiền vay có giá trị từ 04 triệu đồng trở lên thì phải lập thành văn bản (cũng để phù hợp với yếu tố định lượng được quy định trong cấu thành tội phạm tương ứng của Bộ luật Hình sự). Cụ thể, cần bổ sung hướng dẫn về hình thức của hợp đồng vay tài sản như sau:Hợp đồng vay tài sản có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản Trường hợp hợp đồng vay tài sản có giá trị từ 04 triệu đồng trở lên thì phải lập thành văn bản.Trường hợp hợp đồng vay tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên thì bên vay phải thực hiện biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được quy định trong luật này và hợp đồng vay phải được công chứng, chứng thực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.Ngoài ra, cần bổ sung hướng dẫn về việc giao kết hợp đồng bằng phương tiện điện tử được truyền tải thông qua thông điệp dữ liệu. Đây là hình thức không mới vì đã được Luật giao dịch điện tử năm 2005 điều chỉnh. Tuy nhiên, việc áp dụng vẫn còn hạn chế do tính phức tạp của thao tác công nghệ, người dân đã quen với cách thức giao kết truyền thống và lo ngại về tính bảo mật. Do đó, việc bổ sung những hướng dẫn liên quan là cần thiết.Ba là, về vấn đề chứng minh nghĩa vụ giao tiền của bên cho vay đối với bên vayNhư tình huống được đưa ra ở trên, việc chứng minh bà D đã giao tiền cho bà C vay hay chưa vẫn không rõ ràng: Nên căn cứ vào chứng cứ là giấy tờ, văn bản trong quá trình cho vay hay căn cứ vào lời nói của bà C (người đi vay)? Theo chúng tôi, có đủ căn cứ khẳng định bà D đã giao tiền cho bà C, vì mặc dù không có chứng cứ chứng minh hai bên đã giao nhận tiền và cũng không có người chứng kiến việc giao nhận tiền nhưng chính bà C thừa nhận đã viết bản khế ước vay tiền, thừa nhận chữ ký tại bản tất toán bản kê gốc lãi và số tiền bà D rút đúng bằng số tiền ghi trên bản khế ước (Bà D cũng thừa nhận). Khi chủ thể tham gia trong quan hệ hợp đồng cho vay thừa nhận trên thực tế đã cho vay và giao nhận tiền thì cũng đồng nghĩa rằng, bên cho vay đã giao tiền cho bên vay. Trong trường hợp này, cần đảm bảo lợi ích của bên cho vay vì đây là đối tượng dễ gặp rủi ro hơn so với bên vay.Nguồn bài viết: https://tapchitoaan.vn/mot-so-bat-cap-va-kien-nghi-hoan-thien- ve-hop-dong-vay-tai-san8213.html QUY ĐỊNH VỀ THỜI GIAN HỢP LÝ TRONG HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢNKHÔNG KỲ HẠNNGUYỄN CHẾ LINH(Tòa án nhân dân Tp Cần Thơ)Đối với trường hợp, bên vay và bên cho vay có ấn định khoảng thời gian phải hoàn trả kể từ ngày một trong các bên thông báo dài hơn 03 tháng thì có hợp pháp hay không? Nếu thời hạn này dài hơn 03 tháng thì có được chấp nhận hay không?Quy định pháp luật về “Thời gian hợp lý” trong hợp đồng vay tài sản không kỳ hạnVề thực hiện hợp đồng vay tài sản không kỳ hạn, Điều 474 BLDS năm 1995, Điều 477 BLDS năm 2005 và Điều 469 BLDS năm 2015 đều chia làm hai loại (hợp đồng có lãi và hợp đồng không có lãi) và nội dung các điều luật hoàn toàn giống nhau.Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và không có lãi, thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào, nhưng phải báo cho nhau biết trước trong một thời gian hợp lý, nếu không có thoả thuận khác[1].Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn và có lãi, thì bên cho vay có quyền đòi lại tài sản bất cứ lúc nào nhưng phải báo trước cho bên vay trong một thời gian hợp lý và được trả lãi đến thời điểm nhận lại tài sản, còn bên vay cũng có quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào và chỉ phải trả lãi cho đến thời điểm trả nợ, nhưng cũng phải báo trước cho bên cho vay trong một thời gian hợp lý.[2]Trước đây, BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005 và văn bản hướng dẫn dưới luật cũng không hướng dẫn thời gian hợp lý trong hợp đồng vay tài sản không kỳ hạn. Hiện nay, “Thời gian hợp lý” quy định tại Điều 474 của BLDS năm 1995, Điều 477 của BLDS năm 2005, Điều 469 của BLDS năm 2015 do Tòa án căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xem xét, quyết định nhưng không quá 03 tháng kể từ ngày thông báo. [3] Ý nghĩa của việc xác định “thời gian hợp lý” trong hợp đồng vay tài sản không kỳ hạn là nhằm tính lãi đối với việc chậm trả nợ gốc sẽ bắt đầu từ thời điểm nào. Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 01) thì thời gian chậm trả nợ gốc bắt đầu kể từ ngày tiếp theo liền kề của ngày hết “thời gian hợp lý” đến thời điểm xét xử sơ thẩm. Phạm vi hướng dẫn của Nghị quyết 01 là chỉ đối với hợp đồng vay tiền. Do vậy, bài viết có nội dung xoay quanh hướng dẫn tại Nghị quyết 01 này.Bàn về quy định “Thời gian hợp lý” trong hợp đồng vay tài sản không kỳ hạn của Nghị quyết 01Thời gian hợp lý được tính bắt đầu từ ngày thông báo. Thời gian hợp lý có thể là thời gian mà bên vay có mong muốn trả lại tài sản vay hoặc là thời gian bên cho vay muốn đòi lại tài sản vay. Các bên có quyền đưa hoặc không đưa nội dung thỏa thuận vào hợp đồng.Đối với trường hợp, bên vay và bên cho vay có ấn định khoảng thời gian phải hoàn trả kể từ ngày một trong các bên thông báo. Khoảng thời gian này lớn hơn 03 tháng. Vậy, thỏa thuận này có hợp pháp hay không?Đối với trường hợp các bên trong hợp đồng vay tài sản không thỏa thuận thời gian hợp lý để hoàn trả tài sản vay nhưng trong quá trình thực hiện hợp đồng, một trong các bên đã thông báo cho bên còn lại thời hạn hoàn trả tài sản vay và được bên kia tiếp nhận và đồng ý. Nếu thời hạn này dài hơn 03 tháng thì có được chấp nhận hay không?Chúng ta có thể thấy rằng, việc thỏa thuận về thời hạn của thông báo hoàn trả tài sản vay là một nội dung quan trọng của hợp đồng vay tài sản. Việc bên vay muốn trả lại tài sản vay vào bất cứ thời điểm nào mà được bên vay đồng ý. Đồng thời, việc bên cho vay muốn lấy lại tài sản vay bất cứ tài sản vay khi nào nếu được bên vay đồng ý. Đây được coi là các bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng hoặc thực hiện một phần hợp đồng vay trên cơ sở tự nguyện của các bên. Với nguyên tắc, cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng[4]. Việc thỏa thuận “thời hạn hợp lý” trong hợp đồng vay tài sản là hoàn toàn hợp pháp. Do vậy, việc các bên ấn định thời gian này trong hợp đồng hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng một cách tự nguyện thì thời gian này dài hơn 03 tháng là phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự.Từ những phân tích trên chúng tôi cho rằng, việc Nghị quyết 01 giới hạn “Thời gian hợp lý” quy định tại Điều 474 của BLDS năm 1995, Điều 477 của BLDS năm 2005, Điều 469 của BLDS năm 2015 không quá 03 tháng kể từ ngày thông báo là hạn chế quyền tự do, tự nguyện và quyền tự định đoạt của các bên trong việc giao kết và thực hiện giao dịch dân sự.Kiến nghịViệc thực hiện hợp đồng vay, không phải lúc nào các bên đều có thỏa thuận rõ về thời gian hợp lý để trả nợ. Thông thường, khi bên cho vay yêu cầu bên vay trả nợ mà bên vay không trả thì bên cho vay khởi kiện đến Tòa án. Đồng thời, việc thông báo này thường được thực hiện bằng lời nói. Do đó, khi được hỏi về thời điểm bên cho vay báo trước cho bên vay thời điểm trả nợ thì bên cho vay cũng không chứng minh được, hoặc thời hạn thông báo cụ thể là bao nhiêu cũng không thống nhất.Để giải quyết vụ án, Tòa án phải xác định được “Thời gian hợp lý” để từ đó xác định được thời gian chậm trả nợ gốc. Tuy nhiên, nếu không xác định được các thời hạn này do thực tế tranh chấp như trên thì Tòa án cần phải có một hướng dẫn cụ thể để xác định thời hạn này. Lúc này, hướng dẫn về giới hạn “Thời gian hợp lý” không quá 03 tháng theo Nghị quyết 01 là hợp lý.Do vậy, chúng tôi kiến nghị sửa đổi bổ sung điểm a khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết 01 như sau: “Đối với hợp đồng vay không kỳ hạn thì thời gian chậm trả nợ gốc bắt đầu kể từ ngày tiếp theo liền kề của ngày hết “thời gian hợp lý” đến thời điểm xét xử sơ thẩm. “Thời gian hợp lý” quy định tại Điều 474 của BLDS năm 1995, Điều 477 của BLDS năm 2005, Điều 469 của BLDS năm 2015 do các bên thỏa thuận trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp có tranh chấp về “Thời gian hợp lý” thì thời gian này do Tòa án căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xem xét, quyết định nhưng không quá 03 tháng kể từ ngày thông báo”.Tài liệu tham khảo:Khoản 1 Điều 469 Bộ luật dân sự năm 2015Khoản 2 Điều 469 Bộ luật dân sự năm 2015Điểm a khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.Khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015Nguồn bài viết: https://tapchitoaan.vn/quy-dinh-ve-thoi-gian-hop-ly-trong-hop- dong-vay-tai-san-khong-ky-han VƯỚNG MẮC VỀ CÁCH TÍNH LÃI QUÁ HẠN TRONG HỢP ĐỒNG VAY KHÔNG PHẢI LÀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNGLÊ THỊ THANH XUÂNPhòng 9 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh)Vấn đề lãi quá hạn hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về áp dụng pháp luật để xét xử vụ án, từ đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự khi có tranh chấp xảy ra. Bài viết đề cập chủ yếu đến vấn đề vướng mắc trong cách tính lãi quá hạn trong hợp đồng vay tài sản không phải là hợp đồng tín dụng.Lãi suất trong hợp đồng vay tài sản đã được BLDS năm 2015 quy định gồm 3 loại lãi: lãi trong hạn, lãi chậm trả và lãi quá hạn phần nào giải quyết được vấn đề về lãi trong hợp đồng vay xảy ra trong thực tiễn hiện nay.Theo điểm b khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015 quy định:“Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.Điểm c khoản 2 Điều 5 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC quy định: “Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% mức lãi suất vay do các bên thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Mức lãi suất trên nợ gốc quá hạn do các bên thỏa thuận không được vượt quá 150% mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tiền lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả = (nợ gốc quá hạn chưa trả) x (lãi suất do các bên thỏa thuận hoặc 150% lãi suất vay do các bên thỏa thuận) x (thời gian chậm trả nợ gốc)”.Giả sử: Trường hợp ngày 01/02/2019 A cho B vay số tiền 100.000.000 đồng, thời hạn 5 tháng, lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng là 5%/tháng ngoài ra không có thỏa thuận khác về lãi quá hạn và trong thời gian vay B đã trả lãi cho A được 5 tháng bằng 25.000.000 đồng, hết hạn 5 tháng B không trả tiền gốc 100.000.000 đồng và A cũng không đòi. Ngày 01/02/2021 A khởi kiện ra Tòa yêu cầu Tòa án giải quyết buộc B trả số tiền 100.000.000 đồng và lãi quá hạn theo quy định của pháp luật. Ngày 01/4/2021 Tòa án nhân dân tỉnh TC giải quyết tuyên xử: Buộc B trả cho A số tiền 142.330.000 đồng, trong đó (tiền gốc 1.000.000.000 đồng và lãi quá hạn là 42.330.000 đồng).Quan điểm thứ nhất:Do các bên không có thỏa thuận lãi quá hạn là bao nhiêu phần trăm, nên áp dụng khoản 2 Điều 13 Nghị quyết 01/2019 quy định:“Mức lãi suất hai bên thỏa thuận” hướng dẫn tại khoản 1 điều này là mức lãi suất nợ quá hạn các bên thỏa thuận trong hợp đồng hoặc tại Tòa án. Trường hợp, các bên không có thỏa thuận về mức lãi suất nợ quá hạn thì mức lãi suất nợ quá hạn bằng 150% mức lãi suất trong hạn”. Như vậy, lãi suất quá hạn là 2,49%/tháng (lãi trong hạn là 1,66 x 150%).Quan điểm thứ hai:Lãi suất quá hạn sẽ được tính bằng 1,66% vì đây hợp đồng vay có lãi các bên đã có thỏa thuận trong hợp đồng vay, mặt dù lãi suất thỏa thuận 5%/tháng là vượt khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015, nhưng trong hợp đồng đã có thỏa thuận nên phải được kéo về lãi thỏa thuận là 1,66%/tháng cũng như cách tính lãi quá hạn của Nghị quyết 01/2019 thì phải là lãi suất thỏa thuận hoặc 150% lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Như vậy, trong trường hợp này các bên đã thỏa thuận lãi vay thì phải áp dụng lãi suất 1,66%/tháng.Lãi suất = 100.000.000 đồng x 1,66% x 17 tháng = 28.220.000 đồng.Quan điểm thứ ba:Trong hợp đồng vay trên các bên có thỏa thuận lãi suất, nhưng chỉ thỏa thuận lãi suất trong hạn cho vay, còn lãi suất quá hạn không có thỏa thuận trong hợp đồng, nên không tính lãi suất quá hạn mà phải tính lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ (lãi 0.83%/tháng) áp dụng khoản 2 Điều 357 BLDS năm 2015.Khoản 2 Điều 357 BLDS năm 2015 quy định: “Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này”Lãi quá hạn = 100.000.000 đồng x 0.83% x 17 tháng = 14.110.000 đồngTác giả đồng tình với quan điểm thứ ba hợp đồng vay mặt dù có thỏa thuận lãi suất, nhưng không có thỏa thuận lãi suất quá hạn thì sẽ tính lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (lãi 0,83%/tháng). Lãi quá hạn được quy định bằng cụm từ “bằng 150% mức lãi suất vay do các bên thỏa thuận trong hợp đồng” và “trừ trường hợp có thỏa thuận khác” được hiểu là lãi quá hạn các bên được thỏa thuận và thỏa thuận này không được vượt quá 150% lãi suất trong hạn mà các bên thỏa thuận (tức là 2,49%/tháng). Quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai, tác giả không đồng tình đối với quan điểm thứ nhất tính lãi suất 2,49% áp dụng vào khoản 2 Điều 13 Nghị quyết 01/2019 là không phù hợp, vì Điều 13 Nghị quyết 01/2019 quy định về lãi suất chậm thi hành án của đương sự trong bản án, quyết định của Tòa án trong khi điểm c khoản 2 Điều 5 Nghị quyết 01/2019 quy định về lãi trong hợp đồng vay. Còn quan điểm thứ hai cũng chưa phù hợp, vì trong hợp đồng các bên chỉ thỏa thuận lãi vay trong hạn và hơn nữa lãi suất 5%/tháng là vượt cũng không có quy định pháp luật nào để tính lãi suất đã thỏa thuận trong hạn làm căn cứ tính cho lãi quá hạn và lãi suất vượt đó được kéo về bằng với lãi suất thỏa thuận 1,66%/tháng để giải quyết vụ án.Cả ba quan điểm trên, cho thấy việc áp dụng pháp luật để tính lãi suất quá hạn chênh lệch rất lớn làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án. Vì vậy, thiết nghĩ cần thiết phải có văn bản hướng dẫn thống nhất, cụ thể trong công tác xét xử.Nguồn bài viết: https://tapchitoaan.vn/vuong-mac-ve-cach-tinh-lai-qua-han- trong-hop-dong-vay-khong-phai-la-hop-dong-tin-dung VƯỚNG MẮC VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN LÀ VÀNGDƯƠNG TẤN THANH(Thẩm phán TAND tx Duyên Hải, Trà Vinh)Vàng theo quy định của pháp luật được coi là một loại tài sản. Cá nhân được quyền sở hữu loại tài sản này. Thế nên giao dịch cho vay vàng giữa các cá nhân với nhau trong xã hội hiện nay cũng khá phổ biến. Tuy nhiên, hiện nay thực tiễn giải quyết các vụ án tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản là vàng đường lối giải quyết vẫn còn khác nhau. Vấn đề chính là vay vàng thì khi giải quyết Tòa án yêu cầu trả lại vàng hay quy đổi vàng thành tiền.Năm 2004, bà A cho bà B vay 20 chỉ vàng 24K. Theo thỏa thuận hàng tháng bà B phải đóng lãi cho bà A 01 chỉ vàng 24K. Thời gian trả là không xác định thời hạn. Năm 2019, bà B cần tiền nên có yêu cầu bà A phải trả lại 20 chỉ vàng đã mượn. Hạn chót là cuối năm 2019. Tuy nhiên do bà B không trả được vàng theo yêu cầu của bà A nên bà A khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện X yêu cầu bà B trả số 20 chỉ vàng, không yêu cầu tính lãi. Quá trình giải quyết, bà B thừa nhận còn nợ bà A 20 chỉ vàng nhưng cho rằng đã đóng lãi cho bà A quá nhiều nên không đồng ý trả vàng theo yêu cầu của bà A. Qua vụ án này có các quan điểm giải quyết vụ án như sau:Quan điểm thứ nhất cho rằng: Theo quy định tại Điều 4 của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (Nghị định số 24/2012/NĐ-CP) thì Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất quản lý các hoạt động kinh doanh vàng và cá nhân chỉ được thực hiện các hoạt động kinh doanh vàng sau khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép và được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép. Cho nên nguyên đơn cho bị đơn vay vàng khi chưa được cấp giấy phép là không đúng quy định pháp luật. Vì vậy, Tòa án không được tuyên buộc bị đơn trả vàng cho nguyên đơn mà phải quy đổi vàng thành tiền tại thời điểm xét xử. Sau đó, Tòa án buộc bị đơn trả tiền cho nguyên đơn tương ứng với số vàng mà bị đơn có nghĩa vụ phải trả cho nguyên đơn. Đồng thời tuyên buộc bị đơn có nghĩa vụ trả tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền trong giai đoạn thi hành án.Quan điểm thứ hai cho rằng: Tại Điều 4 của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP có quy định “Quyền sở hữu vàng hợp pháp của tổ chức, cá nhân được công nhận và bảo vệ theo quy định của pháp luật”. Về phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP có quy định tại Điều 1 như sau: “Nghị định này quy định về hoạt động kinh doanh vàng, bao gồm: Hoạt động sản xuất, gia công vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng trang sức, mỹ nghệ; hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu vàng và các hoạt động kinh doanh vàng khác, bao gồm cả hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản và hoạt động phái sinh về vàng”. Như vậy, có thể khẳng định rằng hoạt động cho vay vàng giữa cá nhân với cá nhân không nằm trong phạm vi điều chỉnh của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP. Tại Điều 19 của Nghị định số 24/2012/NĐ-CP cũng có quy định rõ hành vi vi phạm các quy định của pháp luật trong hoạt động kinh doanh vàng bao gồm: “Hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ không có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh do Ngân hàng Nhà nước cấp; Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng miếng; xuất khẩu, nhập khẩu vàng nguyên liệu không có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp; Mang theo vàng khi xuất cảnh, nhập cảnh của cá nhân vượt mức quy định không có giấy phép do Ngân hàng Nhà nước cấp; Sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán; Hoạt động sản xuất vàng miếng trái với quy định tại Nghị định này; Hoạt động kinh doanh vàng khác khi chưa được Thủ tướng Chính phủ cho phép và Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép; Vi phạm các quy định khác tại Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan”. Như vậy, cho đến nay không có văn bản hay quy định nào cấm việc cá nhân cho vay vàng.Theo quy định tại Điều 471 Bộ luật Dân sự 2005 thì đến hạn trả, bên vay có nghĩa vụ phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và phải chỉ trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Do đó, Tòa án phải giải quyết buộc bà B phải có nghĩa vụ trả cho bà A số vàng còn nợ là 20 chỉ vàng 24K (do bà B thừa nhận có nợ). Tuy nhiên, Tòa án cần quy đổi mỗi chỉ vàng 24K tại thời điểm xét xử là bao nhiêu để làm căn cứ tính tiền lãi chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bị đơn trong giai đoạn thi hành án.Quan điểm thứ ba cho rằng: Tòa án chỉ được quyền buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số vàng còn nợ. Nhưng Tòa án không được quyền buộc bị đơn phải chịu lãi chậm thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn. Do pháp luật không có quy định về chậm thực hiện nghĩa vụ trả vàng mà chỉ có quy định về chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền tại Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.Nguồn bài viết: https://tapchitoaan.vn/vuong-mac-vu-an-tranh-chap-hop-dong- vay-tai-san-la-vang NHỮNG BẤT CẬP TRONG CÁC QUY ĐỊNH TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢNLÊ VĂN CƯỜNG(Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 3)BLDS năm 2015 đã có nhiều quy định mới về hợp đồng vay tài sản, đây là quy định mới theo hướng linh hoạt, mở rộng quyền năng cho các chủ thể trong quan hệ dân sự. Bên cạnh rất nhiều ưu điểm còn tồn đọng một số hạn chế làm cho các chủ thể khi lựa chọn tham gia hợp đồng dân sự cảm thấy lo lắng về những rủi ro có thể xảy ra ...Theo quy định của BLDS tại Điều 463: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chi trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”.Theo đó, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có mục đích chuyển quyền sở hữu đối với tài sản vay. Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản vay là thời điểm bên vay nhận được tài sản đó. Khi bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay, bên vay sẽ có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt số tài sản đã vay, trừ trường hợp có điều kiện của bên cho vay về sử dụng tài sản.Những ưu điểm của quy định về hợp đồng vay tài sảnVề đối tượngĐối tượng trong hợp đồng vay tài sản là một điều khoản chủ yếu, nếu không có đối tượng thì hợp đồng vay tài sản sẽ không thể giao kết được. Đối tượng trong hợp đồng vay tài sản do các bên tham gia thỏa thuận. Trên cơ sở thỏa thuận về đối tượng giữa các bên đã xác định một căn cứ pháp lý cho việc giao kết hợp đồng vay tài sản và cũng là căn cứ xác định các vấn đề xung quanh hợp đồng này. Đối tượng của hợp đồng vay tài sản thường là tiền và vật cùng loại, là các tài sản thông dụng trong giao dịch dân sự tạo điều kiện cho các bên tham gia được dễ dàng. 2.1. Về hình thứcHình thức của hợp đồng vay tài sản không được quy định cụ thể, vì vậy, hình thức của hợp đồng vay tài sản cũng chính là hình thức của giao dịch dân sự. Theo đó, Điều 119 BLDS 2015 quy định về hình thức của giao dịch dân sự:“1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụthể.Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.”Vì vậy, hình thức của hợp đồng dân sự bao gồm các loại: bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi và bằng thông điệp từ dữ liệu. Có thể thấy hình thức của hợp đồng vay tài sản rất đa dạng và phong phú tạo điều kiện cho các bên tham gia thỏa thuận chọn bất kì hình thức nào hoặc theo quy định của pháp luật. Về nguyên tắc, các bên có thể lựa chọn một trong các hình thức nói trên để giao kết hợp đồng vay tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế, hợp đồng vay tài sản thường được giao kết dưới hai hình thức là bằng lời nói và bằng văn bản. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kĩ thuật, công nghệ thì việc giao kết hợp đồng bằng hình thức thông điệp dữ liệu đã tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể có khoảng cách xa về địa lý có thể giao kết hợp đồng vay tài sản một cách nhanh chóng, tiện lợi và dễ dàng.3.1. Về cách tính lãi suất cho hợp đồng vay tài sảnTheo Điều 468 BLDS 2015, lãi suất được quy định như sau:“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác địnhrõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”Những quy định về lãi suất trong BLDS 2015 là căn cứ để đảm bảo quyền lợi của các bên trong hợp đồng vay tài sản. Trong đó, bên cho vay được đảm bảo quyền lợi về mục đích sinh lời khi cho vay tài sản của mình, còn bên vay được đảm bảo được tính lãi suất đúng theo quy định của pháp luật. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Tức lãi suất cho vay theo quy định tại BLDS 2015 mang tính “tĩnh”, nghĩa là chỉ áp đặt mức lãi suất trần cố định 20%, mức lãi suất này sẽ không dao động tăng, giảm hay phụ thuộc vào quy định của Ngân hàng Nhà nước nữa. Việc quy định mức lãi suất này có nhiều thuận lợi, như: bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng; các bên tham gia giao dịch vay tài sản có thể biết ngay hậu quả pháp lý khi ký xác lập và thực hiện hợp đồng; mức lãi suất tăng so với quy định của luật cũ không quá cao và tương đối phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội hiện nay. Ngoài ra, quy định nêu trên còn hạn chế được tình trạng cho vay lãi nặng.4.1. Về họ, hụi, biêu, phườngĐiều 471 BLDS 2015 quy định về Họ, hụi, biêu, phường như sau:“1. Họ, hụi, biêu, phường (sau đây gọi chung là họ) là hình thức giao dịch về tài sản theo tập quán trên cơ sở thỏa thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng định ra số người, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ của các thành viên.Việc tổ chức họ nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật.Trường hợp việc tổ chức họ có lãi thì mức lãi suất phải tuân theo quy định của Bộ luật này.Nghiêm cấm việc tổ chức họ dưới hình thức cho vay nặng lãi.” Mục đích chơi họ là tương trợ lẫn nhau giữa các thành viên và sinh lợi cho cá nhân có tài sản nhàn rỗi. Có thể nói đây là giao dịch hiếm hoi mà mục đích của giao dịch được pháp luật cụ thể hóa. Ngoài BLDS 2015, Nghị định của Chính phủ số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 về hụi, họ biêu, phường còn được ban hành để quy định rõ về lĩnh vực này.Những hạn chế của các quy định về hợp đồng vay tài sản1.2. Về đối tượngTừ định nghĩa hợp đồng vay theo Điều 463 BLDS 2015 cho thấy đối tượng của hợp đồng vay tài sản là tài sản. Theo Điều 105 BLDS 2015, tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai. Trong hợp đồng vay, nghĩa vụ của bên vay là hoàn trả lại cho bên cho vay tài sản cùng loại, theo đúng số lượng, chất lượng khi đến thời hạn trả. Theo Điều 113 BLDS 2015, vật cùng loại là vật có cùng hình dáng, tính chất, tính năng sử dụng và xác định được bằng đơn vị đo lường. Trong khi đó, bất động sản theo quy định tại Điều 107 BLDS 2015 là những vật đặc định, vì thế không thể trả lại một bất động sản cùng loại với bất động sản đã vay. Do đó, đã loại bỏ đối tượng bất động sản trong hợp đồng vay tài sản.Hơn nữa, trên thực tế đối tượng của hợp đồng vay tài sản thường là tiền vì tiền là tài sản trao đổi ngang giá chung cho mọi hàng hóa, tiện lợi cho việc trao đổi để thỏa mãn các nhu cầu về sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và tiện lợi cho việc thành toán khi trả nợ. Tuy nhiên, thực tế có nhiều tài sản là đối tượng của hợp đồng vay tài sản theo BLDS nhưng lại mâu thuẫn với một số văn bản pháp luật khác. Ví dụ: Theo BLDS 2015, đối tượng của hợp đồng vay tài sản bao gồm tiền mà ngoại tệ cũng là tiền. Tuy nhiên, ngoại tệ cũng là một loại ngoại hối. Tại Điều 22 Pháp lệnh Ngoại hối 2005 (Sửa đổi, bổ sung năm 2013) quy định: “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự khác của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trường hợp được phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Có thể thấy ngoại tệ là một loại ngoại hối hạn chế sử dụng. Trường hợp muốn sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch hay thanh toán phải thuộc đối tượng (đặc thù chứ không phổ biến) đã được pháp luật quy định cho phép. Mà hợp đồng vay tài sản cũng là một loại giao dịch. Từ đây dẫn đến mâu thuẫn giữa Bộ luật Dân sự 2015 với Pháp lệnh Ngoại hối 2005 (Sửa đổi, bổ sung năm 2013).2.2. Về hình thứcTrên thực tế, chỉ có một số ít vụ án tranh chấp về hợp đồng vay tài sản có hợp đồng bằng văn bản, còn lại đa số là các giấy vay tiền, giấy xác nhận nợ thường được bên vay viết hoặc ký để làm căn cứ cho để giải quyết tranh chấp, thậm chí có những vụ án tranh chấp không có bằng chứng vì hợp đồng vay tài sản được giao kết bằng lời nói. Chính vì thế không có căn cứ xác đáng nào để chứng minh quyền và nghĩa vụ của các bên, do vậy tranh chấp diễn ra Tòa án không có căn cứ để giải quyết. Hậu quả là có những trường hợp bên vay từ chối nghĩa vụ trả nợ của mình gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bên cho vay.3.2. Về lãi suất cho hợp đồng vay tài sảnTheo Điều 463 BLDS 2015, hợp đồng vay được chia thành hai loại: vay có lãi và vay không có lãi. Vay không lãi xảy ra khi các bên trong hợp đồng vay tài sản không thoả thuận và pháp luật không có quy định lãi suất đối với hợp đồng vay tài sản. Vay có lãi xảy ra khi các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.Theo đó, các bên có quyền thoả thuận lãi suất đối với hợp đồng vay tài sản. Song cả 9 điều luật về hợp đồng vay tài sản trong BLDS không có quy định về thời điểm thoả thuận và hình thức thoả thuận lãi suất. Vậy thoả thuận về lãi suất có thể xảy ra trước, trong hay sau thời điểm giao kết hợp đồng? Hình thức thoả thuận có bắt buộc bằng văn bản hay không? Hơn nữa, trong trường hợp bên cho vay liên tục nhập các khoản lãi suất vào nợ gốc và yêu cầu bên vay phải trả lãi trên toàn bộ số nợ đó. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để xác định chính xác khoản tiền vay tại từng thời điểm trong trường hợp này. Khi đó, việc áp dụng lãi suất 20%/năm (theo Điều 468) cho khoản vay vào thời điểm nào mới là phù hợp và số tiền nào được gọi là khoản tiền vay?Bên cạnh đó, Điều 468 BLDS 2015 chỉ quy định lãi suất đối với trường hợp tài sản vay là tiền, mức lãi suất đối với trường hợp tài sản vay là tiền, mức lãi suất không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Điều này cũng như cả 8 điều luật còn lại của chế định hợp đồng vay tài sản không hề nhắc đến hạn mức lãi suất trong trường hợp tài sản vay không phải là tiền. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 463 thì các bên có thể thỏa thuận lãi suất đối với tất cả các loại tài sản vay. Do đó, khi vay vật hoặc tài sản khác không phải là tiền các bên vẫn có quyền thỏa thuận lãi suất. Điều này gây khó khăn trong hợp đồng vay với đối tượng không phải là tiền và có lãi suất cũng như việc xét xử nếu có tranh chấp trong trường hợp này.Hơn nữa, quy định về lãi suất không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay được quy định tại Điều 476 BLDS không phải là quy định tuyệt đối vì việc ghi thêm cụm từ “trừ trường hợp luật khác có quy định khác”. Theo quy định này, đối với những trường hợp vay nào thì sẽ áp dụng quy định lãi suất tại BLDS năm 2015, trường hợp vay nào thì áp dụng luật khác có liên quan? Luật có liên quan trong lĩnh vực này hiện nay chỉ có Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2017. Tuy nhiên, trong các Luật này lại có quy định khác so với BLDS năm 2015. Vì vậy, các tổ chức, cá nhân có quan hệ trong hợp đồng vay tài sản và các cơ quan chức năng thực thi pháp luật khó áp dụng quy định này trên thực tế, khiến cho họ rơi vào thế lúng túng không biết áp dụng quy định của luật nào trong trường hợp đang diễn ra. Ví dụ: Theo Luật Các tổ chức tín dụng không áp dụng trần lãi suất cho vay còn theo pháp luật dân sự thì áp dụng trần lãi suất cho vay.Định hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng vay tài sản1.3. Về đối tượng của hợp đồng vay tài sảnChúng tôi cho rằng cần sửa đổi BLDS 2015 theo hướng quy định rõ hơn về đối tượng của hợp đồng vay tài sản sao cho việc áp dụng không bị nhầm lẫn bởi sự hạn chế về đối tượng và hoàn thiện sao cho quy định ở BLDS để không bị mâu thuẫn với các quy định ở những văn bản pháp luật khác.2.3. Về hình thứcPháp luật một số nước khác quy định về hình thức của hợp đồng vay tài sản như: Điều 653 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định nếu vay quá 50 bat thì phải thành lập văn bản; Điều 197 Luật Hợp đồng Trung Quốc quy định việc vay tiền dùng hình thức văn bản, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế, xã hội ở thời điểm hiện tại và cũng để duy trì bảo đảm nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận đang được pháp luật ghi nhận nên cần quy định số tiền vay có giá trị từđồng trở lên thì phải lập thành văn bản (cũng để phù hợp với yếu tố định lượng được quy định trong cấu thành tội phạm tương ứng của BLHS). Theo đó sung thêm điều luật trong mục các quy định về Hợp đồng vay tài sản như sau:Hình thức của hợp đồng vay tài sảnHợp đồng vay tài sản có thể bằng lời nói hoặc bằng văn bản.Trường hợp hợp đồng vay tài sản có giá trị từ 4.000.000 đồng trở lên thì phải lập thành văn bản.Trường hợp hợp đồng vay tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên thì bên vay phải thực hiện biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được quy định trong luật này và hợp đồng vay phải được công chứng, chứng thực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.3.3. Về lãi suất+ Bổ sung các quy định về thời điểm và hình thức thoả thuận lãi suất+ Sửa đổi, bổ sung các quy định về cách tính lãi suất đối với đối tượng của hợp đồng vay tài sản không phải là tiền (vật, giấy tờ có giá,...) vì hợp đồng vay vẫn cho phép thỏa thuận về lãi suất đối với vay các tài sản khác. Cụ thể là khi quy định về lãi suất cần lưu ý về mức lãi suất 20%/năm của khoản tiền vay, cần mở rộng quy định này đối với các tài sản khác hoặc quy định mức lãi suất đối với các tài sản khác hoặc bỏ vấn đề tính lãi suất đối với việc vay tài sản khác chỉ giữ lại lãi suất quá hạn đối với việc vay tài sản. + Thống nhất các quy định về cách tính lãi suất ở các văn bản pháp luật khác nhau nhưng quy định chung về một lĩnh vực để tránh rắc rối khi tranh chấp, tránh vấn đề tranh cãi là lãi suất phải áp dụng theo BLDS năm 2015 hay áp dụng trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.+ Bổ sung những quy định về cách tính lãi suất trong trường hợp hợp đồng vay tài sản bị hủy, đơn phương chấm dứt: Các hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng nằm ngoài ba trường hợp này bị coi là hành vi vi phạm hợp đồng và bên vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật. Như vậy, theo quy định này, một bên có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Thông thường, theo nguyên tắc chung thực hiện hợp đồng thì hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng không phải là hành vi hợp pháp và bị coi là vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định, để bảo vệ quyền lợi của một bên nào đó (chủ yếu là bên bị vi phạm), pháp luật quy định quyền được đơn phương chấm dứt hợp đồng của bên đó.BLDS năm 2015 đã có nhiều quy định mới về hợp đồng vay tài sản, đây là quy định mới theo hướng linh hoạt, mở rộng quyền năng cho các chủ thể trong quan hệ dân sự. Bên cạnh rất nhiều ưu điểm còn tồn đọng một số hạn chế làm cho các chủ thể khi lựa chọn tham gia hợp đồng dân sự cảm thấy lo lắng về những rủi ro có thể xảy ra đối với mình. Vì vậy, các nhà làm luật cần sớm có những giải pháp phù hợp để hoàn thiện pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các quan hệ dân sự phát triển.Nguồn bài viết: https://tapchitoaan.vn/nhung-bat-cap-trong-cac-quy-dinh-trong- bo-luat-dan-su-nam-2015-ve-hop-dong-vay-tai-san GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN CÓ KỲ HẠN VÀKHÔNG CÓ LÃIThạc sĩ LÊ THỊ HỒNG THẮMKhoa Sư phạm và Xã hội nhân văn, Trường Đại học Kiên GiangHUỲNH MINH KHÁNHTAND huyện Cái Bè, tỉnh Tiền GiangĐối với hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn và không có tính lãi thì bên cho vay không được quyền khởi kiện đòi lại tài sản trước kỳ hạn nếu bên vay không đồng ý. Việc khởi kiện của người cho vay tài sản trong trường hợp này, thông thường Tòa án sẽ ban hành thông báo trả lại đơn khởi kiện với lý do chưa có đủ điều kiện khởi kiện vì chưa tới kỳ hạn trả nợ theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.Quy định của pháp luậtKhoản 1 Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Đối với hợp đồng vay có kỳ hạn và không có tính lãi thì bên vay có quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên cho vay một thời gian hợp lý, còn bên cho vay chỉ được đòi lại tài sản trước kỳ hạn, nếu được bên vay đồng ý”.Như vậy, đối với hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn và không có tính lãi thì bên cho vay không được quyền khởi kiện đòi lại tài sản trước kỳ hạn nếu bên vay không đồng ý. Việc khởi kiện của người cho vay tài sản trong trường hợp này, thông thường Tòa án sẽ ban hành thông báo trả lại đơn khởi kiện với lý do chưa có đủ điều kiện khởi kiện vì chưa tới kỳ hạn trả nợ theo quy định tại điểm b, khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.Bất cập từ thực tiễnNgày 27/10/2021, do là chỗ anh em ruột với nhau và ông Trần Văn H. có nhu cầu mượn tiền để làm ăn nên ông H. và ông Trần Văn T. có lập hợp đồng vay tiền với nhau. Theo đó, ông H. có vay tiền của ông T. với số tiền là 500 triệu đồng, không có tính lãi, thời hạn để ông H. trả tiền cho ông T. là 12 tháng kể từ ngày vay tiền.Tuy nhiên, đến tháng 01/2022 thì ông T. phát hiện mình bị bệnh ung thư, cần tiền để điều trị bệnh nên ông T. đã yêu cầu ông H. trả tiền trước hạn nhưng ông H. không đồng ý. Từ đó dẫn đến hai bên phát sinh tranh chấp, ông T. đã khởi kiện ông H. ra Tòa án để yêu cầu ông H. trả số tiền đã vay.Sau khi xem xét đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, Tòa án đã ban hành thông báo trả lại đơn khởi kiện của ông T. với lý do chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Sau đó, ông T. đã khiếu nại đến chánh án Tòa án hai cấp và các cấp đều giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện. Các cấp tòa đều nhận định: “Hợp đồng vay tài sản giữa ông Trần Văn H. và ông Trần Văn T. được lập vào ngày 27/10/2021 là hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn và không tính lãi nên ông T. chỉ được khởi kiện yêu cầu ông H. trả tiền trước kỳ hạn khi ông H. đồng ý theo quy định tại khoản 1 Điều 470 của Bộ luật Dân sự 2015”.Như vậy, nếu chỉ căn cứ vào khoản 1 Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì trong vụ án tranh chấp hợp đồng vay có kỳ hạn và không có lãi, bên cho vay không thể khởi kiện yêu cầu bên vay trả lại tài sản trước kỳ hạn nếu bên vay không đồng ý. Điều này đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi chính đáng của bên cho vay trong một số trường hợp như: Bên cho vay tiền cần thu hồi số tiền đã cho vay để sử dụng nhu cầu cấp bách, thiết yếu ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của gia đình người cho vay tiền hoặc trong trường hợp bên vay tiền có dấu hiệu tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ, không còn tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.Theo tác giả, việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án đối với đơn khởi kiện của ông T. là chưa thấu tình, đạt lý. Trong trường hợp này, Tòa án có thể áp dụng Điều 420 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản:“1. Hoàn cảnh thay đổi cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây: Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp đồng;Tại thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể lường trước được về sự thay đổi hoàn cảnh;Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã không được giao kết hoặc được giao kết nhưng với nội dung hoàn toàn khác;Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;đ) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích.Trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời hạn hợp lý.Trường hợp các bên không thể thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên có thể yêu cầu Tòa án:Chấm dứt hợp đồng tại một thời điểm xác địnhSửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay đổi cơ bản.Tòa án chỉ được quyết định việc sửa đổi hợp đồng trong trường hợp việc chấm dứt hợp đồng sẽ gây thiệt hại lớn hơn so với các chi phí để thực hiện hợp đồng nếu được sửa đổi.Trong quá trình đàm phán sửa đổi, chấm dứt hợp đồng, Tòa án giải quyết vụ việc, các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Theo đó, ông T. sẽ khởi kiện ông H. để yêu cầu chấm dứt hợp đồng theo quy định tại Điều 420 và Điều 422 và yêu cầu đòi lại tài sản là số tiền 500 triệu đồng. Đồng thời, Tòa án cần phải thụ lý giải quyết vụ án này để giải quyết yêu cầu cấp bách của ông T., bảo đảm sức khỏe, tính mạng của ông TĐề xuất, kiến nghịTừ thực tiễn nêu trên, thiết nghĩ Tòa án nhân dân Tối cao cần có hướng dẫn cụ thể theo hướng: Tòa án phải thụ giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn và không có lãi, khi người cho vay tài sản khởi kiện trước kỳ hạn và người vay tài sản không đồng ý để giải quyết yêu cầu cấp bách thiết yếu ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của gia đình người cho vay tài sản hoặc trong trường hợp bên vay có dấu hiệu tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ, không còn tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ.Nguồn bài viết: https://lsvn.vn/giai-quyet-tranh-chap-hop-dong-vay-tai-san-co-ky- han-va-khong-co-lai1650902524.html 7. BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015: BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH VỀ LÃI SUẤT, PHẠM VI HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN, HÌNH THỨC HỢP ĐỒNGThs. LS. LÊ VĂN SUABộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã có nhiều quy định mới về phần lãi suất trong hợp đồng vay tài sản, những quy định mới này theo hướng tăng mức lãi suất thỏa thuận và lãi suất phạt do chậm hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, điều này sẽ góp phần tạo cơ chế về lãi suất để nhằm thúc đẩy bên vay thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, bảo đảm sự tuân thủ và kỷ luật hợp đồng trong giao dịch dân sự; bảo đảm hài hòa với mục đích quy định lãi suất là một trong những công cụ để điều tiết nền kinh tế, đặc biệt đối với thị trường vốn, tiền tệ và các mục đích kinh tế, xã hội khác.Đồng thời, đây là quy định mới theo hướng linh hoạt, mở rộng quyền năng cho các chủ thể trong quan hệ dân sự, từ đó thúc đẩy các chủ thể này tham gia tích cực hơn vào các quan hệ này. Ngoài ra, việc xác định mức lãi suất cao nhất trong giao dịch vay tài sản mà BLDS năm 2015 cho phép còn có ý nghĩa trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cho vay lãi nặng quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015; cấu thành cơ bản tội phạm này dựa trên quy định về mức lãi suất của BLDS năm 2015, theo đó, trong giao dịch dân sự mà người cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS, thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng trở lên, thì hành vi này bị coi là vi phạm pháp luật hình sự.Tuy nhiên, do chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất về nhận thức và áp dụng các quy định pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng vay tài sản, dẫn đến tình trạng cùng loại tranh chấp hợp đồng tín dụng, trong đó, các bên thỏa thuận về lãi suất, thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng có tòa án xét xử chấp nhận tính lãi suất nợ quá hạn và phạt vi phạm, nhưng cũng có tòa án chỉ chấp nhận tính lãi suất nợ quá hạn mà không chấp nhận phạt vi phạm hợp đồng do phát sinh số tiền lãi chậm trả, vì cho rằng như vậy “phạt chồng phạt”. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến một số quy định của BLDS năm 2015, các văn bản pháp luật có liên quan đến lãi suất, phạt vi phạm hợp đồng vay tài sản và một số vướng mắc cần tháo gỡ.Trường hợp vay nào áp dụng lãi suất theo quy định của BLDS năm 2015?Theo quy định tại Điều 463 BLDS năm 2015, “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.Về cách tính lãi suất trong hợp đồng vay tài sản, Điều 468 BLDS năm 2015 quy định:“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.Như vậy, mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015 được tính bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này là 20%/năm nên được xác định là 10%/năm tương ứng với 0,83 %/ tháng. Theo quy định tại khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015, bên cạnh tiền gốc thì bên vay có trách nhiệm thanh toán cho bên cho vay các khoản lãi, bao gồm: lãi trên nợ gốc trong thời hạn hợp đồng vay; lãi đối với phần tiền lãi chậm trả trong thời hạn hợp đồng vay và lãi trên nợ gốc quá hạn.Mức lãi suất cho vay theo quy định tại BLDS năm 2015 mang tính “tĩnh”, nghĩa là chỉ áp đặt mức lãi suất trần cố định 20%, mức lãi suất này sẽ không dao động tăng, giảm hay phụ thuộc vào quy định của Ngân hàng Nhà nước nữa. Việc quy định mức lãi suất này có nhiều thuận lợi, như: bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng; các bên tham gia giao dịch vay tài sản có thể biết ngay hậu quả pháp lý khi ký xác lập và thực hiện hợp đồng; mức lãi suất tăng so với quy định của luật cũ không quá cao và tương đối phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội hiện nay. Ngoài ra, quy định nêu trên còn hạn chế được tình trạng cho vay lãi nặng. Tuy nhiên với quy định này, vấn đề đặt ra làm thế nào để xác định chính xác khoản tiền vay tại từng thời điểm trong trường hợp bên cho vay liên tục nhập các khoản lãi suất vào nợ gốc và yêu cầu bên vay phải trả lãi trên toàn bộ số nợ đó. Khi đó, việc áp dụng lãi suất 20%/năm cho khoản vay vào thời điểm nào mới là phù hợp và số tiền nào được gọi là khoản tiền vay?Mặt khác, theo quy định trên, đối với những trường hợp vay nào thì sẽ áp dụng quy định lãi suất tại BLDS năm 2015, trường hợp vay nào thì áp dụng luật khác có liên quan? Luật có liên quan trong lĩnh vực này hiện nay chỉ có Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2017 (có hiệu lực thi hành từ ngày 15/01/2018). Tuy nhiên, trong các Luật này lại có quy định khác so với BLDS năm 2015. Cụ thể, Điều 91 của Luật này quy định về lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, như sau:“1. Tổ chức tín dụng được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, để bảo đảm an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng”.Vấn đề được đặt ra là lãi suất vay tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc các công ty tài chính có phải áp dụng theo BLDS năm 2015 không hay áp dụng trường hợp luật khác có liên quan quy định khác? Vấn đề lãi suất khi người có nghĩa vụ chậm thi hành bản án, quyết định của tòa án khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án.Khoản 2 Điều 357 BLDS năm 2015 quy định: “Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này”; theo khoản 2 Điều 468 thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468, đó là lãi suất theo thỏa thuận không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Như vậy, đối với việc xác định lãi suất chậm thi hành bản án, quyết định của tòa án trong trường hợp tranh chấp không phải là tranh chấp hợp đồng vay tài sản thì mức lãi suất chậm trả sẽ áp dụng theo mức lãi suất nào? Khi bản án, quyết định xác định trách nhiệm của một bên đương sự có nghĩa vụ trả một khoản tiền cho bên kia, nếu áp dụng theo khoản 1 Điều 468 của BLDS năm 2015 để tính lãi suất cho các tranh chấp hợp đồng khác không phải là hợp đồng vay thì chưa phù hợp, vì khoản 1 Điều 468 tính lãi suất không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trong khi các tranh chấp hợp đồng khác không phải là khoản tiền vay.Để tháo gỡ vấn đề về lãi suất nêu trên, thiết nghĩ cần có văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về áp dụng mức lãi suất khi chậm thực hiện nghĩa vụ đối với các loại tranh chấp hợp đồng dân sự (không phải là hợp đồng vay tài sản).Phạt vi phạm hợp đồng vay tài sản, bồi thường hợp đồngTrên thực tế, nhiều hợp đồng có các quy định mức phạt không đúng với quy định nêu trên hoặc quy định chưa rõ để xác định. Chẳng hạn, có hợp đồng quy định “quá thời hạn thanh toán của các đợt 2, 3 mà bên B chưa thanh toán hết thì phải chịu lãi suất quá hạn 0,5% /ngày/số tiền chậm trả”; hoặc là “phải chịu khoản phạt bằng 0,03% mỗi ngày chậm thanh toán”; hoặc là “quá các thời hạn thanh toán bên B phải chịu phạt với lãi suất chậm trả bằng 150% của lãi vay VNĐ cho số tiền và số ngày trả chậm cùng mọi chi phí phát sinh do chậm thanh toán gây ra. Thời gian kéo dài tối đa không quá 15 ngày tiếp theo, quá thời hạn này mà bên B chưa thanh toán đủ tiền hàng cho bên A thì bên A có quyền…”. Ngoài ra, với các hợp đồng vay tiền (hợp đồng mẫu) do các công ty tài chính phát hành hiện nay, chúng ta dễ dàng bắt gặp nội dung phạt vi phạm hợp đồng như sau:Ngày đến hạn thanh toán: Là ngày quý khách có nghĩa vụ thanh toán số tiền trả góp hàng tháng cho công ty tài chính. Ngày đến hạn thanh toán hàng tháng được quy định cụ thể tại hợp đồng tín dụng… Vi phạm nghĩa vụ thanh toán: Trong trường hợp quý khách vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào quy định trong hợp đồng, quý khách sẽ bị phạt vi phạm hợp đồng với mức phạt được quy định sau đây: trường hợp vay mua hàng điện tử, điện máy gia dụng; vay mua xe máy; vay tiền mặt, mức phạt phát sinh theo từng giai đoạn khi quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của hợp đồng:Mức phạt đầu tiên nếu quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của hợp đồng kể từ ngày thứ tư sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, lần lượt là 150.000 đồng; 200.000 đồng; 250.000 đồng.Mức phạt phát sinh thêm lần hai sau mức phạt đầu tiên nếu quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của hợp đồng kể từ ngày thứ ba mươi sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, lần lượt là 250.000 đồng; 400.000 đồng;đồng.- Mức phạt phát sinh thêm lần ba sau mức phạt đầu tiên và lần hai nếu quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của hợp đồng kể từ ngày thứ sáu mươi sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, lần lượt là 250.000 đồng; 400.000 đồng; 450.000 đồng.Theo tác giả, thỏa thuận về phạt vi phạm của hợp đồng cho vay của công ty tài chính như trên, về bản chất là phạt vi phạm về trả tiền gốc và lãi, như vậy là trái với quy định của pháp luật hiện hành về lĩnh vực này. Cụ thể, BLDS năm 2015 và Thông tư 39/2016/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước quy định về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại như sauTổ chức tín dụng và khách hàng được thỏa thuận về việc phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật đối với trường hợp tổ chức tín dụng hoặc khách hàng không thực hiện đúng nội dung trong thỏa thuận cho vay, trừ trường hợp vi phạm về trả gốc, lãi. Như vậy, theo quy định này, thỏa thuận phạt vi phạm chỉ được áp dụng đối với hành vi vi phạm các nghĩa vụ của thỏa thuận cho vay (không phải là nghĩa vụ trả gốc, lãi)Tổ chức tín dụng và khách hàng có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp tổ chức tín dụng và khách hàng có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.Phạt vi phạm là một hình thức chế tài áp dụng đối với một trong các bên vi phạm nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp, tổ chức tín dụng hiểu lầm về chế tài phạt vi phạm hợp đồng với lỗi của bên vay chậm thanh toán bằng hình thức phạt lãi là không chính xác, vì như vậy là “lãi chồng lãi”.Từ các quy định của pháp luật, nghĩa vụ của bên vay tài sản có thể bao gồm: nếu vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của BLDS trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như trên đã đề cập. Các bên có thể thỏa thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng mục đích vay. Bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản và có quyền đòi lại tài sản vay trước thời hạn nếu đã nhắc nhở mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích. Về hình thức của hợp đồngKhoản 2 Điều 119 BLDS năm 2015, quy định: “Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”. Quy định này đề cập trường hợp văn bản phải tuân theo một hình thức nhất định thì mới có hiệu lực đối với các bên.Theo quy định tại khoản 1 Điều 129 BLDS năm 2015: “Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó”.Khoản 2 Điều 129 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó và trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”.Vấn đề đặt ra, rất khó để xác định thế nào là “hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch”. Cách tính tổng số nghĩa vụ trong giao dịch, sau đó xem số lượng nghĩa vụ đã thực hiện là bao nhiêu sẽ không khả thi nếu như trong số các nghĩa vụ đó có những nghĩa vụ không phân chia được theo phần hoặc danh sách các nghĩa vụ mà hợp đồng nêu chỉ mang tính chất liệt kê và là danh sách mở.Có thể thấy, xuất phát điểm của việc đưa ra quy định này là để hạn chế tình trạng các bên lợi dụng quy định vi phạm về hình thức của giao dịch nhằm yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Điển hình là đối với các giao dịch liên quan đến bất động sản bằng giấy viết tay trước đây khi bên mua đã thanh toán, bên bán đã nhận tiền và giao nhà, đất nhưng vì vướng quy định về hình thức mà bên mua chưa đăng ký sang tên mình được sẽ hứng chịu rủi ro nếu chẳng may bên bán hoặc những người liên quan không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Theo tác giả, với cách quy định như trên có thể thấy nhiều hệ lụy không tích cực phát sinh, đó là:Việc quy định công chứng, chứng thực là điều kiện bắt buộc để giao dịch có hiệu lực đã được thực tế chứng minh là rất quan trọng. Một trong những lý do cốt lõi ảnh hưởng đến tính hợp pháp của giao dịch là xem xét năng lực hành vi dân sự và quyền sở hữu đích thực của các chủ thể tại thời điểm giao kết hợp đồng. Nếu theo quy định tại Điều 129 BLDS năm 2015 thì yếu tố này đã bị bỏ qua. Việc công chứng hợp đồng trở thành điều kiện có cũng được mà không có cũng được, miễn sao các bên mua bán và giao tiền, giao tài sản. Rõ ràng, có những vấn đề chuyên môn mà thẩm phán không thể làm thay công chứng viên, bởi công chứng viên mới là người chứng kiến trực tiếp tại thời điểm các bên giao kết hợp đồng và xác định giao dịch đó có đủ điều kiện để xác lập hay không. Chẳng hạn, ông A và bà B chuyển nhượng đất và nhà cho ông C và bà D. Tại thời điểm giao kết hợp đồng, bà B bị tâm thần, tuy nhiên, hợp đồng vẫn có chữ ký của bà B. Sau đó hai bên tiến hành giao tiền và tài sản bình thường và được hợp thức hóa thông qua giải quyết của tòa án. Đương nhiên, tòa án không thể xác định được tại thời điểm giao dịch diễn ra thì bà B có minh mẫn hay không. Một thời gian sau, bà B khỏi bệnh, nhận thấy giá nhà đất tăng vọt, bà B kiện ra tòa với lý do tại thời điểm ký giao dịch bà không minh mẫn, đồng thời xuất trình căn cứ và hồ sơ bệnh án.Trên đây là những vướng mắc từ thực tiễn áp dụng các quy định của BLDS năm 2015, xoay quanh về lãi suất, phạt vi phạm hợp đồng, hình thức hợp đồng. Rất mong sự quan tâm trao đổi của quý bạn đọc.Nguồn bài viết: https://lsvn.vn/bo-luat-dan-su-2015-bat-cap-trong-quy-dinh-ve- lai-suat-pham-vi-hop-dong-vay-tai-san-hinh-thuc-hop-dong.html QUY ĐỊNH VỀ LÃI SUẤT, PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN, THEO BLDS NĂM 2015 VÀ NHỮNG VƯỚNG MẮCPHẠM THỊ HỒNG ĐÀOBộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 đã có nhiều quy định mới về phần lãi suất trong hợp đồng vay tài sản, những quy định mới này theo hướng tăng mức lãi suất thỏa thuận và lãi suất phạt do chậm hoặc không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, điều này sẽ góp phần tạo cơ chế về lãi suất để nhằm thúc đẩy bên vay thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, bảo đảm sự tuân thủ và kỷ luật hợp đồng trong giao dịch dân sự; bảo đảm hài hòa với mục đích quy định lãi suất là một trong những công cụ để điều tiết nền kinh tế, đặc biệt đối với thị trường vốn, tiền tệ và các mục đích kinh tế, xã hội khác. Đồng thời, đây là quy định mới theo hướng linh hoạt, mở rộng quyền năng cho các chủ thể trong quan hệ dân sự, từ đó thúc đẩy các chủ thể này tham gia tích cực hơn vào các quan hệ này. Ngoài ra, việc xác định mức lãi suất cao nhất trong giao dịch vay tài sản mà BLDS năm 2015 cho phép còn có ý nghĩa trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với tội cho vay lãi nặng quy định tại Điều 201 Bộ luật Hình sự năm 2015 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018) cấu thành cơ bản tội phạm này dựa trên quy định về mức lãi suất của BLDS năm 2015, mà theo đó, trong giao dịch dân sự mà người cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong BLDS, thu lợi bất chính từ 30 triệu đồng trở lên, thì hành vi này bị coi là vi phạm pháp luật hình sự.Tuy nhiên, do chưa có văn bản hướng dẫn thống nhất về nhận thức và áp dụng các quy định pháp luật về lãi suất, phạt vi phạm trong hợp đồng vay tài sản, dẫn đến tình trạng cùng loại tranh chấp hợp đồng tín dụng, trong đó, các bên thỏa thuận về lãi suất, thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng có Tòa án xét xử chấp nhận tính lãi suất nợ quá hạn và phạt vi phạm, nhưng cũng có Tòa án xét xử chỉ chấp nhận tính lãi suất nợ quá hạn mà không chấp nhận phạt vi phạm hợp đồng do phát sinh số tiền lãi chậm trả, vì cho rằng như vậy “phạt chồng phạt”. Ngoài ra, để xác định chính xác khoản tiền vay tại từng thời điểm trong trường hợp bên cho vay liên tục nhập các khoản lãi suất vào nợ gốc và yêu cầu bên vay phải trả lãi trên toàn bộ số nợ đó, khi đó, việc áp dụng lãi suất 20%/năm cho khoản vay vào thời điểm nào mới là phù hợp và số tiền nào mới được gọi là khoản tiền vay ?...Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến một số quy định của BLDS năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan đến lãi suất, phạt vi phạm hợp đồng vay tài sản vàThứ nhất: Trường hợp vay nào áp dụng lãi suất theo quy định của BLDS năm 2015?Điều 463 BLDS năm 2015, có quy định về hợp đồng vay tài sản, như sau: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”Điều 466 của Bộ luật này cũng quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay, như sau: “1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phảitrả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”Về cách tính lãi suất trong hợp đồng vay tài sản, Điều 468 BLDS năm 2015, quyđịnh:“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.Như vậy, mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015 được tính bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này là 20%/ năm nên được xác định là 10%/ năm tương ứng với 0.83 %/ tháng. Theo quy định tại khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015, bên cạnh tiền gốc thì bên vay có trách nhiệm thanh toán cho bên cho vay các khoản lãi bao gồm:i). Lãi trên nợ gốc trong thời hạn hợp đồng vay= (nợ gốc x lãi suất vay theo hợp đồng) x thời hạn hợp đồng vay. ii). Lãi đối với phần tiền lãi chậm trả trong thời hạn hợp đồng vay= [(nợ gốc x lãi suất vay theo hợp đồng) x thời hạn vay] x 0.83 x thời gian chậm trả. iii). Lãi trên nợ gốc quá hạn= nợ gốc x (150% x lãi suất vay theo hợp đồng) x thời gian quá hạn.Ví dụ: A cho B vay 100.000.000 đồng với lãi suất 1%/ tháng, thanh toán tiền lãi hàng tháng và thời hạn của hợp đồng vay là 12 tháng từ 01/01/2017 đến 31/12/2017. Đến hạn B chưa thanh toán cho A cả gốc lẫn lãi. 06 tháng sau là 01/07/2018, B mới thực hiện việc thanh toán. Nghĩa vụ thanh toán của B trong trường hợp này theo quy định của BLDS năm 2015, như sau: + Tiền nợ gốc =100.000.000 đồng.+ Tiền lãi trên nợ gốc trong thời hạn hợp đồng = 100.000.000 x 1% x 12 = 12.000.000 đồng.+ Tiền lãi đối với khoản lãi trên nợ gốc chậm trả trong thời hạn hợp đồng = 12.000.000 x 0.83% x 6 = 5.976.000 đồng.+ Tiền lãi nợ gốc quá hạn = 100.000.000 x 150% x 1% x 6= 9.000.000 đồng.Mức lãi suất cho vay theo quy định tại BLDS năm 2015 mang tính “tĩnh”, nghĩa là chỉ áp đặt mức lãi suất trần cố định 20%, mức lãi suất này sẽ không dao động tăng, giảm hay phụ thuộc vào quy định của Ngân hàng nhà nước nữa. Việc quy định mức lãi suất này có nhiều thuận lợi, như: đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng; các bên tham gia giao dịch vay tài sản có thể biết ngay hậu quả pháp lý khi ký xác lập và thực hiện hợp đồng; mức lãi suất tăng so với quy định của luật cũ không quá cao và tương đối phù hợp với tình hình kinh tế, xã hội hiện nay. Ngoài ra, quy định nêu trên còn hạn chế được tình trạng cho vay lãi nặng. Tuy nhiên với quy định này, vấn đề đặt ra làm thế nào để xác định chính xác khoản tiền vay tại từng thời điểm trong trường hợp bên cho vay liên tục nhập các khoản lãi suất vào nợ gốc và yêu cầu bên vay phải trả lãi trên toàn bộ số nợ đó. Khi đó, việc áp dụng lãi suất 20%/năm cho khoản vay vào thời điểm nào mới là phù hợp và số tiền nào được gọi là khoản tiền vay?Mặt khác, theo quy định trên đối với những trường hợp vay nào thì sẽ áp dụng quy định lãi suất tại BLDS năm 2015? Trường hợp vay nào thì áp dụng luật khác có liên quan? Mà luật có liên quan trong lĩnh vực này hiện nay chỉ có Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2017 (có hiệu lực thi hành từ ngày 15/01/2018). Tuy nhiên, trong Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng năm 2017 (sau đây gọi tắt Luật các Tổ chức tín dụng năm 2017) lại có quy định khác so với BLDS năm 2015. Cụ thể, Điều 91 của Luật này quy định về lãi suất, phí trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng, như sau: “1. Tổ chức tín dụng được quyền ấn định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.Trong trường hợp hoạt động ngân hàng có diễn biến bất thường, để bảo đảm an toàn của hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước có quyền quy định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.”Từ đây, vấn đề được đặt ra đó là lãi suất vay tại các ngân hàng, TCTD hoặc các công ty tài chính có phải áp dụng theo BLDS năm 2015 không hay áp dụng trường hợp luật khác có liên quan quy định khác?Tại khoản 2 Điều 9 Thông tư số 43/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về lãi suất cho vay tiêu dùng của công ty tài chính (viết tắt Thông tư 43/2016/TT-NHNN), theo đó, công ty tài chính quy định về khung lãi suất cho vay tiêu dùng áp dụng thống nhất trong toàn hệ thống trong từng thời kỳ, trong đó bao gồm mức lãi suất cho vay cao nhất, mức lãi suất cho vay thấp nhất đối với từng sản phẩm cho vay tiêu dùng. Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 10 Thông tư số 43/2016/TT-NHNN còn quy định về hợp đồng cho vay tiêu dùng phải được lập thành văn bản, trong đó tối thiểu phải có nội dung như sau:+ Lãi suất cho vay tiêu dùng theo thỏa thuận và mức lãi suất cho vay tiêu dùng quy đổi theo tỷ lệ %/năm (một năm là ba trăm sáu mươi lăm ngày) tính theo số dư nợ cho vay thực tế và thời gian duy trì số dư nợ cho vay thực tế đó;+ Nguyên tắc và các yếu tố xác định lãi suất, thời điểm xác định lãi suất cho vay đối với trường hợp áp dụng lãi suất cho vay có điều chỉnh;+ Lãi suất áp dụng đối với dư nợ gốc bị quá hạn;+ Lãi suất áp dụng đối với lãi chậm trả;+ Phương pháp tính lãi tiền vay; + Loại phí và mức phí áp dụng đối với khoản vay.Thứ hai: tại khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015, thì lãi mà bên vay phải trả như sau:+ Lãi trên nợ gốc: Tính theo lãi suất theo thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả.+Lãi chậm trả trong hạn hợp đồng theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015.+ Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả: Tính bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả nếu hai bên không có thỏa thuận khác.Ngày 30/12/2016, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 39/2016/TT-NHNN quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (viết tắt Thông tư 39/2016/TT-NHNN) Thông tư này thay thế Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành kèm theo Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Mà theo đó, các quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng (TCTD) với khách hàng tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN được điều chỉnh cho phù hợp với quy định tại Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010, BLDS năm 2015, các quy định hiện hành khác của pháp luật liên quan đến hoạt động cho vay.Trên cơ sở các quy định tại Điều 466, Điều 468 BLDS năm 2015 và quy định tại Điều 91 Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 và kế thừa quy định về lãi suất cho vay tại Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/04/2010 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; Thông tư số 08/2014/TT-NHNN ngày 17/03/2014 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, quy định lãi suất cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế. Thông tư 39/2016/TT-NHNN đã quy định về lãi suất cho vay như sau: Một là, TCTD và khách hàng thỏa thuận về lãi suất cho vay theo cung cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng, trừ trường hợp áp dụng mức lãi suất tối đa đối với cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam đối với 05 lĩnh vực ưu tiên doThống đốc NHNN quyết định trong từng thời kỳ. Theo đó, lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế được điều chỉnh giảm 0,5%/năm. Các lĩnh vực được điều chỉnh giảm lãi suất bao gồm:+Phát triển nông nghiệp, nông thôn theo quy định của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.+Thực hiện phương án kinh doanh hàng xuất khẩu theo quy định tại Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn Luật thương mại.+Phục vụ kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Chính phủ về trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa.+Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ theo quy định của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ.+Phục vụ kinh doanh của doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định tại Luật công nghệ cao và các văn bản hướng dẫn Luật công nghệ cao.Như vậy, quy định về trần lãi suất chỉ áp dụng đối với trường hợp cho vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam thuộc các lĩnh vực ưu tiên quy định tại Thông tư 39/2016/TT-NHNN.Hai là, bổ sung quy định về nghĩa vụ trả lãi cho tiền lãi chậm trả, cụ thể: Trường hợp khách hàng không trả đúng hạn tiền lãi, thì phải trả lãi chậm trả theo mức lãi suất do TCTD và khách hàng thỏa thuận nhưng không vượt quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.Ba là, trường hợp khoản nợ vay bị chuyển nợ quá hạn, thì khách hàng phải trả lãi trên phần dư nợ gốc quá hạn tương ứng với thời gian chậm trả; lãi suất áp dụng do các bên thỏa thuận nhưng không vượt quá 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ quá hạn.Nợ gốc quá hạn gồm: Nợ gốc đến hạn không trả được và nợ gốc chưa đến hạn bị chuyển sang đến hạn theo thỏa thuận do vi phạm hợp đồng và khách hàng không trả được. Khi cho vay, ngân hàng, TCTD được quyền áp dụng lãi suất trong hạn (chỉ áp dụng trong thời hạn vay) và lãi suất quá hạn (khi đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong hạn quy định) và không cho phép áp dụng thêm một loại lãi nào khác trùng với thời gian đã áp dụng 1 trong 2 loại lãi suất nói trên.Thứ ba: vấn đề lãi suất khi người có nghĩa vụ chậm thi hành bản án, quyết định của Tòa án khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án.Theo quy định tại khoản 2 Điều 357 BLDS năm 2015: “Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.”; mà khoản 2 Điều 468 thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 đó là lãi suất theo thỏa thuận không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay. Như vậy, đối với việc xác định lãi suất chậm thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp tranh chấp không phải là tranh chấp hợp đồng vay tài sản thì mức lãi suất chậm trả sẽ áp dụng theo mức lãi suất nào? Khi bản án, quyết định xác định trách nhiệm của một bên đương sự có nghĩa vụ trả một khoản tiền cho bên kia, nếu áp dụng theo khoản 1 Điều 468 của BBLDS năm 2015 để tính lãi suất cho các tranh chấp hợp đồng khác không phải là hợp đồng vay thì chưa phù hợp, vì khoản 1 Điều 468 tính lãi suất không vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trong khi các tranh chấp hợp đồng khác không phải là khoản tiền vay.Để tháo gỡ vấn đề về lãi suất nêu trên, thiết nghĩ cần có văn bản hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về áp dụng mức lãi suất khi chậm thực hiện nghĩa vụ đối với các loại tranh chấp hợp đồng dân sự (không phải là hợp đồng vay tài sản), để khi vận dụng quy định về lãi suất trong BLDS năm 2015. Thứ tư: phạt vi phạm hợp đồng vay tài sản, bồi thường hợp đồngTrên thực tế, nhiều hợp đồng có các quy định mức phạt không đúng với quy định nêu trên hoặc quy định chưa rõ để xác định. Chẳng hạn, có hợp đồng quy định “quá thời hạn thanh toán của các đợt 2, 3 mà bên B chưa thanh toán hết thì phải chịu lãi suất quá hạn 0,5% /ngày/số tiền chậm trả”; hoặc là “phải chịu khoản phạt bằng 0,03% mỗi ngày chậm thanh toán”; hoặc là “quá các thời hạn thanh toán bên B phải chịu phạt với lãi suất chậm trả bằng 150% của lãi vay VNĐ cho số tiền và số ngày trả chậm cùng mọi chi phí phát sinh do chậm thanh toán gây ra. Thời gian kéo dài tối đa không quá 15 ngày tiếp theo, quá thời hạn này mà bên B chưa thanh toán đủ tiền hàng cho bên A thì bên A có quyền ….”Ngoài ra, với các hợp đồng vay tiền (hợp đồng mẫu) do các CTTC phát hành hiện nay, chúng ta dễ dàng bắt gặp nội dung phạt vi phạm hợp đồng, như sau:Ngày đến hạn thanh toán: là ngày Quý khách có nghĩa vụ thanh toán Số tiền trả góp hàng tháng cho CTTC. Ngày đến hạn thanh toán hàng tháng được quy định cụ thể tại Hợp đồng tín dụng. Nếu ngày đến hạn thanh toán hàng tháng rơi vào ngày thứ bảy, chủ nhật hoặc ngày nghỉ lễ thì Quý khách cần thực hiện thanh toán trước ngày nghỉ đó. Quý khách vui lòng thanh toán trước 03 ngày so với ngày đến hạn thanh toán để đảm bảo tiền chuyển vào tài khoản đúng hạn.Vi phạm nghĩa vụ thanh toán: Trong trường hợp Quý khách vi phạm bất kỳ nghĩa vụ nào quy định trong Hợp đồng, Quý khách sẽ bị phạt vi phạm hợp đồng với mức phạt được quy định sau đây: Trường hợp vay mua hàng điện tử, điện máy gia dụng; vay mua xe máy; vay tiền mặt, mức phạt phát sinh theo từng giai đoạn khi Quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của Hợp đồng.+Mức phạt đầu tiên nếu Quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của Hợp đồng kể từ ngày thứ tư sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, lần lượt là 150.000 đồng; 250.000 đồng; 250.000 đồng.+Mức phạt phát sinh thêm lần 2 sau mức phạt đầu tiên nếu Quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của Hợp đồng kể từ ngày thứ ba mươi sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, lần lượt là 250.000 đồng; 400.000 đồng;450.000 đồng.+Mức phạt phát sinh thêm lần 3 sau mức phạt đầu tiên và lần 2 nếu Quý khách không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ bất kỳ nghĩa vụ nào của Hợp đồng kể từ ngày thứ sáu mươi sau ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ đó, lần lượt là 250.000 đồng; 400.000 đồng;đồng.Quý khách tham khảo ví dụ dưới đây để hiểu rõ hơn về mức phạt vi phạm hợp đồng trình bày trong bảng trên: Ví dụ, một Khách hàng có hợp đồng vay mua điện thoại, có ngày đến hạn thanh toán vào ngày 1 hàng tháng. Ngày 1/3 rơi vào ngày chủ nhật, thì vào thứ tư (25/2), Khách hàng nên đến các điểm thanh toán để thực hiện thanh toán cho CTTC nhằm tránh tiền chuyển vào tài khoản của CTTC bị trễ, phát sinh phạt trễ hạn. Nếu Khách hàng này thanh toán khoản nợ tháng 3 cho CTTC vào ngày 4/3, nghĩa là Khách hàng này bị trễ 4 ngày, Khách hàng sẽ chịu mức phạt là 150.000 đồng. Nếu Khách hàng này thanh toán khoản nợ tháng 3 cho Home Credit vào ngày 1/4, nghĩa là Khách hàng này bị trễ 30 ngày, Khách hàng sẽ chịu mức phạt là 400.000 đồng (= 150.000 đồng + 250.000 đồng). Nếu Khách hàng này thanh toán khoản nợ tháng 3 cho CTTC vào ngày 1/5, nghĩa là Khách hàng này bị trễ 60 ngày, Khách hàng sẽ chịu mức phạt là 650.000 đồng (= 150.000 đồng+ 250.000 đồng + 250.000 đồng).Theo tác giả, thỏa thuận về phạt vi phạm của hợp đồng cho vay của CTTC như trên về bản chất là phạt vi phạm về trả tiền gốc và lãi. Như vậy là trái với quy định của pháp luật hiện hành về lĩnh vực này. Cụ thể, BLDS năm 2015, Thông tư 39/2016/TT-NHNN có quy định về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại như sau:TCTD và khách hàng được thỏa thuận về việc phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật đối với trường hợp TCTD hoặc khách hàng không thực hiện đúng nội dung trong thỏa thuận cho vay, trừ trường hợp vi phạm về trả gốc, lãi. Như vậy, theo quy định này, thỏa thuận phạt vi phạm chỉ được áp dụng đối với hành vi vi phạm các nghĩa vụ của thỏa thuận cho vay (không phải là nghĩa vụ trả gốc, lãi); TCTD và khách hàng có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp TCTD và khách hàng có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.Phạt vi phạm là một hình thức chế tài áp dụng đối với một trong các bên vi phạm nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp, ngân hàng, TCTD hiểu nhầm về chế tài phạt vi phạm hợp đồng với lỗi của bên vay chậm thanh toán bằng hình thức phạt lãi là không chính xác, vì như vậy là “lãi chồng lãi”. Chẳng hạn, tại khoản 5.4 Điều 5 Hợp đồng tín dụng có nội dung về lãi phạt chậm trả trên số lãi chưa thanh toán, giữa Ngân hàng TMCP A với Công ty TNHH B, như sau:“lãi phạt chậm trả là quá 10 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 2% trên số lãi chưa thanh toán; quá 30 ngày kể từ ngày đáo hạn, mức lãi phạt là 5% trên số lãi chưa thanh toán”. Nội dung thỏa thuận này về bản chất là phạt số tiền lãi chậm trả, điều này không đúng pháp luật.Ngân hàng, TCTD, CTTC và khách hàng có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp TCTD và khách hàng có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm. Từ các quy định của pháp luật, nghĩa vụ của bên vay tài sản có thể bao gồm: Nếu vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như trên đã đề cập. Các bên có thể thỏa thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng mục đích vay. Bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản và có quyền đòi lại tài sản vay trước thời hạn nếu đã nhắc nhở mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích.Thứ năm: Về hình thức của hợp đồngKhoản 2 Điều 119 BLDS năm 2015, quy định: “Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”. Quy định này đề cập trường hợp văn bản phải tuân theo một hình thức nhất định thì mới có hiệu lực đối với các bên. Chẳng hạn pháp luật đất đai đặt ra yêu cầu phải công chứng, chứng thực, đăng ký đối với một số hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất.Theo quy định tại khoản 1 Điều 129 BLDS năm 2015: “Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó”.Trong khi đó, quy định của một số luật chuyên ngành đặt ra yêu cầu hợp đồng phải có một số nội dung bắt buộc. Ví dụ, Điều 141 Luật Xây dựng năm 2014, quy định về nội dung của hợp đồng xây dựng, mà theo đó, hợp đồng xây dựng phải có: Căn cứ pháp lý áp dụng; Ngôn ngữ áp dụng; Nội dung và khối lượng công việc; Chất lượng, yêu cầu kỹ thuật của công việc, nghiệm thu và bàn giao; Thời gian và tiến độ thực hiện hợp đồng; Giá hợp đồng, tạm ứng, đồng tiền sử dụng trong thanh toán và thanh toán hợp đồng xây dựng; Bảo đảm thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tạm ứng hợp đồng; Điều chỉnh hợp đồng xây dựng; Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng xây dựng; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, thưởng và phạt vi phạm hợp đồng; Tạm ngừng và chấm dứt hợp đồng xây dựng; Giải quyết tranh chấp hợp đồng xây dựng; Rủi ro và bất khả kháng; Quyết toán và thanh lý hợp đồng xây dựng; Các nội dung khác.Điều 18 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014, quy định về đối tượng được mua, nhận chuyển nhượng, thuê, thuê mua bất động sản của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, theo đó, hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà hay công trình xây dựng phải có 12 nội dung gồm giá, phương thức và thời hạn thanh toán, thời hạn giao, nhận bất động sản...Khoản 2 Điều 129 BLDS năm 2015, quy định: “Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó và trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”.Vấn đề đặt ra, rất khó để xác định thế nào là “hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch”. Cách tính tổng số nghĩa vụ trong giao dịch sau đó xem số lượng nghĩa vụ đã thực hiện là bao nhiêu sẽ không khả thi nếu như trong số các nghĩa vụ đó có những nghĩa vụ không phân chia được theo phần hoặc danh sách các nghĩa vụ mà hợp đồng nêu chỉ mang tính chất liệt kê và là danh sách mở.Có thể thấy, xuất phát điểm của việc đưa ra quy định này là để hạn chế tình trạng các bên lợi dụng quy định vi phạm về hình thức của giao dịch nhằm yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu. Điển hình là đối với các giao dịch liên quan đến bất động sản bằng giấy viết tay trước đây khi bên mua đã thanh toán, bên bán đã nhận tiền và giao nhà, đất nhưng vì vướng quy định về hình thức mà bên mua chưa đăng ký sang tên mình được sẽ hứng chịu rủi ro nếu chẳng may bên bán hoặc những người liên quan không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Theo tác giả, với cách quy định như trên có thể thấy nhiều hệ lụy không tích cực phát sinh từ quy định này, đó là: Việc quy định công chứng, chứng thực là điều kiện bắt buộc để giao dịch có hiệu lực đã được thực tế chứng minh là rất quan trọng. Một trong những lý do cốt lõi ảnh hưởng đế tính hợp pháp của giao dịch là xem xét năng lực hành vi dân sự và quyền sở hữu đích thực của các chủ thể tại thời điểm giao kết hợp đồng. Nếu theo quy định tại Điều 129 BLDS năm 2015 thì yếu tố này đã bị bỏ qua. Việc công chứng hợp đồng trở thành điều kiện có cũng được mà không có cũng được, miễn sao các bên mua bán và giao tiền, giao tài sản. Rõ ràng, có những vấn đề chuyên môn mà thẩm phán không thể làm thay công chứng viên, bởi công chứng viên mới là người chứng kiến trực tiếp tại thời điểm các bên giao kết hợp đồng và xác định giao dịch đó có đủ điều kiện để xác lập hay không.Chẳng hạn, ông A và bà B chuyển nhượng đất và nhà cho ông C và bà D. Tại thời điểm giao kết hợp đồng, bà B bị tâm thần, tuy nhiên, hợp đồng vẫn có chữ ký của bà. Sau đó hai bên tiến hành giao tiền và tài sản bình thường và được hợp thức hóa thông qua giải quyết của Tòa án. Đương nhiên, Tòa án không thể xác định được tại thời điểm giao dịch diễn ra thì bà B có minh mẫn hay không. Một thời gian sau, bà B khỏi bệnh, nhận thấy giá nhà đất tăng vọt, bà B kiện ra tòa với lý do tại thời điểm ký giao dịch bà không minh mẫn, đồng thời xuất trình căn cứ và hồ sơ bệnh án.Trên đây là những vướng mắc từ thực tiễn áp dụng các quy định của BLDS năm 2015, xoay quanh về lãi suất, phạt vi phạm hợp đồng, hình thức hợp đồng. Rất mong sự quan tâm trao đổi của Quí bạn đọc.Nguồn bài viết: https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao- doi.aspx?ItemID=2289 MỘT SỐ VƯỚNG MẮC VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015 DƯỚI GÓC NHÌN CÔNG CHỨNGThS. PHẠM THỊ YẾNĐại học Công nghệ Đông ÁBài viết này nghiên cứu, phân tích những vướng mắc về hợp đồng vay tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 dưới góc nhìn công chứng để làm cơ sở cho việc đề xuất hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu, phân tích những vướng mắc về hợp đồng vay tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 dưới góc nhìn công chứng để làm cơ sở cho việc đề xuất hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.Abstract: This article studies and analyzes problems related to property loan contracts under the provisions of the Civil Code of 2015 from the perspective of notarization to serve as a basis for proposing improvement of the law in this field.Thực tiễn cuộc sống luôn đặt ra nhu cầu vay tài sản để giải quyết những khó khăn tạm thời về kinh tế, do đó, hợp đồng vay tài sản là phương tiện pháp lý được đặt ra để đáp ứng mãn những nhu cầu đó. Pháp luật dân sự đã quy định khá chi tiết về loại hợp đồng này và cách thức triển khai trong thực tiễn. Qua việc nghiên cứu hợp đồng vay tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 trong hoạt động công chứng hiện nay, tác giả xác định một số khó khăn, vướng mắc áp dụng pháp luật như sau:Thứ nhất, những quy định chung của pháp luật về “hợp đồng vay tài sản” và “hợp đồng mượn tài sản” được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015 còn một số nội dung chưa rõ ràng, có thể gây ra sự nhầm lẫn giữa hai loại hợp đồng này. Trong thực tiễn áp dụng, nhiều chủ thể, kể cả công chứng viên trong một số trường hợp còn xác định nhầm lẫn giữa hai loại hợp đồng này, mặc dù bản chất pháp lý của hai loại hợp đồng này là hoàn toàn khác nhau. Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”.Điều 494 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Hợp đồng mượn tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, bên mượn phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã đạt được”.Nếu chỉ xem xét dựa trên hai khái niệm nêu trên, chúng ta thiếu cơ sở pháp lý để phân định một cách rõ ràng giữa hai loại hợp đồng này. Thậm chí, giữa hợp đồng vay tài sản không phải trả lãi với hợp đồng mượn tài sản có nhiều điểm tương đồng. Chỉ sau khi nghiên cứu một số nội dung của điều luật khác có liên quan đến hai loại hợp đồng này trong Bộ luật Dân sự năm 2015, thì quy định về “quyền sở hữu đối với tài sản vay” mới là tiêu chí mấu chốt để phân định giữa loại “hợp đồng vay tài sản” với “hợp đồng mượn tài sản”. Cụ thể là, trong hợp đồng vay tài sản thì bên vay trở thành chủ sở hữu đối với tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó; còn trong hợp đồng mượn tài sản thì không có quy định nào như vậy - tức là bên mượn không được chuyển giao quyền sở hữu tài sản đi mượn.Thứ hai, xác định tài sản có thể trở thành đối tượng của hợp đồng vay tài sản. Theo Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Tài sản được phân thành 08 nhóm khác nhau: Bất động sản và động sản; hoa lợi, lợi tức; vật chính và vật phụ; vật chia được và vật không chia được; vật tiêu hao và vật không tiêu hao; vật cùng loại và vật đặc định; vật đồng bộ và quyền tài sản. Dựa trên các quy định của pháp luật về hợp đồng vay tài sản và các quy định nêu trên về tài sản cũng như thực tế, có thể nhận thấy, “tiền” là một loại tài sản phổ biến nhất trong đối tượng của hợp đồng vay tài sản. Tuy nhiên, còn những loại tài sản khác đang có nhiều cách hiểu khác nhau trong việc xác định đúng tài sản nào có thể và tài sản nào không thể trở thành đối tượng của hợp đồng vay tài sản? Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “… khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả lại cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng…”. Đây là một đặc điểm pháp lý quan trọng nhất của hợp đồng vay tài sản. Theo các quy định trên, dường như chỉ có những tài sản có thể thay thế được bằng một tài sản khác cùng loại mới đủ điều kiện đem cho vay. Các bên có thể đi vay hoặc cho vay cùng một lúc một hoặc nhiều tài sản khác nhau. Số lượng và chất lượng của tài sản là hai vấn đề rất quan trọng, công chứng viên đặc biệt chú ý khi soạn thảo văn bản hay xem xét nội dung hợp đồng vay tài sản.Như vậy, “vật”, “tiền”, “giấy tờ có giá” hoàn toàn có thể trở thành đối tượng của hợp đồng vay tài sản, còn “quyền tài sản” thì không. Tương tự như vậy, thì trong 08 nhóm tài sản nêu trên, có thể cho vay: Vật chính và vật phụ, vật chia được và vật không chia được, vật tiêu hao và vật không tiêu hao… nhưng không cho vay được “bất động sản” hay “vật đặc định”. Ngoài ra, những tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, cho dù là loại tài sản nào cũng không thể trở thành đối tượng của hợp đồng vay tài sản. Mà trên thực tế thì người dân vẫn có nhu cầu vay đối với các loại tài sản này, nhưng theo quy định nêu trên thì không thể xác lập giao dịch.Với tư cách là đối tượng của hợp đồng vay tài sản, “tiền” luôn là tài sản thông dụng nhất. Tuy nhiên, tiền thì bao gồm cả tiền Việt Nam và ngoại tệ, mà ngoại tệ được xác định là một loại ngoại hối. Điều 22 Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) quy định: “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo, báo giá, định giá, ghi giá trong hợp đồng, thỏa thuận và các hình thức tương tự khác của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các trường hợp được phép theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Theo đó, có thể hiểu ngoại tệ trở thành một loại ngoại hối bị hạn chế sử dụng và không thể trở thành đối tượng của hợp đồng vay tài sản theo quy định của Pháp Lệnh ngoại hối năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2013). Như vậy, quy định này chưa đồng nhất với Bộ luật Dân sự năm 2015. Trong khi đó, việc sử dụng ngoại tệ là đối tượng trong hợp đồng vay tài sản hiện nay là khá phổ biến trên thực tiễn. Thứ ba, xác định chủ thể tham gia giao kết hợp đồng vay tài sản bao gồm: Bên cho vay và bên vay. Hiện nay, đang tồn tại quan điểm khác nhau liên quan đến chủ thể là doanh nghiệp, xoay quanh hình thức hợp đồng vay tài sản có đối tượng phổ biến nhất là tiềnQuan điểm thứ nhất cho rằng, doanh nghiệp chỉ được phép kinh doanh những ngành, nghề đã được ghi nhận trong giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Cơ sở pháp lý giải thích cho quan điểm này là khoản 12 Điều 4 Luật Tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nêu rõ: Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ sau đây: (i) Nhận tiền gửi; (ii) Cấp tín dụng; (iii) Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Trong khi đó, việc “cấp tín dụng” được xác định “là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác” (khoản 14 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010) (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, chỉ có các hình thức tổ chức tín dụng được quy định tại Điều 6 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mới được phép cho vay vốn dưới mọi hình thức. Như vậy, cho vay tiền dường như là ngành, nghề kinh doanh mang tính độc quyền của ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng phi ngân hàng.Quan điểm thứ hai cho rằng, doanh nghiệp có quyền kinh doanh mọi ngành, nghề mà pháp luật không cấm và không cần phải căn cứ vào ngành, nghề đã đăng ký. Như vậy, có nghĩa là doanh nghiệp dù không đăng ký ngành, nghề cho vay tiền thì vẫn được phép thực hiện chức năng này. Điểm d khoản 2 Điều 3 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp quy định về thu nhập chịu thuế như sau: “Thu nhập từ lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn, bán ngoại tệ bao gồm: Lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, lãi cho vay vốn dưới mọi hình thức theo quy định của pháp luật bao gồm cả tiền lãi trả chậm, lãi trả góp, phí bảo lãnh tín dụng và các khoản phí khác trong hợp đồng cho vay vốn; thu nhập từ bán ngoại tệ; khoản chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại các khoản nợ phải trả có gốc ngoại tệ cuối năm tài chính; khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh trong kỳ (riêng chênh lệch tỷ giá phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản để hình thành tài sản cố định của doanh nghiệp mới thành lập mà tài sản cố định này chưa đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính). Đối với khoản nợ phải thu, khoản cho vay có gốc ngoại tệ phát sinh trong kỳ thì chênh lệch tỷ giá hối đoái của các khoản nợ phải thu, khoản cho vay này là khoản chênh lệch giữa tỷ giá hối đoái tại thời điểm thu hồi nợ với tỷ giá hối đoái tại thời điểm ghi nhận khoản nợ phải thu hoặc khoản cho vay ban đầu”. Do đó, mặc dù không có quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể là doanh nghiệp có quyền cho vay vốn, nhưng với quy định này thì doanh nghiệp hoàn toàn có quyền cho vay vốn và sẽ phải chịu thuế thu nhập phát sinh từ việc cho vay vốn đó.Theo phân tích nêu trên, vấn đề về chủ thể tham gia giao kết hợp đồng vay tài sản là doanh nghiệp với tư cách là bên cho vay hiện nay chưa có cơ sở pháp lý quy định một cách cụ thể và trực tiếp thể hiện việc cấm hay cho phép chủ thể là doanh nghiệp được thực hiện hoạt động cho vay vốn. Vì vậy, trên thực tiễn, vẫn đang tồn tại hai quan điểm khác nhau dựa trên một số các văn bản quy phạm pháp luật chỉ quy định một cách gián tiếp. Việc chưa có quy định một cách rõ ràng như vậy gây ra không ít vướng mắc, khó khăn cho các công chứng viên. Thực tiễn tại các tổ chức hành nghề công chứng cho thấy, khi gặp tình huống có chủ thể là doanh nghiệp yêu cầu công chứng hợp đồng cho vay tài sản là tiền với tư cách là bên cho vay, công chứng viên sẽ lúng túng không biết có công chứng được hay không? Nếu đồng ý thụ lý hồ sơ yêu cầu công chứng thì dựa trên cơ sở pháp lý nào.Thứ tư, đối với hợp đồng cho vay tài sản có lãi suất mà đối tượng tài sản của hợp đồng không phải là tiền thì thực hiện như thế nào?Nếu lấy lãi suất làm tiêu chí, có thể chia hợp đồng vay tài sản thành: Hợp đồng vay tài sản không có lãi và hợp đồng vay tài phải trả lãi. Lãi suất được đề cập trong khái niệm về hợp đồng vay tài sản tại Điều 463 và Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015: (i) Lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thể thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác…; (ii) Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.Từ những quy định nêu trên, khi soạn thảo hoặc kiểm tra nội dung trong hợp đồng vay tài sản có lãi, các bên có thể đưa ra 02 phương án giải quyết khi đề cập đến yếu tố lãi: Phương án thứ nhất, ấn định luôn một số lãi cụ thể, bất biến; phương án thứ hai, lãi suất do các bên tự thỏa thuận - đây là vấn đề mà các bên cần đặc biệt quan tâm. Trong thực tiễn, đa số các bên khi tham gia giao kết hợp đồng vay tài sản thường lựa chọn phương án thứ hai. Do vậy, khi xác định lãi suất trong hợp đồng vay tài sản thì các bên cần xem xét kỹ nội dung Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.Tuy nhiên, đây là quy định về lãi suất áp dụng đối với đối tượng tài sản trong hợp đồng vay tài sản là “tiền”. Nhưng trên thực tế, đối tượng tài sản của hợp đồng vay tài sản không chỉ có tiền mà còn nhiều loại tài sản khác. Ví dụ như: Vàng cũng là loại tài sản là đối tượng của giao dịch cho vay rất phổ biến trong xã hội. Vàng trong trường hợp này không phải là đối tượng được điều chỉnh theo Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2013) tại mục d khoản 1 Điều 4 (Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam); không phải là một loại tài sản hay hàng hóa bị nhà nước cấm lưu thông trong nước. Vàng là đối tượng tài sản trong hợp đồng vay tài sản là loại vàng mà người sở hữu có quyền mua bán, tặng cho, cho vay…Hiện nay, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định mức lãi suất tối đa mà các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng vay tài sản có đối tượng không phải là “tiền”. Vậy một số câu hỏi đặt ra là: Liệu có đủ cơ sở pháp lý cho các chủ thể tham gia giao dịch hợp đồng vay tài sản có đối tượng vay không phải là tiền mà có lãi suất hay không? Nếu có thì các chủ thể sẽ lấy cơ sở pháp lý nào để giải quyết vấn đề về lãi suất trong loại hợp đồng vay tài sản này?Vì vậy, đây chính là một trong những nội dung mà pháp luật chưa có quy định cụ thể, gây ra khó khăn cho các bên tham gia giao dịch. Khi có tranh chấp loại hợp đồng này xảy ra thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ rất khó khăn để giải quyết nếu trong hợp đồng các bên tự thỏa thuận lãi suất; không ấn định mức lãi suất cụ thể, bất biến trong hợp đồng. Đồng thời, từ đó cũng đặt ra vấn đề: Nếu hợp đồng vay tài sản có đối tượng không phải là tiền mà có lãi suất nhưng giữa các bên đã có sự thống nhất về mức lãi suất, ấn định cụ thể và bất biến là một con số cụ thể nào đó. Khi đó vấn đề lãi suất trong hợp đồng vay tài sản này đã được xử lý một cách rõ ràng, mức lãi suất thì hoàn toàn có thể được công nhận theo mức lãi suất của hợp đồng vay tài sản có đối tượng là tiền được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. Vậy thì các chủ thể khi có nhu cầu xác lập loại hợp đồng vay tài sản này có thể xác lập được không? Các tổ chức hành nghề công chứng có tiếp nhận để giải quyết yêu cầu công chứng cho các bên không?Thứ năm, về mục đích sử dụng tài sản vay. Đây là một quy định mang tính đặc thù, chỉ hiện diện ở hợp đồng vay tài sản trong số các loại hợp đồng dẫn tới chuyển dịch chủ sở hữu hoặc sử dụng tài sản. Sau khi quyền sở hữu tài sản đã được chuyển dịch sang cho chủ sở hữu mới thông qua các hình thức khác nhau như: Tặng cho, mua bán hoặc trao đổi, về mặt nguyên tắc chủ sở hữu mới được tự do thực hiện các quyền sở hữu đối với khối tài sản đó theo quy định của pháp luật mà không phải chịu bất cứ sự ràng buộc nào từ phía chủ sở hữu cũ trước đó. Tuy nhiên, tại Điều 467 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Các bên có thể thỏa thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng mục đích vay, bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản và đòi lại tài sản cho vay trước thời hạn nếu đã có thỏa thuận mà bên vay vẫn sử dụng tài sản trái mục đích”. Như vậy, có thể hiểu, mục đích sử dụng tài sản vay chính là tài sản đi vay sẽ được bên vay đem dùng vào công việc gì và mục đích sử dụng tài sản vay phải được bên vay và bên cho vay thỏa thuận trước khi giao kết hợp đồng vay tài sản. Liệu quy định này có tạo nên yếu tố mâu thuẫn với tinh thần của chế định quyền sở hữu khi mà bên cho vay đã chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên vay khi xác lập giao dịch vay tài sản?Thứ sáu, về hình thức của hợp đồng vay tài sản. Hiện nay, pháp luật chưa quy định hình thức bắt buộc đối với loại hợp đồng này. Vì vậy, các bên khi giao kết hợp đồng vay tài sản có thể tùy ý lựa chọn hình thức của hợp đồng, trong đó hình thức giao kết bằng miệng diễn ra rất phổ biến. Do đó, việc phát sinh các tranh chấp từ loại hợp đồng này hiện nay rất khó xử lý, thậm chí nhiều bên cho vay không thể thu hồi nợ do thiếu cơ sở pháp lý.Bên cạnh đó, việc xác lập hợp đồng vay tài sản mang tính giả tạo trên thực tế hiện nay cũng rất phổ biến. Đã có nhiều trường hợp các bên thực hiện giao dịch vay tài sản nhưng không ký hợp đồng vay tài sản mà ký hợp đồng mua bán, đặt cọc tài sản. Ví dụ như: Hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng đặt cọc mua bán nhà, mua bán quyền sử dụng đất; hợp đồng mua bán xe ô tô... Với những trường hợp này, bên cho vay sẽ giữ tài sản hoặc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở của bên vay. Khi đến hạn trả nợ, nếu bên vay không trả gốc và lãi thì bên cho vay yêu cầu tiến hành thủ tục mua bán tài sản. Trường hợp này, nếu bên vay kiện lên Tòa án thì khó có thể đòi được quyền lợi của mình, vì hình thức của hợp đồng không phải là hợp đồng vay tài sản. Việc xác định mức lãi suất, hạn trả nợ không được quy định trong hợp đồng mà sẽ do các bên thỏa thuận. Mặt khác, bên cho vay sẽ đưa hợp đồng mua bán hay đặt cọc tài sản đó ra làm chứng cứ trước Tòa, dẫn đến Tòa án buộc phải chấp nhận yêu cầu của bên cho vay mà không thể bảo vệ cho bên vay.Nguồn bài viết: https://danchuphapluat.vn/mot-so-vuong-mac-ve-hop-dong-vay- tai-san-theo-quy-dinh-cua-bo-luat-dan-su-nam-2015-duoi-goc-nhin-cong-chung BÀN VỀ TIỀN LÃI ĐỐI VỚI HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN LÀ VÀNGVŨ VĂN HOÀNGVàng là loại tài sản có giá trị cao, có tính thanh khoản và giá trị sử dụng trên toàn cầu. Trước khi đồng tiền ra đời, vàng được sử dụng rộng rãi như vật ngang giá, có giá trị trao đổi với các loại tài sản khác. Chính vì thế, việc sử dụng vàng là đối tượng của hợp đồng vay tài sản cũng có tính phổ biến trong thực tiến giao dịch dân sự.Cần có hướng dẫn áp dụng cụ thể đối với hợp đồng vay tài sản là vàngTrong thực tiễn giải quyết tranh chấp và xét xử, các tòa án thường phải giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng vay tài sản có đối tượng vay là vàng (sau đây gọi tắt là hợp đồng vay vàng). Tuy vậy, quan điểm giải quyết tranh chấp về tiền lãi đối với hợp đồng vay vàng còn nhiều ý kiến khác nhau, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng thống nhất pháp luật.Năm 1992, thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ra quyết định công bố mức lãi suất cho vay đối với vàng tối đa là 7%/năm. Ngày 19 tháng 6 năm 1997, Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ tư pháp - Bộ tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 01/TTLT, hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản. Tại khoản 5, mục I của Thông tư hướng dẫn “Trong trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng, thì lãi suất chỉ được chấp nhận khi Ngân hàng Nhà nước có quy định và cách tính lãi suất không phân biệt như các trường hợp đã nêu tại khoản 4 trên đây, mà chỉ tính bằng mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định”. Căn cứ vào các văn bản trên, trong giai đoạn này, khi giải quyết các tranh chấp vay vàng, Tòa án căn cứ mức lãi suất cho vay 7%/năm để giải quyết.Từ năm 2000, thống đốc NHNN Việt Nam đã hủy bỏ quyết định năm 1992, từ đó đến nay không có văn bản nào quy định về mức lãi suất cho vay vàng. Do vậy, từ giai đoạn này, không còn cơ sở để áp dụng mức lãi suất vay vàng 7%/năm để xử lý tranh chấp.Thông tư 01/1997 là văn bản hướng dẫn tại thời điểm Bộ luật dân sự năm 1995 có hiệu lực thi hành. Đến nay đã trải qua 02 Bộ luật dân sự mới được ban hành, nhưng vẫn không có văn bản nào mới quy định về nội dung này, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, không thống nhất trong quá trình giải quyết, xét xử tranh chấp.Có quan điểm cho rằng Theo thông tư số 01/1997 hướng dẫn lãi suất hợp đồng vay vàng chỉ tính bằng mức lãi suất do Ngân hàng nhà nước quy định, nhưng hiện nay Ngân hàng nhà nước không quy định về lãi suất cho vay vàng nên nếu đương sự có yêu cầu thì không có căn cứ để xem xét, giải quyết tiền lãi đối với hợp đồng vay vàng.Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 463, Bộ luật dân sự 2015 quy định về Hợp đồng vay tài sản như sau: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”Như vậy, có sự xung đột giữa văn bản hướng dẫn của Bộ luật dân sự năm 1995 và quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 hiện hành, cần được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn, giải đáp để thống nhất áp dụng pháp luật.Quan điểm của người viết cho rằng Điều 463, Bộ luật dân sự năm 2015 đã chỉ rõ “chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Vàng cũng như các loại tài sản khác, là đối tượng của hợp đồng vay tài sản. Các bên giao dịch dân sự có quyền thỏa thuận với nhau về việc trả lãi (bản chất là không ai cho vay mà không có lãi). Mặt khác, cũng không có văn bản quy phạm pháp luật nào cấm việc tính lãi đối với hợp đồng cho vay vàng.Do đó, khi giải quyết tranh chấp, trường hợp các bên giao dịch không thỏa thuận hoặc không chứng minh được thỏa thuận về tiền lãi vay vàng thì không có cơ sở xem xét tính lãi đối với tài sản vay là vàng. Tuy nhiên, cac bên có thỏa thuận rõ việc tính lãi thì Tòa án phải xem xét đối với số tiền lãi trong phạm vi pháp luật quy định để đảm bảo quyền lợi của người cho vay vàng.Vàng là tài sản có giá trị cao, biến động theo từng thời điểm giao dịch. Để tránh lúng túng trong việc “không có căn cứ tính lãi”, người viết đề xuất Tòa án nhân dân Tối cao có hướng dẫn cụ thể căn cứ tính lãi của hợp đồng đồng vay tài sản là vàng (hoặc tương tự đối với các tài sản khác) theo hướng quy đổi giá trị tài sản thành tiền Đồng Việt Nam tại thời điểm cho vay để làm căn cứ tính lãi tương tự hợp đồng vay tiền theo Điều 468 Bộ luật dân sự. Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản 1 Điều 468 thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.Nguồn bài viết: http://www.toaandaklak.gov.vn/trao-doi-nghiep-vu/ban-ve-tien- lai-doi-voi-hop-dong-vay-tai-san-la-vang-5206.html MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰThS. ĐOÀN THỊ NGỌC HẢISở Tư pháp tỉnh Ninh BìnhTrong cuộc sống hàng ngày, để giải quyết những khó khăn tạm thời về kinh tế, đặc biệt đối với những gia đình túng thiếu cần vốn để sản xuất, kinh doanh, phải vay mượn tài sản của người khác để thực hiện những mục đích trên …thì hợp đồng vay tài sản là phương tiện pháp lý để thỏa mãn những nhu cầu đó. Thực tế, Nhà nước đã tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn của ngân hàng với mức lãi suất phù hợp, các hộ nông dân nghèo có điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh. Hoặc nhân dân vay, mượn của nhau để tiêu dùng cho những việc cần thiết trong gia đình hoặc để kinh doanh là việc làm phổ biến và có ý nghĩa cần được Nhà nước khuyến khích.Những vấn đề lý luận chung của hợp đồng vay tài sảnKhái niệm hợp đồng vay tài sảnTheo Từ điển Tiếng Việt thì vay là hoạt động nhận tiền hay vật gì của người khác để chi dùng trước với điều kiện sẽ trả tương đương hoặc có thêm phần lãi. Dưới góc độ tín dụng thì: “Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi” (khoản 16 Điều 4 Luật các tổ chức tính dụng năm 2010).Dưới góc độ dân sự thì: Theo giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 2 của Trường Đại học Luật Hà Nội: Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên cho vay giao cho bên vay một số tiền hoặc tài sản để làm sở hữu. Hết hạn của hợp đồng, bên vay có nghĩa vụ trả cho bên kia số tiền hoặc hiện vật tương đương với tiền hoặc vật đã vay, đồng thời trả thêm một số lợi ích vật chất nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định (1). Theo Điều 463 BLDS 2015: Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định (2).Trên cơ sở các quan điểm trên, tác giả cũng đưa ra quan điểm của mình về Hợp đồng vay tài sản: Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng dân sự thông dụng, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay, khi đến hạn trả cho bên cho vay thì bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định (3).Đặc điểm của hợp đồng vay tài sảnThứ nhất, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng ưng thuận hoặc hợp đồng thực tế.Pháp luật không quy định cụ thể về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng vay tài sản, liên quan đến vấn đề này, thực tiễn đã có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng ưng thuận. Theo quan điểm của TS. Nguyễn Mạnh Bách: “Hiệu lực của hợp đồng vay tài sản không lệ thuộc vào sự giao tài sản, hợp đồng vay được thành lập khi có sự thỏa thuận của hai bên và có hiệu lực ngay từ lúc đó, bên cho vay có nghĩa vụ giao tài sản cho bên vay. Với lập lập này, TS. Nguyễn Mạnh Bách khẳng định hợp đồng vay tài sản là hợp đồng ưng thuận.Quan điểm thứ hai cho rằng, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng thực tế. ThS. Nguyễn Hữu Chính lập luận: “Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng thực tế, trong hợp đồng vay tài sản thì việc thể hiện ý chí của các chủ thể chỉ là điều kiện cần, muốn hợp đồng có hiệu lực pháp luật, thì các bên phải tiến hành chuyển giao tiền hoặc vật cho nhau, đó là điều kiện đủ”.Theo quan điểm của cá nhân tác giả thì: “Hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng ưng thuận cũng có thể là hợp đồng thực tế tùy từng trường hợp cụ thể, điều này tùy thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên (bên vay và bên cho vay) cũng như hình thức của hợp đồng vay. Thứ hai, Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng đơn vụ hoặc song vụXét về nguyên tắc, hợp đồng cho vay là đơn vụ đối với những trường hợp vay không có lãi suất, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải hoàn trả vật cùng loại tương ứng với số lượng, chất lượng của tài sản cho bên cho vay. Bên vay không có quyền đối với bên cho vay. Tuy nhiên, đối với hợp đồng cho vay có lãi suất thì bên cho vay có nghĩa vụ chuyển tiền đúng thời hạn, nếu vi phạm phải chịu trách nhiệm dân sự.Tức là, bên vay và bên cho vay ràng buộc nghĩa vụ đối với nhau từ thời điểm hợp đồng phát sinh hiệu lực. Do vậy, việc xác định hợp đồng vay tài sản là hợp đồng song vụ hay đơn vụ, điều đó phụ thuộc vào thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng. Vì vậy, (i) Nếu hợp đồng vay tài sản là hợp đồng thực tế, tức là hợp đồng vay có hiệu lực từ thời điểm bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên vay thì chỉ có bên vay có nghĩa vụ trả tài sản cho bên cho vay, thì trường hợp này hợp đồng vay là hợp đồng đơn vụ; (ii) Nếu hợp đồng vay là hợp đồng ưng thuận tức là hợp đồng vay có hiệu lực từ thời điểm giao kết thì bên cho vay có nghĩa vụ chuyển giao tài sản vay, còn bên vay có nghĩa vụ trả tài sản cho bên cho vay thì trường hợp này, hợp đồng vay là hợp đồng song vụ.Thứ ba, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bùNếu hợp đồng vay có lãi suất là hợp đồng vay có đền bù. Khoản lãi chính là lợi ích vật chất mà bên cho vay nhận được từ hợp đồng vay. Các hợp đồng tín dụng của ngân hàng luôn được xác định là hợp đồng vay có đền bù, lãi trong hợp đồng vay do các bên thỏa thuận.Nếu hợp đồng vay không có lãi suất là hợp đồng không có đền bù. Hợp đồng vay không có đền bù được xác lập phổ biến với những người có quan hệ thân thích, tình cảm…mang tính chất tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.Thứ tư, hợp đồng vay tài sản là hợp đồng chuyển quyền sở hữu đối với tài sản từ bên cho vay sang bên vay, khi bên vay nhận tài sản. Vì vậy, bên cho vay có toàn quyền đối với tài sản vay, trừ trường hợp vay có điều kiện sử dụng. Ý nghĩa của hợp đồng vay tài sảnHợp đồng vay tài sản là quan hệ tương đối phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Nó có tác dụng giúp cho bên vay giải quyết những khó khăn về kinh tế trước mặt; giúp các doanh nghiệp khắc phục khó khăn khi thiếu vốn đề sản xuất và lưu thông hàng hóa, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của con người, nhu cầu kinh doanh của các doanh nghiệp. Hợp đồng vay tài sản thường mang tính chất tương trợ giúp đỡ lẫn nhau để giải quyết những khó khăn tạm thời trong cuộc sống và sản xuất, kinh doanh.Xét về mặt kinh tế, đối với bản thân các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng, sẽ góp phần làm tang năng suất lao động , nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mình, bởi trong xã hội nhiều chủ thể có tài sản nhàn rỗi nhưng tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng đến, nên họ sẽ chuyển giao cho những chủ thể khác có nhu cầu, nhờ đó bản thân họ sẽ có them khoản lợi ích, nguồn thu nhập (lãi) từ chính tài sản đó; trong khi đó, một bộ phận chủ thể khác có nhu cầu sử dụng tài sản rất lớn, song họ lại không có hoặc không có đủ tài sản để đáp ứng cho nhu cầu của mình. Vì vậy, hợp đồng vay tài sản chính là một trong những phương thức hiệu quả để các bên có thể thỏa mãn được nhu cầu của mình, chủ thể đi vay sẽ có tài sản để phát triển sản xuất, kinh doanh tăng them thu nhập cho mình và gia đình hoặc phục vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của bản thân, còn chủ thể cho vay sẽ có them một khoản lợi ích. Ngoài ra, việc cho vay lẫn nhau còn giúp phân phối nguồn vốn trong xã hội, gián tiếp mang lại lợi ích cho đất nước, góp phần thúc đẩy nền kinh tế ngày càng giàu mạnh.Hợp đồng vay tài sản không những có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị - xã hội, thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Hiện nay với chế độ xã hội chủ nghĩa, quan hệ vay tài sản lại là một phương tiện pháp lý để thực hiện quan hệ hợp tác giữa các cá nhân với nhau; giữa Nhà nước với cá nhân và pháp nhân, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, giúp lưu thông hàng hóa, điều hòa nền kinh tế thị trường.Quy định của pháp luật về hợp đồng vay tài sản Đối tượng và kì hạn của hợp đồng vay tài sảnThứ nhất, về đối tượng của hợp đồng vay tài sảnThông thường, đối tượng của hợp đồng vay tài sản là một khoản tiền. Tuy nhiên, trong thực tế, đối tượng của của hợp đồng cho vay có thể là vàng, kim khí, đá quý hoặc một số lượng tài sản khác. Đối tượng của hợp đồng vay tài sản được chuyển từ bên cho vay sang cho bên vay, bên vay có quyền định đoạt đối với tài sản vay. Khi hết hạn của hợp đồng vay tài sản, bên vay có nghĩa vụ trả cho bên kia một tài sản khác cùng loại với tài sản đã vay hoặc số tiền đã vay.Thứ hai, về kì hạn của hợp đồng vay tài sảnHợp đồng vay tài sản có thể có hoặc không có kì hạn (xác định, không xác định). Nếu hợp đồng vay tài sản không thỏa thuận về kì hạn thì hợp đồng vay tài sản được coi là không có kì hạn. Bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện hợp đồng bất cứ thời điểm nào. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho bên vay chuẩn bị tiền hoặc tài sản khi trả, bên cho vay phải báo cho bên vay một thời gian hợp lí để thực hiện hợp đồng. Hết thời gian đó, bên vay buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình (Điều 469 BLDS 2015).Nếu hợp đồng không có kì hạn thì bên vay có thể thực hiện hợp đồng vào bất cứ thời gian nào, bên cho vay không được từ chối tiếp nhận việc thực hiện nghĩa vụ của bên vay. Xác định thời điểm chấm dứt hợp đồng vay có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm dân sự của các bên và thời hiệu của hợp đồng.Đối với hợp đồng vay có kì hạn không có lãi suất, thì bên vay có quyền trả lại tài sản bất cứ khi nào, còn bên cho vay chỉ được đòi tài sản trước thời hạn nếu bên vay đồng ý.Đối với hợp đồng vay có kì hạn và có lãi, bên vay phải trả tài sản và lãi đúng thời hạn. Nếu bên vay trả tài sản trước thời hạn thì phải trả toàn bộ lãi theo kì hạn đã thỏa thuận.Thứ ba, hình thức của hợp đồng vay tài sảnHình thức của hợp đồng vay tài sản có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản. Hình thức miệng thường được áp dụng trong những trường hợp như số lượng tài sản cho vay không lớn hoặc giữa các bên có mối quan hệ thân thiết. Đối với với hợp đồng cho vay bằng miệng, khi xảy ra tranh chấp, bên cho vay phải chứng minh được là mình đã cho bên vay vay một số tiền hoặc một số tài sản nhất định. Trong thực tế, nếu hình thức của hợp đồng vay tài sản bằng miệng mà có tranh chấp thì rất khó xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Để làm cơ sở pháp lí cho việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản, các bên nên kí kết hợp đồng bằng văn bản. Các bên có thể tự lập văn bản hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền các nhận văn bản đó.Lãi suất trong hợp đồng vay tài sảnLãi suất trong hợp đồng vay tài sản là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tài sản hoặc số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Luất suất thường được tính theo tuần, tháng hoặc năm do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Căn cứ vào lãi suất, số tiền vay hoặc thời gian vay mà bên vay phải trả một số tiền nhất định (tiền lãi). Số tiền này tỉ lệ thuận với lãi suất, số tiền đã vay và thời gian vay.Điều 468 BLDS 2015 quy định lãi suất giới hạn là 20%/năm của khoản tiền vay. Trường hợp các bên cho vay vượt quá lãi suất quy định thì phần vượt quá không có hiệu lực, trừ trường hợp luật khác liên quan quy định khác (Luật các tổ chức tín dụng). Ví dụ: A và B thỏa thuận lãi suất 25%/năm đối với khoản tiền vay là 100.000.000đ trong thời gian 2 năm. Trường hợp này các bên đã thỏa thuận vượt quá lãi suất theo quy định, do đó, phần vượt quá là 5% không có hiệu lực. Mức lãi suất để tính trong trừng hợp này là 20%/năm; Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất nhưng không cụ thể, nếu có tranh chấp thì tính bằng 10%/năm của khoản tiền vay tương ứng với thời hạn vay.Ngoài quy định về cách tính lãi suất trong hạn, BLDS 2015 quy định về lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Mặt khác, đối với khoản lãi suất chưa trả thì bên vay phải trả lãi suất bằng 50% mức lãi suất giới hạn hoặc khoản lãi chưa trả tương ứng với thời hạn chậm trả lãi. Đây là một quy định phù hợp với các quy định về nghĩa vụ trả tiền và trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ. Quy định này thúc đẩy bên vay phải thực hiện nghĩa vụ trả lãi đúng kì hạn, góp phần lành mạnh hóa thị trường tiền tệ. Ví dụ: A cho B vay 100.000.000 đồng với lãi suất 1%/ tháng, thanh toán tiền lãi hàng tháng và thời hạn của hợp đồng vay là 12 tháng từ 01/01/2017 đến 31/12/2017. Đến hạn B chưa thanh toán cho A cả gốc lẫn lãi. 06 tháng sau là 01/07/2018, B mới thực hiện việc thanh toán. Nghĩa vụ thanh toán của B trong trường hợp này theo quy định của BLDS 2015, như sau:Tiền nợ gốc =100.000.000 đồng.Tiền lãi trên nợ gốc trong thời hạn hợp đồng = 100.000.000 x 1% x 12 tháng =đồng.Tiền lãi đối với khoản lãi trên nợ gốc chậm trả trong thời hạn hợp đồng = 12.000.000 x 0.83% x 6 = 5.976.000 đồng.Tiền lãi nợ gốc quá hạn = 100.000.000 x 150% x 1% x 6= 9.000.000 đồng.Mục đích của quy định về lãi suất trong BLDS là nhằm hạn chế việc cho vay nặng lãi, bởi nếu đặt lợi thế quyết định ý chí trong hợp đồng vay thì bên cho vay có lợi thế quyết định ý chí hơn. Việc quy định cụ thể mức lãi suất trong luật là nhằm ngăn chặn việc bên cho vay lợi dụng tình trạng khó khăn của bên vay và đưa ra một mức lãi suất không thỏa đáng.Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng vay tài sảnThứ nhất, đối với bên cho vay tài sảnNếu hợp đồng vay không kì hạn, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay trả tiền và lãi (nếu có thỏa thuận) bất cứ thời gian nào nhưng phải thông báo cho bên vay một thời hạn hợp lí. Hết thời hạn đó là hết hạn của hợp đồng và bên vay không trả nợ là vi phạm về thời hạn.Trong BLDS 2015 không đưa ra khái niệm cụ thể về kì hạn vay tài sản cũng như thời hạn vay. Vấn đề này đã được giải quyết trong Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Ngân hàng nhà nước về việc ban hành Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, cụ thể: “Thời hạn cho vay là một khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi tiền vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng”, còn “Kì hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ tiền vay cho tổ chức tín dụng”. Ví dụ: A cho B vay 500.000.000đ trong thời gian 3 năm. B cam kết số nợ trên B sẽ trả cho A thành 3 đợt: đợt 1 (sau 6 tháng kể từ thời điểm nhận tiền vay): B trả cho A: 100.000.000đ; đợt 2 (sau 12 tháng kể từ ngày thanh toán đợt 1): B trả cho A: 150.000.000đ; đợt 3: B trả cho A toàn bộ số nợ còn lại vào thời điểm kết thúc 3 năm của thời hạn vay. Như vậy, thời hạn vay trong trường hợp này là 3 năm từ thời điểm B nhận tiền cho tới khi B trả hết toàn bộ số nợ; còn kì hạn vay là các khoảng thời gian trả nợ vào các đợt 1, đợt 2 và đợt 3.Đối với hợp đồng vay có kì hạn, khi hết hạn của hợp đồng, bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải trả cho mình một số tiền, tài sản tương ứng với số tiền, tài sản đã cho vay. Ngoài ra, nếu các bên có thỏa thuận về lãi suất, bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi như đã thỏa thuận. Nếu hợp đồng cho vay có áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nhưng bên vay không thực hiện đúng thời hạn thì bên cho vay có quyền xử lí tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Bên cho vay có nghĩa vụ giao tài sản đầy đủ, đúng số lượng, chất lượng, chủng loại như đã thỏa thuận cho bên vay. Nếu bên cho có ý lừa dối bên vay chuyển giao tài sản không bảo đảm chất lượng mà gây thiệt hại cho bên vay thì phải bồi thường.Thứ hai, đối với bên vay tài sảnLà người cần đến sự giúp đỡ về vật chất của bên cho vay, cho nên khi đến hạn của hợp đồng, bên vay phải tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình phát sinh từ hợp đồng đã kí kết. Bên vay phải trả đủ tiền hoặc tài sản đã vay và tiền lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Nếu đối tượng hợp đồng là tài sản thì bên vay phải trả bằng tài sản cùng loại. Nếu hợp đồng cho vay không kì hạn, khi bên cho vay yêu cầu trả nợ thì bên vay phải thực hiện hợp đồng trong thời gian thỏa thuận. Bên vay cũng có thể thực hiện hợp đồng bất cứ thời gian nào, thời điểm này được coi là thời điểm chấm dứt hợp đồng cho vay không kì hạn. Trường hợp các bên có thỏa thuận về mục đích vay, bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng tài sản của bên vay có đúng mục đích như thỏa thuận hay không. Nếu sử dụng tài sản không đúng mục đích đã thỏa thuận, bên cho vay có quyền hủy hợp đồng (Điều 467 BLDS 2015).Nếu hợp đồng có kì hạn mà bên vay trả nợ trước thời hạn thì phải trả toàn bộ nợ gốc và lãi của cả thời kỳ vay trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Bởi vì khi cho vay, bên cho vay đã xác định trong thời gian cho vay đó không sử dụng tài sản, tiền vào mục đích khác, do vậy khi trả lại tài sản thì bên cho vay chưa có kế hoạch sử dụng tài sản đó, tức là bên cho vay sẽ bị động khi bên vay trả tài sản trước thời hạn (khoản 2 Điều 470 BLDS 2015).Về hụi, họ, biêu, phường (gọi chung là họ).Họ là một loại giao dịch dân sự về tài sản, giao dịch được nhân dân ta sử dụng từ lâu và nó đã trở thành tập quán, thông qua hình thức góp vốn, lĩnh vốn theo phường/hội trên cơ sở một nhóm người về thời gian, số tiền hoặc tài sản khác (có thể chơi hội dưới hình thức góp tiền hoặc vàng…). Điều 471 BLDS 2015 quy định: “1. Họ là hình thức giao dịch về tài sản theo tập quán trên cơ sở thỏa thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng định ra số người, thời gian, thời gian, số tiền hoặc tài sản khác, thể thức góp, lĩnh họ và quyền, nghĩa vụ của các thành viên; 2. Việc tổ chức họ nhằm mục đích tương trợ trong nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật; 3. Trường hợp việc tổ chức họ có lãi thì mức lãi suất phải tuân theo quy định của pháp luật…”. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đã ban hành hẳn một Nghị định hướng dẫn chi tiết cụ thể vấn đề trên đó là Nghị định số 19/2019/NĐ-CP của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.Nguyên tắc chung của chơi họ là nhiều người (nhà con) hay còn gọi là một nhóm người (có thể là cùng cơ quan, cùng phố/xóm…) cùng tham gia một dây họ bầu ra nhà cái (người thu tiền/vàng/tài sản khác của các nhà con) và chuyển cho người bốc họ. Hằng tháng, mỗi nhà con phải góp một số tiền nhất định cho nhà cái. lần lượt theo thứ tự bốc thăm hoặc theo thỏa thuận đến kì hạn bốc họ, một nhà con sẽ nhận một số tiền từ nhà cái, số tiền này do các nhà con khác góp họ. Theo thứ tự bốc họ, khi người cuối cùng bốc họ thì dây họ chấm dứt.Bản chất truyền thống của góp họ là những người chơi họ tương trợ giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức góp họ, có thể thỏa thuận ai khó khăn hơn thì lấy trước, thành viên góp họ có được số vốn tập trung để có điều kiện kinh doanh, làm kinh tế gia đình như mở trang trại chăn nuôi hoặc sử dụng vào công việc gia đình mà cần khoản chi tiêu lớn. Những hình thức chơi họ có tính chất lành mạnh thì Nhà nước khuyến khích. Ngược lại, pháp luật cấm lợi dụng hình thức chơi họ nhằm lừa đảo hoặc biến tướng việc chơi họ để đánh bạc…Những trường hợp này, tùy theo mức độ vi phạm nặng hay nhẹ mà sẽ bị xử lí hành chính hoặc hình sự.Như vậy, trong điều kiện kinh tế thì trường phát triển mạnh như hiện nay, nhu cầu huy động vốn trở nên vô cùng cấp bách thì hợp đồng vay tài sản được coi là công cụ pháp lí hữu hiệu để giải quyết những nhu cầu đó, đồng thời cũng là căn cứ pháp lý khi các bên xảy ra tranh chấp và thực hiện quyền khởi kiện để đảm bảo quyền lợi của mình tại Tòa án. Việc quy định chặt chẽ các nội dung về Hợp đồng vay tài sản là vô cùng cần thiết.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢOXem, Bộ luật Dân sự năm 2015 (từ Điều 463 đến Điều 471);Xem, Trường Đại học Luật Hà Nội “Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam - Tập II”, NXB Công an nhân dân – 2017;Xem, PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ - PGS. TS. Trần Thị Huệ “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015”, NXB Công an nhân dân.Nguồn bài viết: https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao- doi.aspx?ItemID=2497 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢNThS NGUYỄN THỊ THU HỒNGTRỊNH TUẤN ANHKhoa Luật, Đại học Duy TânKhái niệm hợp đồng vay tài sảnHợp đồng là thuật ngữ pháp lý chỉ “các giao dịch dân sự thông qua việc thỏa thuận để chuyển giao các lợi ích giữa các cá nhân, tổ chức với nhau trong lĩnh vực luật tư”[1]. Về mặt pháp định, điều 385 BLDS 2015 quy định rằng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm quyền, nghĩa vụ dân sự”. Như vậy, chung quy lại, các quy định và ý niệm về hợp đồng được hiểu là một sự thỏa thuận của hai hay nhiều bên nhằm thực hiện một quyền hay nghĩa vụ nào đó nhằm hướng đến đạt được mục đích của mình khi tham gia giao dịch. Cũng như các hợp đồng khác, hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ trong đó có các nghĩa vụ cơ bản sau đây: Bên cho vay giao cho bên một khoản tiền hoặc vật. Khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả tiền hoặc vật cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi, nếu có thỏa thuận hợp pháp luật quy định. Điều 463 BLDS 2015 chỉ đề cập các quyền và nghĩa vụ cơ bản giữa các bên. Ngoài ra trong hợp đồng vay tài sản còn có các quyền và nghĩa vụ khác do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định.Đặc điểm của hợp đồng vay tài sảnThứ nhất, tuy khái niệm hợp đồng vay tài sản và cũng như các quy định khác trong BLDS 2015 không quy định về đối tượng của hợp đồng vay tài sản. Tuy nhiên đối tượng của hợp đồng vay tài sản được xác định dễ dàng từ tính chất của loại hợp đồng này. Đối tượng của hợp đồng vay tài sản phải là các động sản, bởi vì với loại tài sản này, các bên mới có thực hiện các hành vi giao nhận đối với nhau. Tuy nhiên không phải động sản nào cũng có thể trở thành đối tượng của hợp đồng vay tài sản, ngoài các điều kiện chung về tính hợp pháp, động sản là đối tượng của hợp đồng này chỉ có thể là một khoản tiền hoặc vật cùng loại. Như vậy các loại vật khác như vật đặc định, vật không tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng vay tài sản, chúng chỉ có thể là đối tượng của hợp đồng thuê hoặc hợp đồng mượn tài sản. Điều này được quyết định bởi đặc thù của hợp đồng vay tài sản so với các hợp đồng thuê hoặc mượn tài sản. Vay tài sản là căn cứ xác lập quyền sở hữu của bên vay đối với tài sản bay, bên bay có quyền chi phối tài sản vay với tư cách chủ sở hữu và chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn của hợp đồng cho nên đối tượng của quan hệ này chỉ có thể là tiền và vật cùng loại.Thứ hai, hình thức hợp đồng vay tài sản. Hình thức của hợp đồng vay tài sản có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản. Hình thức miệng thường được áp dụng trong những trường hợp cho vay không lớn hoặc giữa các bên có mối quan hệ thân quen. Trường hợp cho vay bằng miệng nếu xảy ra tranh chấp hợp đồng, bên cho vay phải chứng minh được là mình đã cho vay một số tài sản nhất định. Trong thực tế nếu hình thức của hợp đồng bằng miệng có tranh chấp thì rất khó xác định quyền và nghĩa vụ của các bên. Để làm cơ sở pháp lí cho việc giải quyết hợp đồng vay tài sản, các bên cần phải ký kết hợp đồng bằng văn bản. Các bên có thể tự lập văn bản hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận văn bản đó.Thứ ba, hợp đồng vay tài sản là mọt loại hợp đồng chuyển quyền sở hữu. Do đó bên vay trở thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó. Về nguyên tắc xuất phát từ quyền sở hữu, bên vay có toàn quyền chiếm hữu sử dụng định đoạt tài sản vay trừ trường hợp các bên có thỏa thuận về việc tài sản vay phải được sử dụng đúng mục đích hoặc có các hạn chế khác đối với bên vay (ví dụ: bên vay phải sử dụng số tiền vay trong một thời hạn nhất định. Nếu hết thời hạn này mà bên vay chưa sử dụng tiền thì bên cho vay có quyền đòi lại).Trong trường hợp bên vay đã thế chấp hoặc cầm cố tài sản khi vay một khoản tiền thì sau đó bên vay không hạn chế các quyền của bên vay đối với tài sản được tạo thành từ vốn vay được bảo đảm bằng thế chấp hoặc cầm cố. Ví dụ: A vay 100 triệu đồng của ngân hàng X để xây dựng khách sạn. A đã thế chấp ngôi nhà à A đang ở trị gía 150 triệu đồng cho ngân hàng. Trong trường hợp đến hạn mà A không trả được nợ thì ngân hàng không có quyền hạn chế A trong việc sử dụng hoặc định đoạt khách sạn. Ngân hàng chỉ có thể thu hồi vốn từ việc bán đấu giá ngôi nhà mà A đã thế chấp.Thứ tư, về thời điểm chuyển giao rủi ro. Về nguyên tắc, ai là chủ sở hữu tài sản thì phải gánh chịu rủi ro đối với tài sản của mình. Do đó, việc xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu trong các hợp đồng có chuyển quyền sở hữu nói chung và trong hợp đồng vay tài sản nói riêng rất quan trọng, vì nó liên quan đến thời điểm chịu rủi ro có thể xảy ra. Các bên có thể thỏa thuận cụ thể về thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản trọng hợp đồng vay. Nếu không có thỏa thuận thì khi bên vay tài sản nhận tài sản vay có nghĩa là, bên vay đã có quyền sở hữu tài sản vay đó, vì vậy bên vay phải chịu rủi ro đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình.Vai trò của hợp đồng vay tài sảnThứ nhất, về mặt kinh tế, đối với bản thân các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng, sẽ góp phần làm tang năng suất lao động , nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mình, bởi trong xã hội nhiều chủ thể có tài sản nhàn rỗi nhưng tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng đến, nên họ sẽ chuyển giao cho những chủ thể khác có nhu cầu, nhờ đó bản thân họ sẽ có them khoản lợi ích, nguồn thu nhập (lãi) từ chính tài sản đó; trong khi đó, một bộ phận chủ thể khác có nhu cầu sử dụng tài sản rất lớn, song họ lại không có hoặc không có đủ tài sản để đáp ứng cho nhu cầu của mình. Vì vậy, hợp đồng vay tài sản chính là một trong những phương thức hiệu quả để các bên có thể thỏa mãn được nhu cầu của mình, chủ thể đi vay sẽ có tài sản để phát triển sản xuất, kinh doanh tăng them thu nhập cho mình và gia đình hoặc phục vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của bản thân, còn chủ thể cho vay sẽ có them một khoản lợi ích. Ngoài ra, việc cho vay lẫn nhau còn giúp phân phối nguồn vốn trong xã hội, gián tiếp mang lại lợi ích cho đất nước, góp phần thúc đẩy nền kinh tế ngày càng giàu mạnh.Thứ hai, hợp đồng vay tài sản không những có ý nghĩa quan trọng về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị - xã hội, thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Hiện nay với chế độ xã hội chủ nghĩa, quan hệ vay tài sản lại là một phương tiện pháp lý để thực hiện quan hệ hợp tác giữa các cá nhân với nhau; giữa Nhà nước với cá nhân và pháp nhân, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, giúp lưu thông hàng hóa, điều hòa nền kinh tế thị trường.[1] Lê Minh Hùng (2012), “Khái luận về hợp đồng dân sự”, Tập bài giảng pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB Hồng Đức, tr. 86.Nguồn bài viết: https://khoaluat.duytan.edu.vn/goc-hoc-tap/mot-so-van-de-ly- luan-ve-hop-dong-vay-tai-san/ GIAO DỊCH MUA BÁN TÀI SẢN NHẰM CHE GIẤU GIAO DỊCH VAYTÀI SẢNTS. ĐẶNG THỊ THƠM(TANDCC tại Hà Nội)Giao dịch giả tạo là giao dịch mà ý chí được biểu đạt ra ngoài khác với ý chí đích thực và có tồn tại sự khác biệt giữa kết quả thực tế đã thực hiện giao dịch so với mục đích của giao dịch dân sự được xác lập. Thực tiễn công tác đã cho thấy, các giao dịch dân sự về vay tài sản phát triển nhưng ngoài việc phải chịu lãi suất cao thì người đi vay thường phải ký kết với người cho vay giao dịch mua bán tài sản (giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc mua bán nhà) với giá chuyển nhượng (mua, bán) thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế.Quy định của pháp luậtĐiều 124 BLDS (BLDS) 2015 quy định: Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu, còn giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này hoặc luật khác có liên quan. Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.Quy định này vẫn kế thừa Điều 129 BLDS 2005 nhưng bổ sung thêm cụm từ “hoặc luật khác có liên quan” để nhằm làm rõ yêu cầu tham chiếu các đạo luật khác khi đánh giá hiệu lực của giao dịch được che giấu bởi giao dịch dân sự khác đã được xác lập một cách giả tạo.Có thể hiểu, giao dịch giả tạo là giao dịch mà ý chí được biểu đạt ra ngoài khác với ý chí đích thực và có tồn tại sự khác biệt giữa kết quả thực tế đã thực hiện giao dịch so với mục đích của giao dịch dân sự được xác lập. Thực tiễn công tác đã cho thấy, các giao dịch dân sự về vay tài sản phát triển nhưng ngoài việc phải chịu lãi suất cao thì người đi vay thường phải ký kết với người cho vay giao dịch mua bán tài sản (giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc mua bán nhà) với giá chuyển nhượng (mua, bán) thấp hơn nhiều so với giá trị thực tế. Mục đích của việc ký kết hợp đồng mua bán tài sản là đảm bảo bên vay thực hiện hợp đồng vay. Đây là giao dịch giả tạo mà bên cho vay thườngsử dụng khi bên vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc thanh toán tiền vay gốcvà lãi không đúng hạn, thì bên cho vay yêu cầubên vay phải thực hiện hợp đồng chuyển nhượng tài sản. Thậm chí, bên cho vay còn thực hiện thủ tục sang tên và được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với tài sản vốnđang thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của bên vay.Như vậy, trong trường hợp này, tồn tại 02 giao dịch, đó làhợp đồng vay tài sảnvà hợp đồng mua bán tài sản. Thực trạng diễn ra khá phổ biến là trước khi kiện ra Tòa án, biết bên vay khó có khả năng thanh toán nợ gốc và lãi, nên bên cho vay không kiện vay tài sản. Dựa trên cơ sở hợp đồng mua bán tài sản, giấy chứng nhận nhà đất đã được sang tên, bên cho vay kiện bên vay yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán tài sản hoặc đòi tài sản là nhà đất. Các Thẩm phán thường gặp khó khăn khi giải quyết các vụ án này bởi không dễ dàng nhận biết giao dịch nào là thật, giao dịch nào là giả, đòi hỏi sự thận trọng, kĩ năngkinh nghiệm chuyên sâu và việc thu thập, đánh giá chứng cứtoàn diện, đầy đủ.Một số vụ án cụ thểVụ án thứ nhất: Tranh chấp đòi nhà giữa Nguyên đơn là ông C với bị đơn là ông S, bà T. Ông C kiện ông S, bà T yêu cầu trả nhà đất số 10, KM, HN với lý do: Năm 2012, ông C mua nhà đất của vợ chồng ông S, bà T với giá thực tế là 02 tỷ đồng nhưng giá ghi tại hợp đồng có công chứng là 300 triệu đồng. Ông C trình bày ông giao đủ tiền cho vợ chồng bà T tại Ngân hàng nông nghiệp và camera của Ngân hàng có ghi lại việc ông giao tiền. Ông đồng ý cho vợ chồng bà T ở lại nhà đất nêu trên cho đến khi ông hoàn tất thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà. Ngày 25/9/2012, ông C được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà nên ông yêu cầu vợ chồng bà T bàn giao nhà nhưng vợ chồng bà T không thực hiện. Bà T không chấp nhận yêu cầu đòi nhà của ông C mà cho rằng việc vợ chồng bà ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất là để làm tin cho việc vay tiền. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất, bà có nhận tiền của ông C tại Ngân hàng Nông nghiệp (bà không đếm nhưng cho rằng chỉ nhận 300 triệu đồng) và bà có giao giấy chứng nhận nhà đất cho ông C.-Vụ án thứ hai: Tranh chấp chấp đòi quyền sử dụng đất và tài sản trên đất giữa nguyên đơn là chị H với bịđơn là anh Đ. Năm 2011, hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Văn phòng công chứng số 3 tỉnh HY với nội dung: Vợ chồng anh Đ chuyển nhượng 391m2 đất, tại, thị trấn N, huyện V, H Y với giá thống nhất ghi tại hợp đồng là 600 triệu đồng. Cùng ngày ký hợp đồng, chị H giao cho anh Đ 200 triệu đồng (không lập giấy biên nhận) tại Văn phòng công chứng. Ngày 06/12/2011, chị H thanh toán tiếp cho anh Đ400 triệu đồng. Ngoài ra, các tài sản trên đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nên hai bên thỏa thuận giá các tài sản gồm nhà ngói 05 gian, một dãy phòng trọ và các công trình phụ là 600 triệu đồng. Ngày 15/12/2011, chị H giao đủ 600 triệu đồng nhưng sau đó anh Đ không giao nhà đất cho chị H. Chị H khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh Đ phải trả nhà đất cho chị, vì chị đã thanh toán đủ cho anh Đ 1,2 tỷ đồng. Anh Đ không chấp nhận yêu cầu của chị H mà cho rằng anh Đ vay 600 triệu đồng với lãi suất 3.500 đồng/triệu/ngày của chị H. Chị H yêu cầu anh phải thế chấp quyền sử dụng đất của gia đình anh Đ cho chị dưới hình thức ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất. Sau khi hợp đồng, ngày 06/12/2011 chị H cho anh Đ vay 400 triệu đồng. Ngày 15/12/2011, đưa tiếp 200 triệu đồng nhưng chị H cắt lãi luôn. Chị H bảo anh gộp hai lần giao tiền thành giấy biên nhận ngày 15/12/2011 ghi thành 600 triệu và sẽ xé giấy biên nhận của ngày 06/12/2011 cho anh. Thực tế anh Đ nhận tổng số tiền của chị H là 536 triệu đồng, anh không bán nhà đất. Anh đã trả lãi cho chị H là 252 triệu đồng (không có giấy biên nhận) nhưng có người làm chứng là anh P và anh N và khi trả lãi chị H đưa cho anh tờ lịch chị H tính lãi để anh đối chiếu.Vụ án thứ ba: Tranh chấp kiện đòi tài sản giữa nguyên đơn là anh T và anh B, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông L (bố của anh B). Vợ chồng ông L là chủ sở hữu hợp pháp nhà số 03B phương 1, quận G, HN. Anh B cần tiền kinh doanh nên ngày 21/4/2010, vợ chồng ông L ký hợp đồng Ủy quyền tại Văn phòng công chứng số 02 HN với nội dung: Anh B được quyền thay mặt vợ chồng ông L thực hiện việc quản lý, khai thác, sử dụng và chuyển nhượng, định đoạt đối với toàn bộ căn hộ số 03B. Ngày 09/4/2011, anh B ký hợp đồng mua bán nhà ở và quyền sử dụng đất ở nêu trên cho anh T tại Văn phòng công chứng số 2với giá 600 triệu đồng. Ngày 22/7/2011, anh T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác đối với nhà số 03B. Anh T khởi kiện yêu cầu anh B và gia đình ông L phải trả nhà đất và bồi thường thiệt hại từ việc không bàn giao nhà cho anh với lý do anh đã trả tiền mua nhà số 03B với giá thực tế là 5,9 tỷ đồng. Ông L và anh B không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T mà cho rằng: Vợ chồng ông L ký hợp đồng Ủy quyền với mục đích anh B vay tiền Ngân hàng để kinh doanh nhưng anh B vay tín dụng đen, lãi suất cao nên đã lừa vợ chồng ông L ký giấy Ủy quyền vay tiền Ngân hàng để trả nợ cho anh T và một số người bạn của anh T là anh P, anh K, chị M. Trước đó, anh B vay anh P, anh K 500 triệu đồng với lãi suất cao. Khi được anh P giới thiệu đến Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Công thương vay 1,5 tỷ đồng (có thế chấp căn hộ 03B) thì anh B chỉ thực nhận 600 triệu đồng còn trừ vào tiền vay gốc và lãi của anh P, anh K. Do áp lực phải trả tiền vay cho Ngân hàng, anh B tiếp tục thông qua anh P, anh K, chị M và anh T để vay 2 tỷ đồng, lãi suất 5.000 đồng/triệu/ngày, có thời điểm lên 7.000 đồng/triệu/ngày và 10.000 đồng/triệu/ngày. Sau 06 tháng chịu lãi cao, anh P, anh K, chị M và anh T ép anh B phải bán nhà số 03Bvà gây áp lực cho anh B. Anh B phải ký vào hợp đồng chuyển nhượng nhà đất (do anh T đứng tên nhận chuyển nhượng) để trừ nợ 5,9 tỷ đồng (đây là số tiền mà anh B bị ép chốt nợ vay cả gốc và lãi), trong khi thực tế giá căn hộ thời điểm tháng 4 năm 2011 là khoảng 10 tỷ đồng. Ông L và anh B không đồng ý giao nhà, anh T cùng 10 ngườikhác kéo đến gây áp lực, phá đồ đạc dẫn đếnvợ ông L phải thắt cổ tự tử.Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm khi xét xử 03 vụ án nêu trên đều nhận định giao dịch chuyển nhượng nhà đất giữa các bên là hợp pháp và quyết định chấp nhận yêu cầu đòi nhà của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả toàn bộ nhà đất cho nguyên đơn.Chánh án TANDCC đã kháng nghị cả ba vụ án, đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội hủy bản án dân sự sơ thẩm và hủy bản án dân sự phúc thẩm, giao hồ sơ về Toà án cấp sơ thẩm xét xử theo thủ tục sơ thẩm, theo quy định của pháp luật. Ủy ban Thẩm phán TANDCC chấp nhận kháng nghị của Chánh án TANDCC đối với cả ba vụ án nêu trên.Các dấu hiệu nhận biết giao dịch giả tạo03 vụ án nêu trên chỉ là 03 ví dụ cụ thể cho việc xem xét đánh giá giao dịch nào là giao dịch giả tạo. Chúng tôi xin đưa một vài ý kiến, quan điểm để cùng đồng nghiệp trao đổi những dấu hiệu nhận biết khi giải quyết các loại giao dịch này:Xét về các điều kiện giao dịch như chủ thể tham gia giao dịch có năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập; mục đích nội dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức, hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng vay tài sản hay hợp đồng chuyển nhượng tài sản nêu trên đều đáp ứng được các điều kiện của Điều 122 BLDS 2005 và Điều 117 BLDS 2015.Đối với hợp đồng cho vay tài sản: Theo quy định Điều 471 BLDS 2005, Điều 463 BLDS 2015 thì chủ thể tham gia cho vay tài sản có thể là cá nhân hoặc tổ chức, hình thức hợp đồng vay có thể bằng văn bản hoặc lời nói, lãi suất trong hợp đồng vay theo sự thỏa thuận của các bên. Do đó, nếu căn cứ vào chủ thể kí kết và hình thức giao dịch thì cả ba hợp đồng vay ba vụ án nêu trên đều là là giao dịch hợp pháp.Đối với giao dịch mua bán (chuyển nhượng) nhà đất được xác lập giữa bên cho vay và bên vay (theo trình bày của người vay) có lập hợp đồng bằng văn bản được công chứng, chứng thực phù hợp với quy định của pháp luật về hình thức của hợp đồng, có giấy biên nhận tiền của bên bán (tức bên vay) nên théo Điều 450, 451 BLDS 2005, Điều 430 BLDS 2015 thì việc chuyển nhượng nhà đất cũng phù hợp quy định của pháp luật.Tuy nhiên, để đánh giá giao dịch nào là hợp pháp, giao dịch nào là giả tạo, thì phải đánh giá chủ thể tham gia giao dịch đó có hoàn toàn tự nguyện hay không? Để giải quyết hợp đồng giả tạo theo quy định tại Điều 129 BLDS 2005, Điều 124 BLDS 2015 thì cần phải làm rõ yếu tố khách quan của nó là luôn tồn tại hai hợp đồng trong đó một hợp đồng bề ngoài và một hợp đồng bị che giấu. Vậy các bên có sự đồng thuận trong việc ký kết, xác lập giao dịch hay không? Xét hợp đồng mua bán tài sản: Thấy rằng bản chất các bên mong muốn thực hiện giao dịch cho vay và đảm bảo cho hợp đồng vay được thực hiện nhưng vẫn ký hợp đồng mua bán tài sản. Như vậy, việc thể hiện ý chí ra bên ngoài không thực hiện đúng theo ý chí (có sự khác nhau giữa ý chí và bày tỏ ý chí) đối với hợp đồng mua bán tài sản.Có nghĩa là có sự không thống nhất giữa ý chí của bên bán (mục đích vay tiền, đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ vay tiền) và thực hiện ý chí của bên bán (ký kết hợp đồng bán nhà) và đối với bên cho vay (tức là bên mua) tại thời điểm ký kết mong muốn mua tài sản không rõ ràng (nếu thực hiện việc mua bán sẽ rất có lợi) mà mục đích ký kết hợp đồng mua bán để đảm bảo cho hoạt động vay tiền. Như vậy, giữa ý chí và bày tỏ ý chí của các bên trong trường hợp này là không thống nhất.Lời khai và chứng cứ xuất trình của các đương sự có sự mâu thuẫn nên khi giải quyết các vụ án này Tòa án cần:Thu thập các giấy biên nhận tiền, các file tài liệu ghi âm (nếu có), lời khai của bên vay, bên cho vay, lời khai của người làm chứng về các khoản tiền gốc và lãi, các khoản lãi đã trả, lãi phải trả có phù hợp với lãi suất vay theo trình bày của bên vay hay không? Thu thập tài liệu chứng cứ thể hiện các bên có thoả thuận về phương thức, thời hạn giao nhận nhà sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng mà các bên đã nêu tại hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cũng như hồ sơ xin đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất trong đó có các thủ tục quy định của pháp luật phải do bên chuyển nhượng thực hiện thì người chuyển nhượng đã thực hiện như thế nào để đánh giá ý chí tự nguyện của người tham gia giao dịch này.Xem xét và thẩm định, định giá nhà đất tại thời điểm các bên ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất thì giá thị trường có phù hợp với thoả thuận mua bán của các bên ghi tại giấy biên nhận tiền hay các hợp đồng mua bán hay không? Đánh giá lời khai của bên mua (tức bên cho vay) về việc họ đã xem xét nhà đất cũng như đặcđiểm hiện trạng nhà đất được nêu tại các hợp đồng công chứngcó phù hợp hay không? Trong trường hợp các tài sản trên đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, hoặcđã có sự thay đổi tài sản trên đất so với giấy chứng nhận được cấp thì ngoài việc yêu cầu đương sự trình bày về đặc điểm hiện trạng tài sản mà họ cho rằng họ đã mua thì phải xem xét trướcđó các bên có lập các văn bản, giấy tờ nào khác về thoả thuận mua bán không? Ví dụ: Hợp đồng chuyển nhượng chưa có công chứng, chứng thực, thoả thuận đặt cọc mua bán nhà…thông thường các hợp đồng chuyển nhượng (mua bán viết tay) nêu rất rõ đặc điểm hiện trạng nhà đất và các giấy biên nhận tiền đặt cọc thanh toán sẽ thể hiện chính xác đối tượng mua bán và giá cả thực tế chuyển nhượng.Kiến nghịViệc xác định hợp đồng giả tạo là rất khó khăn trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn giải quyết. Đặc biệt trong hoạt động vay tài sản thông thường bên vay không có giấy tờ nên việc chứng minh tại Tòa án là rất phức tạp và khó khăn. Có vụ án người vay đã trả tiền lãi và một phần nợ gốc nhưng không có giấy biên nhận trả nợ để làm căn cứ chứng minh đó là giao dịch vay tài sản mà không phải là mua bán tài sản. Có trường hợp các bên đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với hoạt động mua bán tài sản, thể hiện có sự đồng thuận trong việc thực hiện hợp đồng mua bán tài sản nên càng khó khăn cho Tòa án các cấp trong giải quyết các loại vụ án này.Để thống nhất áp dụng pháp luật, tránh việc hủy, sửa án nhiều lần chúng tôi đề nghị TANDTC sớm có hướng dẫn và giải thích pháp luật, lựa chọn Án lệ khi giải quyết các vụ án về giao dịch vô hiệu do giả tạo được quy định tại Điều 124 BLDS 2015.Cụ thể là có sự thống nhất về đường lối giải quyết các vụ án về kiện đòi tài sản, yêu cầu thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nhà đất mà các bên xác lập hợp đồng chuyển nhượng nhà đất có công chứng, chứng thực phù hợp với quy định của pháp luật về hình thức nhưng nội dung tại hợp đồng công chứng thể hiện công chứng viên không chứng kiến việc giao tiền giữa các bên, bên nhận chuyển nhượng không xuất trình được giấy giao tiền hoặc giấy giao tiền thấp hơn rất nhiều so với giá trị nhà đất còn bên chuyển nhượng cho rằng giao dịch này thực chất che đậy việc vay nợ và cũng không xuất trình được giấy vay tiền thì sẽ giải quyết như thế nào? Ngoài ra, một trong những nội dung lời chứng của Công chứng viên trong các hợp đồng, giao dịch công chứng phải ghi đối tượng của hợp đồng, giao dịch là có thật. Có quan điểm cho rằng: Công chứng viên phải chịu trách nhiệm biết rõ tài sản trong các giao dịch là có trên thực tế và phải giống như các bên mô tả trong hợp đồng, giao dịch. Ví dụ: Hợp đồng bán nhà các bên ghi là 3 tầng, cấu trúc bê tông, thì thực tế phải đúng như vậy; nếu nhà có diện tích, cấu trúc thay đổi, thì Công chứng viên chịu trách nhiệm vì đối tượng không có thật. Quan điểm khác cho rằng: Đối tượng hợp đồng là có thật, có nghĩa là công chứng viên phải biết rõ những gì các bên hướng tới, mong muốn đạt được khi tham gia giao dịch đúng như đối tượng đặc trưng của loại hợp đồng, giao dịch mà các bên giao kết. Ví dụ: Hợp đồng mua bán thì bên mua hướng đến là quyền sở hữu căn nhà, bên bán hướng đến là sở hữu, tiền do bên mua trả. Trong trường hợp nếu các bên chỉ lập hợp đồng mua bán nhà để che giấu giao dịch khác, thực hiện mục đích khác như vay tiền, chứng minh tài chính thì các bên hướng tới là cái khác chứ không phải như đối tượng là bản chất của hợp đồng bán nhà. Chúng tôi cho rằng, Công chứng viên cần có trách nhiệm bảo vệ an toàn pháp lý cho người yêu cầu công chứng, do đó pháp luật về công chứng cũng cần có những quy định chặt chẽ và phù hợp với thực tế để việc chứng nhận tính xác thực của giao dịch không chỉ là chứng nhận các bên có thỏa thuận, xác lập giao dịch với nội dung thể hiện trên văn bản mà đối tượng và đặc điểm tài sản được các bên giao dịch cũng phải có thật, đúng với hiện trạng tại thời điểm xác lập thì các hợp đồng công chứng mới thực sự có giá trị trong thực tế.Nếu thấy dấu hiệu bất thường khi các bên có đề nghị công chứng thì các Công chứng viên cũng phải đặt nghi vấn, hoãn lại để tìm hiểu thật kỹ trước khi xác nhận lời chứng.Các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng cũng cần đẩy mạnh hình thức cho vay ưu đãi, thủ tục nhanh chóng, đơn giản đến từng cá nhân, hộ gia đình, tránh thủ tục phiền hà để người dân được chủ động tiếp cận nguồn vốn hợp pháp, không phải chịu lãi suất cao dẫn đến phải ký kết các giao dịch giả tạo./.Nguồn bài viết: https://www.tapchitoaan.vn/giao-dich-mua-ban-tai-san-nham- che-giau-giao-dich-vay-tai-san 14.BÀN VỀ TÍNH LÃI SUẤT CHO VAY TÀI SẢN LÀ VẬTHUỲNH VĂN SÁNG(VKSND huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp)Hiện nay bên cạnh các giao dịch về vay tài sản là tiền thì các giao dịch vay tài sản là vật như vàng cũng khá phổ biến. Tuy nhiên khi phát sinh tranh chấp còn nhiều quan điểm khác nhau về cách tính lãi suất đối với tài sản cho vay là vật.Khái niệm vay tài sản là vậtTheo Từ điển Luật học của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp năm 2006 thì vật là bộ phận của thế giới vật chất có thể đáp ứng nhu cầu của con người, con người có thể kiểm soát được. Vật có thể tồn tại tự nhiên hoặc do con người tạo ra.Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin năm 2014 thì vật chất là cái có hình thể, có chất riêng mà cảm giác con người có thể nhận ra.Điều 463 BLDS 2015 quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”Theo khoản 1 Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”Như vậy vật là tài sản có thể cho vay và tính lãi suất. Tuy nhiên hiện nay việc tính lãi suất đối với tài sản cho vay là vật chưa có văn bản hướng dẫn thi hành nên việc tính lãi suất đối với tài sản vay là vật còn nhiều khó khăn vướng mắc, cụ thể là nếu tính lãi là vật thì việc xác định giá trị vật tại thời điểm nào để tính lãi.Lãi suất cho vay tài sản là vật Ví dụ: Ngày 5/1/2019 ông A cho ông B vay 5 chỉ vàng 24 kara, giá vàng thời điểm cho vay là 4.000.000 đồng/chỉ, thỏa thuận lãi suất vay 1,66%/tháng, thời hạn vay 1 năm. Đến ngày 5/1/2020 ông B không trả nên ông A khởi kiện đến Tòa án yêu cầu ông B trả 5 chỉ vàng 24 kara và lãi suất 1,66%/tháng, thời điểm khởi kiện giá vàng 24 kara là 4.500.000 đồng/ chỉ, thời điểm xét xử giá vàng 24 kara là 5.000.000 đồng/ chỉQuan điểm thứ nhất: Không tính lãi suất đối với tài sản cho vay căn cứ theo tiểu mục 1 mục III Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC về việc giải đáp bổ sung một số vấn đề về áp dụng pháp luật có giải đáp nội dụng: “Khi các bên có tranh chấp và có yêu cầu Toà án giải quyết việc vay tài sản là vàng và có lãi suất, thì Toà án cần xác định lại xem việc giao dịch vay vàng vào thời điểm nào và tại thời điểm đó Ngân hàng Nhà nước có quy định việc cho vay vàng có lãi suất hay không? Nếu tại thời điểm giao dịch vay vàng không có quy định của Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay vàng có lãi suất, thì Toà án không chấp nhận việc tính lãi suất. Nếu tại thời điểm giao dịch vay vàng có quy định của Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay vàng có lãi suất, thì Toà án chấp nhận việc tính lãi suất và mức lãi suất chỉ được tính bằng mức lãi suất Ngân hàng Nhà nước quy định, không tính lãi suất bằng tiền và cũng không quy vàng ra tiền để tính lãi suất theo số tiền”Năm 1992, Thống đốc NHNN Việt Nam ra quyết định công bố mức lãi suất cho vay đối với vàng tối đa là 7%/năm. Tuy nhiên từ năm 2000, Thống đốc NHNN Việt Nam đã hủy bỏ quyết định năm 1992, từ đó đến nay không có văn bản nào quy định về mức lãi suất cho vay vàng. Do vậy, từ giai đoạn này, không còn cơ sở để áp dụng mức lãi suất vay vàng 7%/năm để xử lý tranh chấp.Quan điểm thứ hai: Do tài sản là vật có sự chênh lệch về giá tại thời điểm cho vay và thời điểm trả nhưng phải xác định lãi trên số tiền được quy ra tại thời điểm cho vay dù cao hơn hay thấp hơn tại thời điểm trả để tính lãi suất. Cụ thể trong ví dụ trên là lấy giá trị vàng4.000.000 đồng/ chỉ để tính lãi. Căn cứ theo tiểu mục 1 mục I phần B Giải đáp số 6183/VKSTC-V14 ngày 25/12/2019 của VKSNDTC giải đáp vướng mắc về pháp luật dân sự, hành chính có giải đáp nội dụng: “Mặc dù Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 chỉ quy định việc trả lãi đối với tài sản vay là tiền, tuy nhiên, căn cứ vào khoản 2 Điều 14 Bộ luật dân sự 2015: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật này được áp dụng ”, trường hợp vay tài sản là vật, có thỏa thuận về lãi mà có tranh chấp về việc trả lãi thì Tòa án vẫn phải thụ lý vụ án để giải quyết. Việc giải quyết phải được thực hiện theo nguyên tắc quy định tại Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; tài sản vay là vật có thể được quy ra giá trị bằng tiền để tính lãi suất theo Điều 468 Bộ luật dân sự 2015”.Quan điểm thứ ba: Tính lãi suất đối với giá trị vàng được quy ra tại thời điểm xét xử là 5.000.000 đồng/chỉ. Căn cứ theo tiểu mục 21 mục III Giải đáp số 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 của TANDTC về một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng có giải đáp nội dung: “Nếu bên vay không có thóc để trả thì Toà án tính thóc thành tiền theo giá thị trường tự do lúc xét xử sơ thẩm. Nếu các đương sự thoả thuận trả lãi thì Toà án chấp nhận mức lãi mà họ đã thoả thuận. Nếu các đương sự không thống nhất với nhau về mức lãi vì bên cho vay đòi lãi cao, còn bên vay đồng ý trả lãi với mức thấp hơn hoặc nếu khi vay và cho vay các đương sự không đề cập đến vấn đề lãi, chỉ đến khi quá hạn trả nợ bên cho vay mới yêu cầu trả lãi, thì chỉ tính lãi từ thời điểm nợ quá hạn theo thoả thuận về thời điểm trả nợ. Mức lãi mà Toà án áp dụng cho cả hai trường hợp này là mức lãi suất tiền cho vay của các tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm cho vay. Trong trường hợp này Toà án phải tính giá trị số thóc cho vay thành tiền theo giá thị trường tự do khi xét xử sơ thẩm để tính lãi...".Quan điểm thứ tư: Tính lãi suất đối với giá trị vàng được quy ra bằng tiền tại thời điểm ông B chậm trả làm ảnh hưởng quyền lợi của ông A là 4.500.000 đồng/chỉ để tính lãi.Quan điểm thứ năm: Tính lãi suất đối với giá trị vàng được quy ra bằng tiền tại từng thời điểm từ thời điểm ông B chậm trả làm ảnh hưởng quyền lợi của ông A là 4.500.000 đồng/chỉ đến khi xét xử là 5.000.000 đồng/chỉ để tính lãi.Theo tác giả thống nhất với quan điểm thứ hai vẫn tính lãi suất đối với tài sản vay là vật và do vật có biến động về giá có thể tăng hoặc giảm nhưng tại thời điểm cho vay giá trị vật được xác định bao nhiêu thì sẽ tính lãi suất trên giá trị vật tại thời điểm cho vay đến khi trả xong nợ, không xác định tính lãi đối với giá trị vật tại các thời điểm khác. Như vậy vừa đảm bảo quyền lợi của cả bên vay và bên cho vay, tránh vướng mắc trong quá trình áp dụng giải quyếtKiến nghịHiện nay loại tranh chấp đối với tài sản vay là vật tuy không phổ biến nhưng để có căn cứ giải quyết kịp thời khi phát sinh, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp, chúng tôi kiến nghị liên ngành trung ương có văn bản hướng dẫn về việc tính lãi suất đối với tài sản vay là vật nói chung và đối với tài sản vay là vàng nói riêng theo hướng đối với tài sản là vật thì quy ra thành tiền tại thời điểm cho vay để tính lãi suất theo quy định của BLDS.Nguồn bài viết: https://tapchitoaan.vn/ban-ve-tinh-lai-suat-cho-vay-tai-san-la-vat 
avatar
Trần Thành GĐ
514 ngày trước
Bài viết
LƯƠNG CƠ SỞ 2023 VÀ KHI NÀO TĂNG?
???? LƯƠNG CƠ SỞ 2023 VÀ KHI NÀO TĂNG?Bạn đang tự hỏi lương cơ sở 2023 là bao nhiêu và khi nào sẽ tăng? Đừng lo, hãy tham khảo thông tin từ các chuyên gia pháp lý để hiểu rõ hơn về vấn đề này. Hôm nay, chúng tôi muốn chia sẻ thông tin hữu ích về vấn đề này với sự tư vấn từ Luật sư Phạm Thanh Hữu và Chuyên viên pháp lý Dương Châu Thanh.???? Mức lương cơ sở 2023 là bao nhiêu?Theo Nghị quyết 69/2022/QH15, từ ngày 01/7/2023, mức lương cơ sở cho cán bộ, công chức, viên chức sẽ được tăng lên mức 1,8 triệu đồng/tháng.???? Khi nào tăng lương cơ sở 2023? Sẽ có 02 mức lương cơ sở trong năm 2023?Theo Nghị định 24/2023/NĐ-CP ban hành ngày 14/5/2023, thời gian áp dụng tăng lương cơ sở năm 2023 là từ ngày 01/7/2023. Trong năm 2023, sẽ có 02 mức lương cơ sở được áp dụng:➡️ Từ ngày 01/01/2023 - 30/6/2023: Mức lương cơ sở là 1,49 triệu đồng/tháng.➡️ Từ ngày 01/7/2023: Mức lương cơ sở là 1,8 triệu đồng/tháng.???? Lợi ích khi tăng lương cơ sở 2023Với việc tăng lương cơ sở 2023, thu nhập của cán bộ, công chức sẽ có sự cải thiện đáng kể. Theo Nghị định 204/2004/NĐ-CP, tiền lương công chức được tính bằng công thức: Tiền lương = Lương cơ sở x Hệ số lương. Với mức lương cơ sở mới, thu nhập của cán bộ, công chức có thể tăng lên đáng kể, mang lại lợi ích hơn cho họ.???? Các khoản phụ cấp tính theo lương cơ sởNgoài lương cơ sở, cán bộ, công chức, viên chức cũng được hưởng các khoản phụ cấp tính theo lương cơ sở. Đây là một số khoản phụ cấp phổ biến:- Phụ cấp độc hại: Ápdụng cho các công việc có điều kiện lao động độc hại, nguy hiểm và đặc biệt độc hại chưa được xác định trong mức lương.- Phụ cấp chức vụ lãnh đạo: Được quy định theo bảng phụ cấp chức vụ lãnh đạo (bầu cử, bổ nhiệm) trong cơ quan Nhà nước.- Phụ cấp khu vực: Được quy định theo thông tư liên tịch 11/2005/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDT.- Phụ cấp lưu động: Áp dụng cho các công việc phải thường xuyên thay đổi địa điểm làm việc và nơi ở.Mức lương cơ sở cũng được sử dụng để tính toán các khoản sinh hoạt phí, hoạt động phí, đóng BHXH bắt buộc tối đa và nhiều khoản khác.???? Để biết thêm chi tiết và được tư vấn cụ thể, hãy tham khảo các văn bản chính thức về tăng lương cơ sở 2023 và hướng dẫn xếp lương với công chức đã có thời gian đóng BHXH tại doanh nghiệp.Hy vọng rằng thông tin trên đã giúp bạn hiểu rõ hơn về lương cơ sở 2023 và thời gian tăng lương. Nếu có thêm câu hỏi, đừng ngần ngại để lại bình luận để chúng tôi hỗ trợ bạn.
avatar
Trần Thành GĐ
514 ngày trước
Bài viết
CÁC LỖI VỀ HÓA ĐƠN KHÔNG ĐƯỢC KHẤU TRỪ THUẾ GTGT ĐẦU VÀO
CÁC LỖI VỀ HÓA ĐƠN KHÔNG ĐƯỢC KHẤU TRỪ THUẾ GTGT ĐẦU VÀO  Chào các bạn! Hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về các lỗi về hóa đơn mà cơ sở kinh doanh không được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Đề tài được đặt ra bởi bạn Hồng Ngọc từ Cần Thơ. Hãy cùng TTPL khám phá nhé!  Mục lục bài viết:1️⃣ Các lỗi về hóa đơn mà cơ sở kinh doanh không được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào.2️⃣ Hướng dẫn khấu trừ thuế GTGT trong một số trường hợp cụ thể. 1. Các lỗi về hóa đơn mà cơ sở kinh doanh không được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào: Theo khoản 15 Điều 14 Thông tư 219/2013/TT-BTC, các lỗi về hóa đơn mà cơ sở kinh doanh không được tính khấu trừ thuế GTGT đầu vào gồm: ❌ Hóa đơn GTGT sử dụng không đúng quy định của pháp luật, ví dụ như: hóa đơn GTGT không ghi thuế GTGT (trừ trường hợp đặc thù được dùng hóa đơn GTGT ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT). ❌ Hóa đơn không ghi hoặc ghi không đúng một trong các chỉ tiêu như tên, địa chỉ, mã số thuế của người bán nên không xác định được người bán. ❌ Hóa đơn không ghi hoặc ghi không đúng một trong các chỉ tiêu như tên, địa chỉ, mã số thuế của người mua nên không xác định được người mua (trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 12 Điều 14 Thông tư 219/2013/TT-BTC).  2. Hướng dẫn khấu trừ thuế GTGT trong một số trường hợp cụ thể: Chúng ta cùng tìm hiểu hướng dẫn khấu trừ thuế GTGT trong một số trường hợp cụ thể theo khoản 4 Điều 14 Thông tư 219/2013/TT-BTC (sửa đổi tại Thông tư 119/2014/TT-BTC): ✔️ Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh:- Khi mua nguyên vật liệu, vật liệu, thành phẩm, hàng hóa dùng để sản xuất, kinh doanh, cơ sở sản xuất kinh doanh có quyền khấu trừ thuế GTGT trên hóa đơn mua hàng. Các hóa đơn này phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về nội dung và hợp lệ theo quy định.- Cơ sở sản xuất kinh doanh cần lưu ý rằng hóa đơn mua hàng phải ghi rõ số lượng, đơn giá, giá trị hàng hóa, thuế GTGT đã nộp (nếu có) và giá trị thanh toán.- Để khấu trừ thuế GTGT, cơ sở sản xuất kinh doanh phải lưu trữ đầy đủ hóa đơn mua hàng và bảo quản chúng theo quy định về lưu trữ hồ sơ kế toán. ✔️ Đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ:- Các cơ sở kinh doanh dịch vụ cũng có quyền khấu trừ thuế GTGT đầu vào từ hóa đơn mua hàng. Tuy nhiên, các hóa đơn này phải thỏa mãn các điều kiện sau:1. Hóa đơn phải được ghi đủ thông tin về người bán và người mua, bao gồm tên, địa chỉ, mã số thuế.2. Hóa đơn phải ghi rõ số lượng, đơn giá, giá trị hàng hóa hoặc dịch vụ, thuế GTGT đã nộp (nếu có) và giá trị thanh toán.3. Các hóa đơn mua hàng phải được lưu trữ và bảo quản đầy đủ theo quy định. ✔️ Đối với cơ sở kinh doanh xuất khẩu:- Trong trường hợp cơ sở kinh doanh thực hiện hoạt động xuất khẩu, các hóa đơn mua hàng để phục vụ cho hoạt động này cũng được khấu trừ thuế GTGT đầu vào.- Tuy nhiên, cơ sở kinh doanh xuất khẩu phải chú ý các quy định về lưu trữ hóa đơn, chứng từ và hồ sơ liên quan đến hoạt động xuất khẩu. ✔️ Đối với các trường hợp khác:- Ngoài các trường hợp trên, còn có một số trường hợp khác mà cơ sở kinh doanh có thể khấu trừ thuế GTGT đầu vào, như hoạt động mua sắm tài sản cố định, công trình xây dựng, trang thiết bị, hoạt động mua bảo hiểm, hoạt động thưởng cho cán bộ, nhân viên, hoạt động mua dịch vụ của cơ quan, tổ chức chính phủ...- Trong mỗi trường hợp cụ thể, cơ sở kinh doanh cần nắm rõ quy định và điều kiện để khấu trừ thuế GTGT đầu vào và thực hiện đúng các quy trình kế toán liên quan. Lưu ý, việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào là quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, nhưng cần tuân thủ các quy định của pháp luật thuế và có hồ sơ, chứng từ đầy đủ để chứng minh việc khấu trừ này.✔️ Quy trình khấu trừ thuế GTGT đầu vào: 1. Xác định các hóa đơn và chứng từ có liên quan: Cơ sở sản xuất kinh doanh cần xác định các hóa đơn mua hàng và chứng từ liên quan khác mà họ muốn khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Đảm bảo rằng các hóa đơn này đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về nội dung và hợp lệ theo quy định. 2. Tính toán số tiền khấu trừ: Dựa trên giá trị hàng hóa hoặc dịch vụ, cơ sở sản xuất kinh doanh tính toán số tiền thuế GTGT đã nộp trên các hóa đơn mua hàng. Số tiền này sẽ được sử dụng để khấu trừ từ số thuế GTGT phải nộp trong kỳ. 3. Lưu trữ hóa đơn và chứng từ: Cơ sở sản xuất kinh doanh cần lưu trữ đầy đủ các hóa đơn mua hàng và chứng từ liên quan theo quy định về lưu trữ hồ sơ kế toán. Điều này bao gồm việc bảo quản các bản sao chứng thực của các hóa đơn và chứng từ để đảm bảo tính hợp lệ và bảo đảm chứng minh được việc khấu trừ thuế GTGT. 4. Kê khai thuế và khấu trừ: Trong quá trình kê khai thuế hàng tháng hoặc hàng quý, cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ khai báo số tiền thuế GTGT đã nộp trên hóa đơn mua hàng và số tiền thuế GTGT khấu trừ được từ các hóa đơn này. Số tiền thuế GTGT khấu trừ sẽ được trừ đi từ số thuế GTGT phải nộp, giúp giảm tổng số thuế GTGT phải đóng góp vào ngân sách nhà nước. 5. Kiểm tra và tuân thủ quy định: Cơ sở sản xuất kinh doanh cần tuân thủ các quy định của cơ quan thuế và luật thuế liên quan đến việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Đồng thời, họ cũng cần thực hiện kiểm tra nội bộ và bảo đảm tính chính xác và hợp lệ của các chứng từ và hồ sơ liên quan để tránh vi phạm pháp luật thuế và tránh những rủi ro liên quan đến kiểm tra của cơ quan thuế. Nhớ rằng, việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào là một quyền lợi pháp lý của doanh nghiệp nhằm hỗ trợ trong quá trình hoạt động kinh doanh và giảm gánh nặng thuế. Tuy nhiên, việc tuân thủ quy định và thực hiện đúng quy trình kế toán liên quan là rất quan trọng để đảm bảo sự tuân thủ pháp luật và tránh rủi ro pháp lý.#QuyTrìnhKhấuTrừGTGTĐầuVào#TínhToánKhấuTrừGTGT .
avatar
Trần Thành GĐ
530 ngày trước
Bài viết
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ NGƯỜI DỄ BỊ TỔN THƯƠNG BẰNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
 Khái niệm và đặc điểm bảo vệ người dễ bị tổn thương bằng pháp luật hình sự 1.1.1. Khái niệm người dễ bị tổn thương Người dễ bị tổn thương (vulnerable people), từ góc độ xã hội học, là một khái niệm mở, có nội hàm phong phú, rộng lớn và khó xác định cụ thể.. Trong tiếng Anh, “vulnerability” có nguồn gốc từ những từ tiếng La tinh là “vulnus” – nghĩa là tổn thương. Đến những năm đầu 1960, thuật ngữ này được chuyển thể sang tiếng Anh và đến những năm sau 1960, khái niệm này không chỉ được hiểu theo cách đơn thuần về khả năng của cá nhân nữa mà được dùng để miêu tả về những tổn thương vật lí, bao gồm những chịu đựng về tâm lí, đạo đức và tâm thần. Những năm cuối 80 của thế kỷ XX, thuật ngữ này mới bắt đầu được sử dụng rộng rãi, nhất là trong những văn kiện pháp lí quốc tế liên quan đến quyền con người. Mặc dù được sử dụng nhiều trong các văn bản pháp lý cũng như các báo cáo chính thức, tuy nhiên, hiện nay trên thế giới không có định nghĩa thống nhất nào về NDBTT. Khái niệm này còn có những cách gọi khác như người yếu thế (weaker people), người thiệt thòi (disadvantaged people), người bị lề hóa (marginalized people), nhóm thiểu số (minority people) hay nhóm bị loại bỏ ra ngoài lề… Tuy nhiên, thuật ngữ phổ biến và cũng được nhiều nhà nghiên cứu và trong các báo cáo  quốc tế lựa chọn, cũng như những người trong nhóm này mong muốn, đó là  “người dễ bị tổn thương”. Thuật ngữ này không tách biệt họ với số đông (so với những người được xem là có vị thế bình thường) và tạo sự bình đẳng trên cơ sở áp dụng. Thực tế hiện nay, trong những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau khái niệm NDBTT có thể được tiếp cận khác nhau. Tiếp cận dưới góc độ xã hội học, “nhóm NDBTT là một khái niệm xã hội học, dùng để chỉ địa vụ đặc thù và trạng thái sinh tồn của một nhóm nào đó trong cơ cấu xã hội… Nhóm dễ bị tổn thương là nhóm ở vào địa vị bất lợi trong kinh tế và cơ cấu xã hội. Thế bất lợi đó có thể khiến cho nhóm đó rơi vào cảnh khốn cùng, từ đó ảnh hưởng đến đời sống và phát triển của họ” hoặc “NDBTT là chỉ những người hay tầng lớp người do tình hình thấp kém về tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa mà không thể hóa giải những áp lực do những vấn đề xã hội gây ra như người bình thường khác, dẫn họ đến cảnh khốn cùng, ở vào địa vị bất lợi trong xã hội”. Theo đó, với cách nhìn từ xã hội học, NDBTT bao gồm hai đặc điểm: có sự tổn thương và sự thiếu bền vững. Sự tổn thương được gây ra bởi các mối đe dọa hoặc thường xuyên bị tấn công bởi các mối đe dọa đó. Sự thiếu bền vững được thể hiện ở điểm không có khả năng về dự báo, lập kế hoạch, đối phó, phục hồi từ các mối đe dọa và cũng thiếu nguồn lực để thúc đẩy hoặc ứng phó với những khó khăn. Nguồn lực này bao gồm năng lực cá nhân, tâm lý, xã hội, thông tin, kinh tế, chính trị… Tiếp cận dưới góc độ tư pháp hình sự, mà cụ thể hơn là pháp luật tố tụng hình sự, NDBTT là người “không hoặc thiếu khả năng hoặc điều kiện tự bảo vệ mình hoặc thuê hoặc nhận được sự bảo vệ; thường bị lãng quên hoặc bị bỏ rơi hoặc coi nhẹ bởi hệ thống tư pháp và hoặc bởi các luật sư, luật gia” hoặc “NDBTT là người có nhân thân khác biệt so với người tham gia tố tụng hình sự khác; có hành  vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có thể đối mặt với HP tử hình”. Như vậy, nếu dưới góc độ tố tụng hình sự, nghiên cứu về nội dung này, NDBTT hướng đến chủ yếu dưới góc độ người phạm tội, đặc biệt là người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc người phải chịu HP tử hình hoặc những người có đặc điểm riêng khiến họ cần được bảo vệ hơn bằng công cụ là pháp luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, theo quan điểm phần lớn nhà nghiên cứu hiện nay, NDBTT là những nhóm người “có vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác”. Từ đó, phạm vi xác định NDBTT khá rộng, phổ biến bao gồm: phụ nữ; trẻ em; người khuyết tật; người sống chung với HIV hoặc nạn nhân của AIDS; người di tản hoặc tìm kiếm nơi lánh nạn; người không quốc tịch; người lao động di trú; người thiểu số (về dân tộc, chủng tộc, tôn giáo…); người bản địa; nạn nhân chiến tranh; người bị tước tự do, người cao tuổi; người đồng tính, song tính hoặc chuyển giới…  Tại Việt Nam văn bản luật duy nhất hiện nay quy định về khái niệm NDBTT là Luật Phòng, chống thiên tai năm 2013. Theo đó, “Đối tượng dễ bị tổn thương là nhóm người có đặc điểm và hoàn cảnh khiến họ có khả năng phải chịu những tác động bất lợi hơn từ thiên tai so với những nhóm người khác trong cộng đồng. Đối tượng dễ bị tổn thương bao gồm trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ đang mang thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, người khuyết tật, người bị bệnh hiểm nghèo và người nghèo”42. Khái niệm này có phạm vi khá hẹp khi chỉ trong giới hạn những nạn nhân dễ gặp bất lợi về thiên tai và những nhóm người được liệt kê cũng hẹp hơn so với chuẩn mực quốc tế.  Như vậy, các quan điểm đều có chung nhận định rằng, NDBTT là nhóm xã hội đặc biệt, có hoàn cảnh khó khăn hơn, có vị thế xã hội thấp kém hơn so với các nhóm xã hội “bình thường” có những đặc điểm tương tự bởi một loạt các rào cản vô hình hoặc hữu hình liên quan đến khả năng, nghề nghiệp, hoàn cảnh sống, sự đánh giá, kì thị của xã hội, các vấn đề tâm lý…. Bởi những đặc điểm cá nhân này khiến họ dễ trở thành đối tượng bị xâm phạm quyền (như trẻ em, phụ nữ… thường dễ là đối tượng bị xâm phạm tình dục do đặc điểm về giới, khả năng tự bảo vệ…) hoặc bị hạn chế thực hiện quyền (như người khuyết tật về tâm thần khó hoặc không có có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi khi thực hiện tội phạm)… Một trong những cơ sở để xác định NDBTT hiện nay là các văn kiện pháp lý quốc tế. Mặc dù NDBTT hoàn toàn có đầy đủ các quyền cơ bản của con người, trên thực tế, có những nhóm người mà vị thế chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn so với mặt bằng chung của xã hội, đây cũng chính là nhóm NDBTT mà chúng ta đang đề cập. Do đó, hệ thống các quy phạm pháp luật và cơ chế quốc tế về quyền con người nói chung về cơ bản là không đủ, thậm chí đôi khi không phù hợp nếu áp dụng một cách máy móc với nhóm người này44 . Chính vì vậy, các văn kiện quốc tế về quyền con người phổ biến hiện nay được xây dựng để quy định thêm  những quyền đặc thù cho nhóm NDBTT. Hay nói một cách khác, nhóm người nào là đối tượng được bảo vệ bằng văn kiện pháp lý quốc tế chuyên biệt sẽ được xác định là nhóm NDBTT. Từ những phân tích trên, người nghiên cứu cho rằng, NDBTT “là nhóm người có những đặc điểm cá nhân khiến họ có nguy cơ cao dễ bị xâm phạm hoặc hạn chế quyền và được pháp luật liên quan đến quyền con người ghi nhận cần được bảo vệ đặc biệt”. Như vậy, để xác định là NDBTT cần phải thỏa mãn hai điều kiện: một là có những đặc điểm cá nhân khiến họ dễ bị xâm phạm hoặc hạn chế quyền và hai là được pháp luật liên quan đến quyền con người ghi nhận cần bảo vệ. Tuy nhiên, khái  niệm NDBTT có thể nghiên cứu thay đổi tùy vào từng thời điểm, từng quốc gia, từng lĩnh vực nghiên cứu hoặc ngành luật điều chỉnh, dẫn đến nó có thể được mở rộng hoặc thu hẹp. Nhưng những đặc điểm cơ bản trong khái niệm vẫn cần bặt buộc phải bảo đảm. 1.1.2. Những nhóm người dễ bị tổn thương được nghiên cứu theo quy định của pháp luật hình sự Như tác giả đã phân tích, tùy vào lĩnh vực nghiên cứu mà đối tượng thuộc nhóm NDBTT có thể được mở rộng hoặc giới hạn. Trong lĩnh vực luật hình sự, như đã phân tích trong phạm vi nghiên cứu, dưới góc độ lịch sử, truyền thống, văn hóa và xã hội, NDBTT trong phạm vi luận án bao gồm: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật và người cao tuổi. 1.1.2.1. Phụ nữ:  Đây là nhóm dễ bị tổn thương mang tính chất phổ biến bởi hơn một nửa nhân loại là phụ nữ. Về khái niệm phụ nữ, trên phương diện ngôn từ, có thể được gọi là “đàn bà”, “con gái”. Phân biệt với nam giới, dưới khía cạnh sinh học, nữ giới được cho là những người thuộc giống cái, tức là người mang những đặc điểm giới tính được xã hội thừa nhận về khả năng mang thai và sinh nở một cách tự nhiên khi cơ thể họ hoàn thiện bình thường. Cũng có quan điểm cho rằng, trong đời sống dân sự, từ phụ nữ thường được dùng để chỉ nữ giới trưởng thành nhằm phân biệt với trẻ em hoặc vị thành niên mang giới tính nữ. Đây cũng là cách tiếp cận khi nghiên cứu dưới góc độ ngôn ngữ học, theo đó, phụ nữ chỉ một, một nhóm hay tất cả nữ giới đã trưởng thành, hoặc được cho là đã trưởng thành về mặt xã hội. Tuy nhiên, tựu chung lại, có sự đồng thuận cao khi cho rằng, phụ nữ là những người mang giới tính nữ một cách tự nhiên, không phân biệt về độ tuổi hay bất cứ đặc điểm nào khác47. 1.1.2.2. Trẻ em Trong các công ước quốc tế, thuật ngữ trẻ em được sử dụng thống nhất là những người dưới 18 tuổi. Dưới góc độ tâm sinh lý, có quan điểm cho rằng “Trẻ em là một nhóm người ở một độ tuổi nhất định, trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người, có những đặc điểm về sức khỏe, tâm – sinh lý khác với nhóm khác trong xã hội và được hưởng những quy chế pháp lý đặc thù”. Còn tại Việt Nam, dựa vào các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay, có thể thấy, dưới góc độ luật học, việc xác định trẻ em căn cứ vào việc phân định độ tuổi. Tuổi là một trong những căn cứ để đánh giá giai đoạn phát triển về thể chất, nhận thức cũng như tâm – sinh lý của con người. Cụ thể, tại Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 đã quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Tuy nhiên, hiện nay quy định này đang có nhiều khuyến nghị cần thay đổi do cần sự nhất quán về khái niệm trong hệ thống pháp luật quốc gia cũng như quốc tế, và đảm bảo quyền cũng như sự bảo trợ với nhóm trẻ em từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Do đó, theo quan điểm của tác giả, cần nhất quán hiểu trẻ em là người dưới 18 tuổi, và đây cũng là cách tiếp cận trong luận án này. 1.1.2.3. Người khuyết tật Hiện nay vẫn đang còn nhiều quan điểm về khái niệm người khuyết tật và chưa có sự thống nhất để áp dụng chung cho tất cả các nước. Khái niệm người khuyết tật xuất hiện trong văn bản của các tổ chức quốc tế, có thể kể đến như Theo Hiến pháp của Tổ chức Quốc tế người khuyết tật (Constitution of Disabled Peoples’ International) chỉ phân ra hai mức độ suy giảm là khuyết tật (disability) và tàn tật (handicap). Theo đó, khuyết tật là việc cá nhân bị giới hạn về chức năng do suy giảm thể chất, tinh thần hoặc giác quan, còn tàn tật là việc mất đi hoặc hạn chế cơ hội tham gia vào cuộc sống bình thường của cộng đồng ở mức độ bình đẳng với những người khác do các rào cản vật lý hoặc xã hội. Do vậy, khuyết tật là một hiện tượng phức tạp, phản ánh sự tương tác giữa các tính năng cơ thể và các tính năng xã hội mà trong đó người khuyết tật sống.50  Theo Công ước về quyền của người khuyết tật 2006 (CRPD - Convention on the Rights of Persons with Disabilities), tại Điều 1 định nghĩa người khuyết tật “bao gồm những người có những khiếm khuyết lâu dài về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc giác quan mà khi tương tác với các rào cản khác nhau có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ trong xã hội trên một nền tảng công bằng như những người khác trong xã hội.”. Tại Việt Nam, Luật Người khuyết tật năm 2010 định nghĩa người khuyết tật “là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. Tuy nhiên, khái niệm này chưa đầy đủ về khiếm khuyết cũng như bao quát về các dạng tật. Bên cạnh khái niệm người khuyết tật, một thuật ngữ cũng khá phổ biến là người tàn tật. Trước khi Luật Người khuyết tật năm 2010 ra đời, Việt Nam vẫn tồn tại hai thuật ngữ này song song, đặc biệt tại Pháp luật về người tàn tật năm 1998. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, cụm từ người khuyết tật được khuyến nghị sử dụng hiện nay do từ “tàn” trong cụm từ tàn tật gợi đến hình ảnh tiêu cực, tạo cảm giác không còn khả năng gì, không còn tương lai và điều đó ảnh hưởng không tốt đến nỗ lực phấn đấu vượt khó khăn. Từ “khuyết” mang nghĩa suy giảm chức năng nhưng vẫn có khả năng phục hồi, vẫn còn hy vọng, mang ý nghĩa tích cực hơn.  Tựu chung lại, có thể hiểu, “người khuyết tật là người bị khiếm khuyết hoặc dị tật về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc giác quan khiến cho họ gặp các rào cản khi tham gia các hoạt động trong cuộc sống”. Mức độ khuyết tật mỗi quốc gia có một quy định khác nhau, nhưng nhìn chung đều có sự thống nhất giống với quy định của Luật Người khuyết tật năm 2010 và Điều 2, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP ngày 10/4/2012 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật.  1.1.2.4. Người cao tuổi Hiện nay có nhiều thuật ngữ để chỉ người cao tuổi như người cao tuổi (older persons/the elderly), người già (the aged), người cao niên (the ageing)... Trong đó, thuật ngữ người cao tuổi (older persons) chính thức được sử dụng trong Nghị quyết 47/5 và 48/98 của Đại Hội đồng liên hợp quốc. Dưới góc độ pháp lý, cơ sở để xác định người cao tuổi hiện nay dựa trên độ tuổi. Mặc dù chưa có tiêu chuẩn thống nhất về xác định người cao tuổi cho các quốc gia, theo Liên Hợp quốc, dân số già là “từ 60 tuổi trở lên trong đó phân ra làm ba nhóm: Sơ lão (60 -69 tuổi), trung lão (70 – 79 tuổi) và đại lão (từ 80 tuổi trở lên)”. Đây cũng là quan điểm của Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (cơ quan giám sát thực hiện Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 của Liên hợp quốc), trong Bình luận chung số 6 năm 1995 (về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của người cao tuổi) xác định người cao tuổi. Mặc dù vậy, trong Công ước số 128 năm 1967 về trợ cấp khuyết tật, trợ cấp tuổi già và trợ cấp người sống sót (Convention C128 – Invalidity, Old-Age and Survivors’ Benefits Convention, 1967), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) lại xác định tuổi già là 65. So với những nhóm người đã phân tích trên, khái niệm người cao tuổi có phần chưa nhận được sự thống nhất bởi “người cao tuổi không phải là một nhóm đồng nhất như nhiều nhóm xã hội khác” . Ngay tại Việt Nam, khái niệm người cao tuổi cũng được quy định khác nhau trong các lĩnh vực luật chuyên ngành.  Luật người cao tuổi năm 2009 quy định “Người cao tuổi là công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam từ 60 tuổi trở lên”. Trong khi đó, Bộ luật Lao động năm 2019, với thuật ngữ “người lao động cao tuổi” xác định là người tiếp tục lao động sau độ tuổi 62 đối với nam, sau 60 đối với nữ. Theo quan điểm của tác giả, nghiên cứu người cao tuổi dưới góc độ là đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt bằng luật hình sự, bên cạnh độ tuổi, cần xác định thêm về một số điều kiện khác liên quan đến thể chất để phù hợp với nguyên tắc bình đẳng của luật. Theo đó, người cao tuổi “là người từ 60 tuổi trở lên, bị suy giảm về thể chất khiến cho họ gặp các rào cản khi tham gia các hoạt động trong cuộc sống” Một thực tế đặt ra, đôi khi sẽ có sự chồng chéo trong tiếp cận quyền khi xem xét về tính dễ bị tổn thương, ví dụ như phụ nữ hoặc trẻ em khuyết tật hoặc phụ nữ cao tuổi… Theo quan điểm của tác giả, tất cả những người có những đặc điểm riêng biệt của từng nhóm người trên đều có đầy đủ các quyền riêng và đặc trưng của từng nhóm.. Ngoài ra, nếu họ có thêm những đặc điểm khác như trẻ em gái, phụ nữ khuyết tật, phụ nữ cao tuổi, trẻ em khuyết tật, người cao tuổi khuyết tật… thì họ hoàn toàn có thêm những quyền riêng của nhóm người mà họ có đặc điểm đó như quyền của trẻ em, quyền của người khuyết tật, quyền của người cao tuổi … Như vậy, quyền của những nhóm người này được bảo vệ tối đa với đầy đủ quyền của các nhóm NDBTT mà bản thân họ có.Theo: LÊ THỊ DIỄM HẰNG Link luận án: Link 
avatar
Trần Thành GĐ
530 ngày trước
Bài viết
HƯỚNG DẪN ĐĂNG TIN TỨC
Tìm kiếm các luận ánBước 3.4: Xóa tất cả các ảnh trong bài viết và thay thế bằng ảnh khác: Tìm kiếm ảnh thay thế trên web https://unsplash.com/s/photos/flash và tải xuốngTìm kiếmTải ảnhChèn logo Công ty Luật Legalzone vào ảnh tải xuống dưới dạng hình ảnh mờ bằng website: https://bietmaytinh.com/chenlogo/ Chèn lo hàng loạt bằng phần mềm FastStone Photo Resizer  - hướng dẫn sử dụng (Tốt nhất) Logo công ty Website: https://bietmaytinh.com/chenlogo/ Bước 3.5: Chèn hình ảnh đã chỉnh sửa vào bài viết và đăng lên trang Thủ tục pháp luật: https://ttpl.vnTạo tài khoản và đăng nhậpLàm theo hướng dẫn trong drive sau: https://docs.google.com/document/d/1MSZxHjRnvEVgiEWc00p8wOkwB0xR2XCM9ltxQl2bZYc/editĐăng bàiThực hiện thao tác đăng bài theo hướng dẫn sau:Note: Hãy nhớ sửa các tiêu đề thành H2 hoặc H3 ( Không để H1)
avatar
Trần Thành GĐ
1074 ngày trước
Bài viết
Sửa đổi quy định về xuất xứ hàng hóa ghi trên nhãn hàng hóa
Ngày 09/12/2021, Chính phủ ban hành Nghị định 111/2021/NĐ-CP sửa đổi Nghị định 43/2017/NĐ-CP về nhãn hàng hóa, trong đó có sửa đổi quy định về xuất xứ hàng hóa. Cụ thể, tổ chức, cá nhân sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu tự xác định và ghi xuất xứ hàng hóa của mình bảo đảm trung thực, chính xác, tuân thủ các quy định pháp luật về xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam hoặc các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.(So với hiện hành, bổ sung đối tượng là tổ chức, cá nhân xuất khẩu hàng hóa).Xuất xứ hàng hóa ghi trên nhãn thể hiện bằng một trong các cụm từ sau: “sản xuất tại”; “chế tạo tại”; “nước sản xuất”; “xuất xứ”; “sản xuất bởi”; “sản phẩm của” kèm tên nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất ra hàng hóa hoặc ghi theo quy định pháp luật về xuất xứ hàng hóa.(So với hiện hành, bổ sung cụm từ “sản phẩm của”).Trường hợp hàng hóa không xác định được xuất xứ theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định 43/2017/NĐ-CP thì ghi nơi thực hiện công đoạn cuối cùng để hoàn thiện hàng hóa. Thể hiện bằng một trong các cụm hoặc kết hợp các cụm từ thể hiện công đoạn hoàn thiện hàng hóa như sau: “lắp ráp tại”; “đóng chai tại”; “phối trộn tại”; “hoàn tất tại”; “đóng gói tại”; “dán nhãn tại” kèm tên nước hoặc vùng lãnh thổ nơi thực hiện công đoạn cuối cùng để hoàn thiện hàng hóa.Nghị định 111/2021/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15/02/2022.