×
0888889366
Trịnh Thu Quỳnh
Tìm kiếm công ty Luật/ Doanh nghiệp
Người theo dõi
5 người
Xem tất cả
Theo dõi
Theo dõi
Theo dõi
Theo dõi
Theo dõi
Đang theo dõi
1 người
Xem tất cả
Theo dõi
Trịnh Thu Quỳnh
981 ngày trước
Theo dõi
1.Nội dung vụ việc: Ngày 01/04/2012, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an bắt quả tang Hoàng Phương L thu giữ 08 túi nilon có chứa tinh thể màu trắng. Mở rộng điều tra, cơ quan điều tra khởi tố 25 bị can về các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Trong đó hành vi phạm tội của Nguyễn Ngọc A:Ngày 01/08/2012, Cơ quan điều tra khám xét nhà của Nguyễn Ngọc A thu giữ 04 bánh và 23 cục heroin với trọng lượng 1.808,9 gam. Ngoài ra A có hành vi mua bán trái phép 200 gam ma túy với các đối tượng khác. Tòa án sơ thẩm xác định A phạm các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, hình phạt chung là tử hình. Tòa án phúc thẩm hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm đối với A để điều tra lại với lý do giám định hàm lượng tinh chất ma túy.2.Nhận định của Tòa án Nhân dân tối cao:Tòa án phúc thẩm tuyên hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Ngọc A để điều tra (giám định hàm lượng chất ma túy) là không đúng.Tòa án Nhân dân tối cao quyết định hủy bản án phúc thẩm về phần quyết định đối với A, chuyển hồ sơ yêu cầu xét xử lại phúc thẩm.3.Luận cứ vụ án. Căn cứ khoản 3 Điều 285 và Điều 287 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần xem xét quyết định hủy một phần bản án hình sự sơ thẩm đối với A của Tòa án phúc thẩm.Trên đây là thông tin của chúng tôi về Quyết định số 05/2016/HS-GĐT , nếu muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệĐịa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.comHotline: 0888889366Fanpage: Công ty Luật Legalzone
Trịnh Thu Quỳnh
982 ngày trước
Theo dõi
1. Nội dung vụ việc: Ngày 22/08/2015 Nguyễn Văn N không liên lạc được với các đối tượng vận chuyển ma túy thuê cho mình nên đã gọi cho Vương Văn D nhờ hỏi thông tin, D đã giới thiệu Lưu Thị Kim N. Nguyễn Văn N gọi điện nhờ Lưu Thị Kim N hỏi hộ. Mặc dù không có khả năng nhưng Kim N đã trao đổi, bàn bạc với Lưu Thị Kim C, Kim N đã trao đổi với N về số tiền, N đồng ý. Ngày 24/08/2015 N nhờ cháu Nguyễn Thị Minh N chuyển tiền vào tài khoản mà Kim N cung cấp.Sau khi xác nhận được thông tin các đối tượng làm việc cho mình từ Kim N và C, N tiếp tục nhờ Kim N lo giúp cho N không liên quan đến việc vận chuyển ma túy trên. Kim N đã thông báo cho N số tiền cần phải cung cấp, N đồng ý chuyển tiền. Sau khi nhận được số tiền của N, Kim N và C tiếp tục đưa ra thông tin N đã vào chuyên án và yêu cầu N “ mua chuyên án”, N đồng ý và chuyển tiền vào tài khoản cho Kim N và C cung cấp.Đến ngày 06/06/2016, N bị cơ quan điều tra bắt tạm giam và đã tố cáo hành vi lừa đảo của Kim N và C.Tòa sơ thẩm xác định Lưu Thị Kim N, Lưu Thị Kim C phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, Lưu Thị Kim N kháng cáo.2. Nhận định Tòa án:Tòa án Quân sự Trung ương xác nhận kháng cáo của Lưu Thị Kim N là hợp lệ, tuy nhiên về lý do xin giảm nhẹ hình phạt đã được Tòa sơ thẩm xem xét. Tòa án Quân sự Trung ương thấy rằng Tòa án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm1999 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.3. Luận cứ vụ án: Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 1999 cần xác định hành vi của Lưu Thị Kim N phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Trên đây là thông tin của chúng tôi về Bản án số 02/2018/HS-PT2 , nếu muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệĐịa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.comHotline: 0888889366Fanpage: Công ty Luật Legalzone
Trịnh Thu Quỳnh
984 ngày trước
Theo dõi
1.Nội dung vụ việc:Khoảng15h ngày 12/05/2016 Nông Đức C, Nông Đức T, Hoàng Mạnh T1 mang theo súng tự chế đi săn tại tiểu khu 1706 thôn 2, xã TX, huyện ĐS, tỉnh Đắk Nông. Đến 6h30’ C phát hiện đàn khỉ trên cây cao, tuy nhiên đàn khi di chuyển mất, cùng lúc đó C nghe thấy tiếng động ở phía bụi cây nên đã bắn một phát, C đi kiểm tra và phát hiện T1 bị đạn bắn vào thái dương và đã chết, C giấu súng rồi đi về. T1 được tìm thấy ngày 14/05/2016.Ngày 16/05/2016 C đến Cơ quan điều tra công an tỉnh ĐN khai nhận hành vi phạm tội của mình.Tòa án sơ thẩm xác định C phạm tội “Vô ý làm chết người” và tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”;2. Nhận định Tòa án Phúc thẩm:Tòa án phúc thẩm xác định ông Hoàng Văn N và bà Hoàng Thị T4 không có thẩm quyền kháng cáo phần hình sự mà chỉ có thẩm quyền kháng cáo phần trách nhiệm dân sự.Tòa án xác định Nông Đức C phải bồi thường tổng số tiền 893.130.000 đồng cho gia đình bị hại.3. Luận cứ vụ án: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cần xác định kháng cáo của ông Hoàng Văn N và bà Hoàng Thị T4 là những người đại diện theo ủy quyền của người đại diện hợp pháp cho gia đình bị hại có đủ thẩm quyền kháng cáo không. Trên đây là thông tin của chúng tôi về Bản án số 388/2017/HS-PT , nếu muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệĐịa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.comHotline: 0888889366Fanpage: Công ty Luật Legalzone
Trịnh Thu Quỳnh
988 ngày trước
Theo dõi
1.Nội dung vụ việc:Khoảng 23h20’ ngày 24/11/2015 Nguyễn Anh Đ điều khiển xe máy, không đội mũ bảo hiểm gần đến trụ sở Công an phường Đ thì anh Trần Quốc H (cán bộ đội 3 Phòng PC67 Công an Hà Nội) đang làm nhiệm vụ yêu cầu dừng xe nhưng Đ không chấp hành mà quay đầu xe tăng ga bỏ chạy đến số nhà 26 phố H thì anh Bùi Minh Đ (cán bộ công tác Y3/141 làm nhiệm vụ tại chốt chống các đối tượng quay đầu xe bỏ chạy) ra hiệu lệnh yêu cầu Đ dừng xe Đ không chấp hành hiệu lệnh mà tiếp tục tăng ga lao lên nhằm tránh Đ để chạy trốn dẫn đến xe máy đâm thẳng vào chân phải anh Đ khiến cả hai ngã xuống đường, anh Đ được đưa đi cấp cứu. Kết luận giám định pháp y: anh Bùi Minh Đ bị tổn hại sức khỏe 12%.Tòa án sơ thẩm xác định Nguyễn Anh Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích” cho hưởng án treo.2. Nhận định Tòa án Nhân dân cấp cao:Tòa án sơ thẩm kết án Nguyễn Minh Đ về tội “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ, tuy nhiên bị cáo hưởng án treo là chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Tòa án Nhân dân cấp cao quyết định hủy bản án sơ thẩm yêu cầu xét xử sơ thẩm lại.3. Luận cứ vụ án:Căn cứ điểm k khoản 1, khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 2015 cần xác định hành vi của Nguyễn Anh Đ phạm tội “Cố y gây thương tích” và được hưởng án treo. Trên đây là thông tin của chúng tôi về Quyết định 236/2017/HS-GĐT , nếu muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệĐịa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.comHotline: 0888889366Fanpage: Công ty Luật Legalzone
Trịnh Thu Quỳnh
989 ngày trước
Theo dõi
Nội dung vụ việc:Đầu năm 2021, Hoàng T vay bà Trương Thị B 25.000.000 đồng, hẹn cuối năm 2021 sẽ trả. Biết chị Ngô Thị T vay 50.000.000 đồng từ NH chính sách, nên nảy sinh ý định lấy trộm tiền để trả nợ và tiêu xài. Khoảng 08h30’, ngày 16/11/2021, T gọi điện thoại cho chị T dò hỏi xem người nhà chị T có ai ở nhà không. Được chị T cho biết mọi người khác trong nhà đã đi ra ngoài, chị T sắp đi làm, Hoàng T liền điều khiển xe mô tô đến nhà chị T, phá khóa cửa lẽn vào bên trong nhà lục tìm lấy toàn bộ số tiền 45.000.000đồng do chị T cất trong phòng ngủ rồi đi về lại nhà mình, sau đó T lấy ra 25.000.000đồng mang đến trả nợ bà B. Chiều cùng ngày, sau khi biết chị Ngô Thị T đã phát hiện mất tiền và trình báo Công an, T tìm gặp chị T thú nhận việc làm của bản thân. Ngày 30/11/2021, T đến Công an xã làm việc và trả lại toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt cho chị T.Nhận định Tòa án sơ thẩm :Hành vi phạm tội của Hoàng T là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại mà còn làm mất trật tự trị an tại địa phương.Tòa án sơ thẩm xác định bị cáo Hoàng T phạm tội “ Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo Hoàng T 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo.Luận cứ vụ án:Căn cứ khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự năm 2015 xác định hành vi của Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”Trên đây là thông tin của chúng tôi về Bản án 08/2022/HS-ST , nếu muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệĐịa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.comHotline: 0888889366Fanpage: Công ty Luật Legalzone
Trịnh Thu Quỳnh
990 ngày trước
Theo dõi
Tóm tắt Án lệ số 29/2019/ALTrong trường hợp bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Cướp tài sản”.Nội dung vụ việc: Khoảng 22h ngày 19/01/2015, Lê Xuân Q, Trần Xuân L, Nguyễn Văn L, Trương Sỹ T, Hà Thị Thu H và các đối tượng H1, Bin (không rõ lai lịch) đến hát quán Karaoke M, phường H, quận L, Đà Nẵng. Đến 23h30’ Q và L ở lại tính tiền, do không đủ đã tiền đã yêu cầu trả trước 1 khoản và cọc 01 điện thoại nhưng không được chấp nhận, do đó đã để T và Nguyễn Văn L ở lại để về lấy tiền. Tuy nhiên, Q thống nhất với L và H1 quay lại đuổi đánh nhân viên để Nguyễn Văn L và T chạy quỵt nợ 200.000 đồng còn thiếu.Khoảng 00h ngày 20/01/2015, H1 và Trần Xuân L cầm theo 02 mã tấu xông vào quán M, Q đứng ngoài. Trần Xuân L và H1 rượt đuổi các nhân viên trong quán, khi qua bàn tính tiền Trần Xuân L đã lấy 02 máy tính bảng giấu vào người, sau đó cùng H1 lên xe Q tẩu thoát. Trên đường đã vứt 02 cây mã tấu ven đường, Q khuyên L đem trả máy tính bảng nếu không trả sẽ không liên quan đến mình, Q đã bỏ trốn vào sáng hôm sau. L mang máy tính đi bán lấy tiền tiêu xài.Tòa án sơ thẩm xác định Trần Xuân L và Lê Xuân Q phạm tội “Cướp tài sản”, Tòa án phúc thẩm xác định Lê Xuân Q phạm tội “Không tố giác tội phạm”.Nhận định tòa án:Lê Xuân Q, Trần Xuân L có hành vi dùng vũ lực tấn công bị hại để giải thoát cho đồng bọn, nhằm mục đích không trả số tiền mà bị cáo có nghĩa vụ phải thanh toán cho bị hại là có đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản”.Tòa án phúc thẩm kết án Q về tội “Không tố giác tội phạm” khi chưa điều tra, truy tố là vi phạm quy định về giới hạn của việc xét xử.Hủy quyết định giám đốc thẩm và bản án phúc thẩm đối với phần trách nhiệm hình sự đối với Q, yêu cầu xét xử lại phúc thẩm. Luận cứ vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999 xác định hành vi dùng vũ lực tấn công bị hại để giải thoát cho đồng bọn, nhằm mục đích không trả số tiền mà các bị cáo có nghĩa vụ phải thanh toán cho bị hại là có đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản”Trên đây là thông tin của chúng tôi về Án lệ 29/2019/AL, nếu muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệĐịa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.comHotline: 0888889366Fanpage: Công ty Luật Legalzone
Trịnh Thu Quỳnh
991 ngày trước
Theo dõi
Trong trường hợp bị cáo phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người”.Nội dung vụ việc: Khoảng 16h ngày 31/05/2016, Phan Đình Q điều khiển xe ô tô tải (BKS 38C-073.05) di chuyển trên quốc lộ 1A, cùng lúc đó Hoàng Đức P điều khiển xe máy điện đi cùng chiều với Q. Sau đó Q điều khiển xe chuyển hướng rẽ phải va chạm gây tai nạn với P, P bị cuốn vào gầm xe, Q đã dừng xe lại để xuống kiểm tra, Khi Q nhìn thấy có một nạn nhân (sau này biết đó là em Hoàng Đức P) đang nằm ở phía trước hàng bánh phía sau xe ô tô về phía bên phải thì Q đã lên xe, điều khiển cho xe ô tô đi thẳng, nên hàng bánh sau xe ô tô của Q đã đè lên đầu, làm em P chết ngay tại chỗ.Giám định kết luận nguyên nhân chết của P là do vết thương bị vỡ hộp sọ, hộp sọ bị dẹt phần đầu bên trái, đầu - mặt bị biến dạng hoàn toàn. P chết tại chỗ.Tòa án sơ thẩm xác định Q phạm tội “Giết người”. Q kháng cáo cho rằng mình chỉ phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, Nhận định của Tòa án phúc thẩm:Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ căn cứ để khẳng định: Bị cáo Q đã có hành vi phạm tội “Giết người” như quyết định của Tòa án sơ thẩm hoàn toàn có căn cứ pháp luật.Tòa án phúc thẩm không chấp nhận nội dung kháng cáo của Q, giữ nguyên tội danh “Giết người”của Q và tăng mức hình phạt tù lên 13 năm 6 tháng tù. Luận cứ vụ án:Căn cứ khoản 2 Điều 93; điểm b khoản 1,2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 cần xác định hành vi lên xe, điều khiển cho xe ô tô đi thẳng đè lên đầu nạn nhân làm nạn nhân chết tại chỗ của Q sau khi xảy ra tai nạn giao thông dùng xe xuống kiểm tra thấy có nạn nhân (P) đang nằm ở phía trước hàng bánh phía sau xe ô tô về phía bên phải.Trên đây bài viết của chúng tôi, nếu muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệ:Địa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.comHotline: 0888889366
Trịnh Thu Quỳnh
992 ngày trước
Theo dõi
Trong trường hợp xác định bị cáo chịu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người”Nội dung vụ việc: Khoảng 19 giờ 09/12/2013, Nguyễn Đình Đ đến nhà anh Hà Đăng H ăn cơm uống rượu cùng với Đặng Hùng T và Phùng Xuân S, trong lúc ăn uống S và T xảy ra mâu thuẫn, Đ đứng ra can ngăn. Lúc này có Cao Văn C và Dương Văn T1 đến, C đã có lời lẽ uy hiếp S, Đ nghe vậy bực tức đã vào nhà H lấy một con dao nhọn cầm theo bên mình, Đ và C lời qua tiếng lại với nhau, Đ đã cầm dao đâm vào bụng C, C bỏ chạy, Đ túm cổ áo T1 đâm nhiều nhát vào người T1, T1 bất tỉnh, Đ và S bỏ chạy. S chạy vào nhà H thông báo việc đánh nhau, Đ lấy xe máy đi về, trên đường đi vứt con dao xuống mương nước. T1 và C được đưa đi cấp cứu, T1 đã tử vong. Ngày 10/12/2013, Đ ra đầu thú. Kết luận giám định pháp y tử thi nguyên nhân tử vong của T1 là sốc do mất máu cấp và suy hô hấp cấp. Kết luận pháp y thương tích C tại thời điểm giám định là sẹo vết thương phần mềm, gãy xương sườn X bên trái, không gây tràn dịch, tràn khí màng phổi; nhiều khả năng các thương tích do vật sắc gây nên; tỷ lệ tổn hại sức khỏe là 05%.Tòa án sơ thẩm kết luận Đ phạm tội “Giết người”, Tòa án phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của Đ. Nhận định Tòa án Nhân dân tối cao: Tòa án Nhân dân tối cao nhận định hành vi của Đ đối với C có đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt và có tính chất côn đồ bởi vì chỉ vì lời nói của anh C có tính chất thách thức, kích động mà Đ đã dùng dao nhọn là hung khí nguy hiểm đâm vào vùng bụng (mạn sườn bên trái) của anh C là vùng trọng yếu trên cơ thể con người.Tòa án Nhân dân tối cao nhận Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm kết án Nguyễn Đình Đ về “Tội giết người” theo quy định tại điểm a và điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999 là có căn cứ. Tòa án Nhân dân tối cao không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC, giữ nguyên bản án phúc thẩm về tội danh và hình phạt đối với Đ. Luận cứ vụ án: Căn cứ điểm a và điểm n khoản 1 Điều 93 Bộ luật Hình sự năm 1999 cần xác định hành vi của Đ đối với C đủ yếu tố cấu thành tội “ Giết người” thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt và có tình chất côn đồ. Trên đây bài viết của chúng tôi Tóm tắt án lệ số 47/2021/AL, nếu muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệĐịa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.com
Trịnh Thu Quỳnh
993 ngày trước
Theo dõi
Trong trường hợp bị cáo phạm tội “Dâm ô đối với trẻ em” theo điểm c khoản 2 Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 1999 với tình tiết định khung hình phạt “Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục” (tương ứng điểm d khoản 2 Điều 146 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” với tình tiết định khung hình phạt “Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục”).1.Nội dung vụ việc:Do quen nhau từ trước, khoảng 7h30’ ngày 02/04/2017 Nguyễn Thị T (03/8/2001) học sinh lớp 10 trường THPT L hẹn xuống phòng Đinh Quang D (giáo viên của trường) chơi. Tại phòng D có ý định gần gũi T nên đã có những hành động ôm, hôn, đụng trạm vào bộ phận nhạy cảm của T, T phản kháng đòi về và đã kể lại toàn bộ sự việc cho gia đình biết. Ngày 03/04/2017, bà H (mẹ T) đã tố cáo hành vi D. Kết luận giám định pháp y: Nguyễn Thị T không bị tổn hại cơ thể.Tòa án sơ thẩm nhận định D phạm tội “Dâm ô đối với trẻ em”, Tòa án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm cho D hưởng án treo.2. Nhận định Tòa án Nhân dân tối cao :Tòa án sơ thẩm và Tòa án phúc thẩm xét xử Đinh Quang D về “Tội dâm ô đối với trẻ em” là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao không áp dụng tình tiết tăng nặng “Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục” vì lý do D không là giáo viên trực tiếp dạy T là không đúng pháp luật.Tòa án sơ thẩm xử phạt D 07 tháng tù là không đúng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, Bản án phúc thẩm và Quyết định giám đốc thẩm áp dụng thêm điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 đối với D là không đúng vì bố của D không phải là liệt sĩ; đồng thời cho D hưởng án treo là chưa đáp ứng yêu cầu đấu tranh đối với loại tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em.Tòa án Nhân dân tối cao quyết định hủy bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm và Quyết định giám đốc thẩm đề nghị xét xử sơ thẩm lại.3. Luận cứ vụ án: Căn cứ điểm đ, e khoản 1 Điều 31 Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3/2011 cần xác định hành vi của D phải bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng là “Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 116 Bộ luật Hình sự năm 1999. Trên đây bài viết của chúng tôi Tóm tắt án lệ số 46/2021/AL, nếu muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệĐịa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.com
Xem thêm