0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
banner
avatar

Nguyễn Linh Trang

Điểm thưởng: 1553
Tìm kiếm công ty Luật/ Doanh nghiệp

Người theo dõi

3 người
Xem tất cả

Đang theo dõi

1 người
Xem tất cả
avatar
Nguyễn Linh Trang
933 ngày trước
Bài viết
Danh mục tổng hợp các thủ tục pháp luật về tố tụng dân sự
I. Hồ sơ, thủ tục yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc cókhó khăn trong nhận thức, làm chủ hành viMô tả:Người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy định của Bộ luật dân sự.Người có quyền nêu trên nộp đơn yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự có đầy đủ nội dung theo mẫu số 01 Nghị quyết 04/2018/NQ-HĐTP đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết.Kèm theo đơn yêu cầu phải có các tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu là có căn cứ, hợp pháp (như đã nêu ở thành phần hồ sơ).Trường hợp xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo đã đủ điều kiện thụ lý thì Tòa án phải:- Thông báo cho người yêu cầu về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ trường hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí.- Tòa án thụ lý đơn yêu cầu khi người yêu cầu nộp cho Tòa án biên lai thu tiền lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự.- Trường hợp người yêu cầu được miễn hoặc không phải nộp lệ phí thì Thẩm phán thụ lý việc dân sự kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu.- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu.Thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu là 01 tháng, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu.* Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, Tòa án tiến hành công việc sau đây:- Trường hợp xét thấy tài liệu, chứng cứ chưa đủ căn cứ để Tòa án giải quyết thì Tòa án yêu cầu đương sự bổ sung tài liệu, chứng cứ trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án.- Trường hợp đương sự có yêu cầu hoặc khi xét thấy cần thiết thì Thẩm phán ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ; triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá tài sản. Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều này mà chưa có kết quả giám định, định giá tài sản thì thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu được kéo dài nhưng không quá 01 tháng.- Quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và trả lại đơn yêu cầu, tài liệu, chứng cứ kèm theo nếu người yêu cầu rút đơn yêu cầu.- Quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.* Tòa án phải gửi ngay quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự và hồ sơ việc dân sự cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu. Viện kiểm sát phải nghiên cứu trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho Tòa án để mở phiên họp giải quyết việc dân sự.* Tòa án phải mở phiên họp để giải quyết việc dân sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp.   Kết quả:Tòa án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu. Trường hợp chấp nhận đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sựII. Thủ tục khởi kiện vụ án dân sựMô tả: Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:Nộp trực tiếp tại Tòa án; Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính; hoặc Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.Kết quả:Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây: Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn nếu vụ án có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác; Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa ánIII. Thủ tục yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Mô tả: Đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án quy định tại Điều 187 của Bộ luật Tố tụng dân sự (sau đây gọi chung là đương sự) có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật Tố tụng dân sự.- Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền.Tùy theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.Kết quả:Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Thẩm phán phải xem xét đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.IV. Thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thờiMô tả:Người yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đến Tòa án có thẩm quyền kèm theo tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.Kết quả:Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thờiV. Thủ tục thông báo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩmMô tả:Khi phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo bằng văn bản hoặc trình bày trực tiếp với người có thẩm quyền kháng nghị hoặc với Tòa án, Viện kiểm sát nơi gần nhất kèm theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có).Người thông báo là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; trường hợp cơ quan, tổ chức thông báo thì người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu.Kết quả: Khi nhận được thông báo bằng văn bản thì Tòa án, Viện kiểm sát phải vào sổ nhận thông báo.Khi người bị kết án, cơ quan, tổ chức, cá nhân trình bày trực tiếp về vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì Tòa án, Viện kiểm sát phải lập biên bản; nếu người thông báo cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì Tòa án, Viện kiểm sát phải lập biên bản thu giữ. Biên bản được lâp theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.Tòa án, Viện kiểm sát đã nhận thông báo, lập biên bản phải gửi ngay thông báo, biên bản kèm theo chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) cho người có thẩm quyền kháng nghị và thông báo bằng văn bản cho người bị kết án, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã kiến nghị, đề nghị biết.VI. Thủ tục kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩmMô tả:Trường hợp kháng cáo theo đơn kháng cáo: Người kháng cáo phải gửi đơn kháng cáo đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm.Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam, Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo, nhận đơn kháng cáo và chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định bị kháng cáo.Trường hợp kháng cáo trực tiếp: Người kháng cáo có thể trình bày trực tiếp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm về việc kháng cáo. Tòa án phải lập biên bản về việc kháng cáo theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.Tiếp nhận và xử lý đơnTòa án cấp phúc thẩm đã lập biên bản về việc kháng cáo hoặc nhận được đơn kháng cáo thì phải gửi biên bản hoặc đơn kháng cáo cho Tòa án cấp sơ thẩm để thực hiện theo quy định chung.Kết quả:Sau khi nhận được đơn kháng cáo hoặc biên bản về việc kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải vào sổ tiếp nhận và kiểm tra tính hợp lệ của đơn kháng cáo theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.- Đơn kháng cáo hợp lệ: Tòa án cấp sơ thẩm thông báo về việc kháng cáo theo quy định tại Điều 338 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.- Đơn kháng cáo không hợp lệ nhưng nội dung chưa rõ: Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay cho người kháng cáo để làm rõ.- Đơn kháng cáo đúng quy định nhưng quá thời hạn kháng cáo: Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trình bày lý do và xuất trình chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) để chứng minh lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng.- Trường hợp người làm đơn kháng cáo không có quyền kháng cáo: trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận đơn, Tòa án trả lại đơn và thông báo bằng văn bản cho người làm đơn, Viện kiểm sát cùng cấp. Văn bản thông báo phải ghi rõ lý do của việc trả lại đơn.Việc trả lại đơn có thể bị khiếu nại trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo.Sau khi nhận được đơn kháng cáo hợp lệ, Tòa án thụ lý vụ án và tiến hành xét xử theo thủ tục phúc thẩmTòa án ra thông báo thụ lý vụ án và tiến hành các bước chuẩn bị xét xử và xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.VII. Thủ tục đăng ký; thay đổi, bổ sung thông tin; ngừng nhận thông điệp dữ liệu điện tử do Tòa án cấp, tống đạt, thông báoMô tả:Người khởi kiện, người tham gia tố tụng đăng ký nhận thông điệp dữ liệu điện tử; thay đổi, bổ sung thông tin giao dịch điện tử; ngừng nhận thông điệp dữ liệu điện tử phải nộp trực tiếp tại Tòa án đơn đăng ký theo mẫu được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án.Kết quả:Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải thông báo bằng văn bản về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn đăng ký cho người nộp đơn. Trường hợp không được Tòa án chấp nhận, người nộp đơn căn cứ thông báo của Tòa án để sửa đổi, bổ sung đơn đăng ký. Trường hợp được Tòa án chấp nhận, người nộp đơn căn cứ vào thông báo của Tòa án về tài khoản giao dịch để đổi mật khẩu tài khoản giao dịch đã được cấp lần đầu để bảo đảm an toàn, bảo mật.Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án gửi thông báo về việc chấp nhận thay đổi, bổ sung thông tin đăng ký qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án đến địa chỉ thư điện tử đã được đăng ký. Trường hợp người nộp đơn không điền đúng hoặc đầy đủ thông tin thay đổi, bổ sung thì Tòa án thông báo không chấp nhận qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án; căn cứ vào thông báo không chấp nhận của Tòa án, người nộp đơn điền đầy đủ và đúng thông tin thay đổi, bổ sung và nộp trực tiếp tại Tòa án.Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa án phải kiểm tra, xác định thông tin và gửi thông báo bằng văn bản về việc chấp nhận đơn đăng ký cho người nộp đơn, thông báo này cũng được Tòa án gửi cho người nộp đơn qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án. Trường hợp người gửi đơn không điền đúng hoặc đầy đủ thông tin thì Tòa án gửi thông báo không chấp nhận yêu cầu qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án; căn cứ vào thông báo của Tòa án, người gửi đơn điền đầy đủ, đúng thông tin và nộp trực tiếp tại Tòa án.Trường hợp người khởi kiện, người tham gia tố tụng có yêu cầu nhận thông điệp dữ liệu điện tử lại thì thực hiện thủ tục đăng ký như đăng ký lần đầu theo hướng dẫn như đăng ký nhận thông điệp dữ liệu điện tử.VIII. Thủ tục ngừng gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tửMô tả:Người khởi kiện, người tham gia tố tụng truy cập vào Cổng thông tin điện tử của Tòa án để đăng ký ngừng gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử, ký điện tử và gửi đến Tòa án.Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Tòa án phải kiểm tra, xác định thông tin và gửi thông báo về việc chấp nhận qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án đến địa chỉ thư điện tử đã được đăng ký. Trường hợp người nộp đơn không điền đúng hoặc đầy đủ thông tin thì Tòa án gửi thông báo không chấp nhận qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án; căn cứ vào thông báo của Tòa án, người nộp đơn điền đầy đủ và đúng thông tin, ký điện tử và gửi đến Tòa án qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án.Kết quả: Kể từ thời điểm Tòa án chấp nhận ngừng gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử, người khởi kiện, người tham gia tố tụng không được thực hiện các thủ tục gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử theo hướng dẫn của Nghị quyết này. Trường hợp họ có yêu cầu gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử lại thì thực hiện thủ tục đăng ký như đăng ký lần đầu theo hướng dẫn thủ tục đăng ký gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử với Tòa án.IX.  Thủ tục thay đổi, bổ sung thông tin đăng ký gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tửMô tả:Người khởi kiện, người tham gia tố tụng truy cập vào Cổng thông tin điện tử của Tòa án để thay đổi, bổ sung thông tin đã đăng ký, ký điện tử và gửi đến Tòa án qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án.Kết quả: Sau khi nhận được thông tin thay đổi, bổ sung của người nộp đơn, Tòa án gửi thông báo về việc chấp nhận thay đổi, bổ sung thông tin đăng ký qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án đến địa chỉ thư điện tử đã được đăng ký. Trường hợp người nộp đơn không điền đúng hoặc đầy đủ thông tin thay đổi, bổ sung thì Tòa án thông báo không chấp nhận qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án; căn cứ vào thông báo không chấp nhận của Tòa án, người nộp đơn điền đầy đủ và đúng thông tin thay đổi, bổ sung, ký điện tử và gửi đến Tòa án qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án.X. Thủ tục đăng ký gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử với Tòa ánMô tả:Quan sát và lựa chọn các Tòa án thực hiện giao dịch điện tử trong tố tụng dân sự do Tòa án nhân dân tối cao thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao.Người khởi kiện, người tham gia tố tụng thực hiện đăng ký gửi và nhận thông điệp dữ liệu điện tử với Tòa án bằng cách truy cập vào Cổng thông tin điện tử của Tòa án, điền đầy đủ thông tin vào mẫu đơn đăng ký, ký điện tử và gửi đến Tòa án qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án.Kết quả:Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn đăng ký, Tòa án phải gửi thông báo về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn đăng ký qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án vào địa chỉ thư điện tử đã đăng ký.Trường hợp không được Tòa án chấp nhận, người khởi kiện, người tham gia tố tụng căn cứ thông báo của Tòa án để hoàn chỉnh thông tin đơn đăng ký hoặc liên hệ với Tòa án để được hướng dẫn, hỗ trợ.Trường hợp được Tòa án chấp nhận, người khởi kiện, người tham gia tố tụng căn cứ vào thông báo của Tòa án về tài khoản giao dịch để đổi mật khẩu tài khoản giao dịch đã được cấp lần đầu để bảo đảm an toàn, bảo mật. 
avatar
Nguyễn Linh Trang
951 ngày trước
Bài viết
Tóm tắt Bản án về tranh chấp xử lý kỷ luật lao động hình thức sa thải số 01/2019/LĐ-ST
Bản án về tranh chấp xử lý kỷ luật lao động hình thức sa thải số 01/2019/LĐ-ST1. Tóm tắt nội dung vụ ánNgày 28/01/2019, chị D ký hợp đồng lao động làm việc tại Công ty V thời hạn 12 tháng. Ngày 07/3/2019, Cty V có Quyết định số 001/2019/QĐ-V xử lý kỷ luật sa thải chị D; lý do là do chị D đánh người gây thương tích. Không đồng ý việc xử lý kỷ luật nêu trên chị D khởi kiện và yêu cầu Công ty phải bồi thường thiệt hại cho chị số tiền 81.293.000 đồng.2. Nhận định của Tòa án nhân dân cấp sơ thẩmNgày 27/02/2019, do mâu thuẫn trong lúc làm việc chung nên chị D và chị N có xảy ra xô xát với nhau (đánh nhau bằng tay, không sử dụng hung khí). Chị N chỉ bị trầy xướt ở tay, không điều trị vết thương, không yêu cầu cơ quan pháp luật giải quyết. Sự việc đánh nhau giữa chị N và chị D không được cơ quan pháp luật kết luận hành vi của chị D là “cố ý gây thương tích cho sức khoẻ người khác”. Do đó Công ty V sa thải là trái pháp luật. Chị D không muốn quay lại làm việc nên không buộc công ty V phải nhận chị D trở lại làm việc, mà phải có nghĩa vụ bồi thường cho chị D các khoản theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 42 BLLĐ năm 2012 tổng là  36.663.520 đồng.3. Luận cứ của vụ ánKhoản 1 Điều 126 BLLĐ năm 2012 quy định, người sử dụng lao động có quyền sa thải khi người lao động có hành vi cố ý gây thương tích theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên hành vi cố ý gây thương tích phải được cơ quan điều tra, xác minh tỷ lệ thương tật, nếu đúng thì người sử dụng lao động mới được sa thải người lao động.Trên đây là thông tin của chúng tôi về Bản án số 01/2019/LĐ-ST , nếu  muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệĐịa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.comHotline: 0888889366Fanpage: Công ty Luật Legalzone
avatar
Nguyễn Linh Trang
953 ngày trước
Bài viết
Tóm tắt Án lệ số 14/2017/AL
Án lệ số 14/2017/AL về công nhận điều kiện của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất mà điều kiện đó không được ghi trong hợp đồng1. Tóm tắt vụ ánÔng P1 làm hợp đồng tặng cho anh P2 (con trai của ông) mảnh đất mà ông được UBND thành phố P, tỉnh Điện Biên cấp cho và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với điều kiện anh P2 phải xây nhà cho ông ở. Tuy nhiên, sau khi hoàn tất thủ tục sang tên hợp đồng tặng cho, anh P2 đã không thực hiện việc xây nhà như đã hứa, ông P1 khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho đất vì anh P2 không thực hiện điều kiện đã cam kết. Anh P2 trình bày rằng ông P1 cho đất không có điều kiện và cam kết gì nên không chấp nhân theo yêu cầu của nguyên đơn. Tòa sơ thẩm tuyên không chấp nhận yêu cầu của ông P1. Ông P1 kháng cáo. Tòa phúc thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu của ông P1, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Anh P2 khiếu nại đề nghị xem xét thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm.2. Nhận định của Tòa án nhân dân Tối caoTại giấy ủy quyền, ông P1 đã ủy quyền cho anh P2 xin giấy phép xây dựng và có ghi điều kiện cụ thể, anh P2 có kí và viết rõ tại bản cam kết rằng đồng ý với các điều kiện mà ông P1 đưa ra. Sau đó, ông P1 làm hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không ghi điều kiện, tuy nhiên tại văn bản ủy quyền có thể hiện rõ điều kiện tặng cho đất. Do đó, nếu anh P2 không thực hiện đầy đủ các yêu cầu mà ông P1 đưa ra thì hợp đồng tặng cho đất vô hiệu.3. Luận cứ của vụ ánKhoản 1 Điều 120 BLDS 2015 quy định về giao dịch dân sự có điều kiện: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về điều kiện phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự thì khi điều kiện đó xảy ra, giao dịch dân sự phát sinh hoặc hủy bỏ”. Do đó, khi các bên thỏa thuận thống nhất về điều kiện và điều kiện đó là hợp pháp, mặc dù không thể hiện điều kiện trong giao dịch dân sự nhưng đã thể hiện rõ tại các văn bản, tài liệu khác có liên quan thì phải xác định đó là hợp đồng dân sự có điều kiện. Vì thế, nếu điều kiện không xảy ra thì hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 462 BLDS 2015.Trên đây là thông tin của chúng tôi về Án lệ số 14/2017/AL, nếu  muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệĐịa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.comHotline: 0888889366Fanpage: Công ty Luật Legalzone  
avatar
Nguyễn Linh Trang
958 ngày trước
Bài viết
Tóm tắt bản án số 372/2019/LĐ-PT
Bản án về tranh chấp xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải số 372/2019/LĐ-PT1. Tóm tắt vụ ánÔng T là nhân viên của Công ty P. Ngày 07/02/2017, tại khu vực Kho vận, ông H và ông T đã xảy ra tranh cãi với nhau. Sau khi ông T tự vệ chống trả lại và quay lưng đi thì bị ông H dùng dao bấm đâm từ sau lưng đâm tới làm ông T bị thương nặng. Ngày 16/02/2017, Công ty gọi ông T và ông H đến để viết tường trình và hòa giải. Ngày 17/2/2017, Công ty P gọi ông T và ông H đến tham dự một buổi xử lý kỷ luật lao động. Kết quả là ông T và ông H bị sa thải. Công ty P đã không thông báo trước vì thế ông T không có thời gian tìm hiểu kiến thức luật lao động nên đã ký tên vào biên bản xử lý kỷ luật. Ông t khởi kiện yêu cầu hủy quyết định sa thải của công ty P, yêu cầu nhận ông trở lại làm việc và thanh toán cho ông các khoảng chi phí và bồi thường cho ông trong thời gian ông không làm việc.2. Nhận định của Tòa ánTòa sơ thẩm và phúc thẩm đều nhận định rằng việc sa thải ông T là đúng theo trình tự và thủ tục của Luật Lao động. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện và kháng cáo sơ thẩm của ông T.3. Luận cứ của vụ ánCăn cứ tại khoản 1 Điều 125 BLLĐ 2019 quy định Hình thức xử lý kỷ luật sa thải được người sử dụng lao động áp dụng khi người lao động có hành vi cố ý gây thương tích tại nơi làm việc. Do đó, khi người lao động có hành vi cố ý gây thương tích tại nơi làm việc thì người sử dụng sẽ được áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải, miễn là đúng trình tự, thủ tục theo pháp luật quy định. Trên đây là thông tin của chúng tôi về Bản án số 372/2019/LĐ-PT , nếu  muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệĐịa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.comHotline: 0888889366Fanpage: Công ty Luật Legalzone
avatar
Nguyễn Linh Trang
961 ngày trước
Bài viết
Án lệ số 17/2018/AL
Án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “Có tính chất côn đồ” trong tội “Giết người” có đồng phạm1. Nội dung vụ việcBiết tin bố vợ mình bị ông Q đánh, H gọi cho V, V rủ thêm T đi đánh ông Q. V và T lấy ở nhà T 02 cây mã tấu mang đi theo. V, T, H ngồi bàn bạc cùng nhau, H nói “đánh dằn mặt thôi” rồi về trước, V và T vẫn tiếp tục nhậu. Sau đó, V và T tới nhà ông Q, gặp ông Q thì V dùng mã tấu chém liên tiếp vào người ông Q. Người dân chạy lại ngăn, T cầm mã tấu đe dọa, tạo điều kiện cho V tẩu thoát. Ông Q được đưa đi cấp cứu kịp thời nhưng thương tích nặng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên H 07 năm tù về tội “Giết người” với tính chất côn đồ và quyết định tội danh, hình phạt với các bị cáo khác. H kháng cáo, Tòa phúc thẩm tuyên H 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.2. Nhận định của Tòa án nhân dân tối caoTại phiên tòa giám đốc thẩm, Tòa án nhận định: V và T là người trực tiếp thực hiện hành vi đánh ông Q nên hành vi phạm tội của V và T “Có tính chất côn đồ”, còn H không trực tiếp tham gia đánh ông Q mà giúp sức cho V và T trong việc đánh ông Q nên hành vi phạm tội của H không “Có tính chất côn đồ”. Do vậy Tòa sơ thẩm kết án là không đúng. Tòa phúc thẩm kết án “cố ý gây thương tích” là sai lầm nghiêm trọng, vì H đã thống nhất ý chí với V và T trong việc đánh ông Q, chấp nhận hậu quả xảy ra. 3. Luận cứ của vụ ánKhoản 2 Điều 123 BLHS 2015 quy định: “Phạm tội giết người không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm”. Khi xác định 1 người là đồng phạm với vai trò xúi giục trong vụ án giết người thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Giết người” nhưng không bị áp dụng tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ”. 
avatar
Nguyễn Linh Trang
961 ngày trước
Bài viết
Tóm tắt án lệ số 46/2021/AL
Án lệ số 46/2021/AL Về việc xác định tình tiết định khung hình phạt “Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục” trong tội “Dâm ô đối với trẻ em”1. Nội dung vụ ánT là học sinh lớp 10 nhắn tin cho D là giáo viên trường L hẹn xuống phòng D chơi. Khi T tới, D thực hiện những hành vi sàm sỡ, dâm ô đối với T. T đẩy D ra đòi về. sau khi về, T kể lại cho gia đình biết chuyện bị D xâm hai tình dục. Ngày 03/04/2017, H là mẹ của T tố cáo hành vi của D. Tại kết luận giám định pháp y kết luận T không bị tổn hại cơ thể. Ngày 02/10/2017, Tòa sơ thẩm tuyên D tội “Dâm ô đối với trẻ em” 07 tháng tù. Ngày 02/10/2017, D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo. Ngày 29/12/2017, Tòa phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của D, tuyên 07 thánh tù nhưng cho hưởng án treo. Ngày 06/04/2018, VKSNDCC Đà Nẵng kháng nghị, yêu cầu xét xử với tình tiết định khung tăng nặng “đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục”. Ngày 23/10/2018, Quyết định giám đốc thẩm giữ nguyên bản án phúc thẩm. Ngày 23/10/2019, VKSNDTC kháng nghị quyết định giám đốc thẩm.2. Nhận định của Tòa án nhân dân Tối caoD là giáo viên dạy học ở Trường L, mặc dù không trực tiếp dạy học cho T nhưng khi 2 người gặp mặt, tiếp xúc với nhau qua việc nhắn tin, D đã biết được T là học sinh của trường L. Do đó, với tư cách là giáo viên của nhà trường, D phải có trách nhiệm giáo dục tất cả các học sinh của trường, trong đó có T. D phải bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng là “Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục”.3. Luận cứ của vụ ánKhoản 2, khoản 7 Điều 3 Thông tư 32/2020/TT-BGDĐT: giáo viên phải có trách nhiệm giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu trước học sinh, Phối hợp với nhà trường, gia đình học sinh và các tổ chức xã hội liên quan để tổ chức hoạt động giáo dục. Do đó với tư cách là giáo viên phải có trách nhiệm giáo dục với tất cả các học sinh của trường. Khi đó sẽ xác định tội danh: “tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi mà người phạm tội có trách nhiệm giáo dục”.Trên đây là thông tin của chúng tôi về Án lệ số 46/2021/AL, nếu  muốn biết thêm thông tin chi tiết và để được hướng dẫn thực hiện vui lòng liên hệĐịa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà NộiEmail: Support@legalzone.comHotline: 0888889366Fanpage: Công ty Luật Legalzone  
avatar
Nguyễn Linh Trang
961 ngày trước
Bài viết
Tóm tắt án lệ số 36/2020/AL
Án lệ số 36/2020/AL1. Nội dung vụ việcVợ chồng ông C bà T thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất cho Ngân hàng V để vay tiền. Sau khi vay tiền, ông C bà T không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với ngân hàng V. Trong lúc đó, UBND xã B ban hành Quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông C bà T. Ngân hàng V nhận định rằng quyền sử dụng đất của ông C bà T vẫn có giá trị bảo đảm cho khoản vay, đề nghị Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B ưu tiên phát mãi thanh toán cho Ngân hàng V. Bị đơn là ông C đồng ý yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng V. Ông C và bà T khởi kiện vụ án hành chính Quyết định của UBND, Tòa sơ thẩm và phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu vì tài sản bảo đảm hiện nay không còn. Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm quyết định buộc ông C bà T trả tiền cả gốc và lãi cho Ngân hàng, tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu, Ngân hàng V kháng cáo, bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm, Ngân hàng V có đơn đề nghị xem xét thủ tục giám đốc thẩm.2. Nhận định của tòa án nhân dân tối caoViệc thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất của ông C bà T, do đó việc thế chấp quyền sử dụng đất của ông C bà T là đúng quy định, hợp đồng thế chấp có hiệu lực.3. Luận cứ của vụ ánTheo quy định tại khoản 1 Điều 167 Luật đất đai 2013: “người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này”. Do đó, nếu một người bị ban quyết định hành chính về việc thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhân quyền sử dụng đất nhưng không làm mất đi quyền sử dụng hợp pháp phần đất của họ thì phần đất đó vẫn có giá trị thế chấp.Trên đây bài viết của chúng tôi về án lệ số 36/2020/AL, nếu muốn biết thêm thông tin chi tiết về vấn đề này, vui lòng liên hệ Địa chỉ: Phòng 1603, Sảnh A3, Toà nhà Ecolife, 58 Tố Hữu, Trung Văn, Nam Từ Liêm, Hà Nội Email: Support@legalzone.com