0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
Danh mục
LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
avatar
Văn An
146 ngày trước
Bài viết
Thủ tục đăng ký thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần khi không sử dụng sổ hộ khẩu giấy
Điều Kiện và Thủ Tục Đề Xuất Cấp Giấy Phép Ngân Hàng Thương Mại Cổ PhầnTheo mục 4 Phần II Phụ lục theo Quyết định 658/QĐ-NHNN năm 2023, các điều kiện để thực hiện thủ tục đề nghị cấp Giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần khi bỏ sổ hộ khẩu giấy như sau:Vốn Điều Lệ:Cần có vốn điều lệ tối thiểu đáp ứng mức vốn pháp định.Quản lý và Điều Hành:Người quản lý, người điều hành, thành viên Ban kiểm soát phải đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định tại Điều 50 của Luật các tổ chức tín dụng.Điều Lệ:Đề nghị có Điều lệ phù hợp với quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật liên quan.Kế Hoạch Kinh Doanh:Phải có Đề án thành lập, phương án kinh doanh khả thi, không gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự an toàn và ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng.Không Gây Hạn Chế Cạnh Tranh:Đảm bảo không tạo ra sự độc quyền hoặc hạn chế cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống tổ chức tín dụng.Điều Kiện Đối Với Cổ Đông Sáng Lập:Không là cổ đông sáng lập, chủ sở hữu, hoặc thành viên chiến lược của tổ chức tín dụng khác.Các cổ đông sáng lập phải sở hữu ít nhất 50% vốn điều lệ khi thành lập ngân hàng thương mại cổ phần, trong đó cổ đông sáng lập là pháp nhân cần sở hữu ít nhất 50% tổng số cổ phần.Cổ Đông Sáng Lập Cá Nhân: Ngoài các điều kiện tại điểm a, b đã nêu, cổ đông sáng lập cá nhân phải đáp ứng:Quốc Tịch Việt Nam: Phải mang quốc tịch Việt Nam.Không Bị Cấm: Không thuộc đối tượng bị cấm theo Luật Doanh nghiệp.Không Dùng Vốn Huy Động: Không sử dụng vốn huy động hoặc vốn vay để góp vốn.Kinh Nghiệm Quản Lý: Là người quản lý doanh nghiệp có lãi ít nhất 03 năm liền kề hoặc có bằng đại học chuyên ngành kinh tế hoặc luật.Cổ Đông Sáng Lập Tổ Chức: Ngoài điều kiện tại điểm a, b, cổ đông sáng lập tổ chức cần:Thành Lập Theo Pháp Luật Việt Nam: Phải được thành lập theo pháp luật Việt Nam.Không Dùng Vốn Huy Động: Không sử dụng vốn huy động hoặc vốn vay từ tổ chức hoặc cá nhân khác để góp vốn.Tuân Thủ Nghĩa Vụ Thuế và Bảo Hiểm Xã Hội: Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế và bảo hiểm xã hội.Vốn Chủ Sở Hữu: Có vốn chủ sở hữu tối thiểu 500 tỷ đồng trong 05 năm liền kề.Kinh Doanh Có Lãi: Kinh doanh có lãi trong 05 năm liền kề.Tuân Thủ Quy Định Ngành: Tuân thủ quy định ngành, bao gồm việc đảm bảo vốn chủ sở hữu và quy định liên quan.Cấp Phép Đối Với Ngân Hàng Thương Mại:Tổng tài sản tối thiểu 100.000 tỷ đồng.Tuân thủ các quy định về quản trị rủi ro và trích lập dự phòng.Không vi phạm các tỷ lệ an toàn và quy định của Ngân hàng Nhà nước.Tuân thủ điều kiện giới hạn mua cổ phiếu và đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn.Thủ tục đề nghị cấp Giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần khi bỏ sổ hộ khẩu giấyCăn cứ vào mục 4 Phần II Phụ Lục, theo Quyết định 658/QĐ-NHNN năm 2023, quy định chi tiết trình tự thực hiện thủ tục đề nghị cấp Giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần khi bỏ sổ hộ khẩu giấy như sau:Bước 1: Gửi Hồ Sơ Ban trù bị gửi hồ sơ trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến Ngân hàng Nhà nước, hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép phải tuân thủ Thông tư 40/2011/TT-NHNN.Bước 2: Xác Nhận Hồ Sơ Trong 60 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, Ngân hàng Nhà nước gửi văn bản xác nhận Ban trù bị đã nhận đủ hồ sơ hợp lệ để xem xét chấp thuận nguyên tắc. Nếu hồ sơ không đầy đủ, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu bổ sung.Bước 3: Chấp Thuận Nguyên Tắc Trong 90 ngày từ việc xác nhận hồ sơ, Ngân hàng Nhà nước gửi văn bản chấp thuận nguyên tắc thành lập ngân hàng thương mại. Trường hợp không chấp thuận, Ngân hàng Nhà nước trả lời Ban trù bị với lý do cụ thể.Bước 4: Bổ Sung Văn Bản Trong 60 ngày từ ngày nhận được văn bản chấp thuận nguyên tắc, Ban trù bị gửi bổ sung văn bản theo Thông tư 40/2011/TT-NHNN.Bước 5: Xác Nhận Bổ Sung Trong 02 ngày từ ngày nhận đủ văn bản bổ sung, Ngân hàng Nhà nước xác nhận bằng văn bản về việc đã nhận đủ.Bước 6: Cấp Giấy Phép Trong 30 ngày từ ngày nhận đủ văn bản bổ sung, Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép theo quy định. Trong trường hợp không cấp, Ngân hàng Nhà nước trả lời Ban trù bị với giải thích chi tiết về lý do.Cách Thức Thực Hiện Thủ Tục Đề Nghị Cấp Giấy Phép Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần khi Bỏ Sổ Hộ Khẩu GiấyCăn cứ vào mục 4 Phần II Phụ Lục, theo Quyết định 658/QĐ-NHNN năm 2023, quy định cách thức thực hiện như sau:Tại Trụ Sở Chính Ngân Hàng Nhà Nước: Để thực hiện thủ tục đề nghị cấp Giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng thương mại cổ phần khi bỏ sổ hộ khẩu giấy, bạn có thể đến trực tiếp trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước. Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả sẽ hỗ trợ và hướng dẫn bạn qua quy trình.Tại Dịch Vụ Bưu Chính: Ngoài ra, để tối ưu hóa sự thuận tiện, bạn cũng có thể sử dụng dịch vụ bưu chính. Quy trình này giúp bạn gửi hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép trực tiếp từ địa điểm của mình đến Ngân hàng Nhà nước.Việc này giúp tiết kiệm thời gian và công sức, đồng thời đảm bảo tính chính xác và an toàn trong quá trình chuyển phát.Điều này giúp đảm bảo rằng bạn có thể bắt đầu quy trình một cách thuận lợi và nhanh chóng, đồng thời đáp ứng đầy đủ các yêu cầu và quy định được quy định trong Quyết định 658/QĐ-NHNN năm 2023.Câu hỏi liên quan1. Trình tự thủ tục thành lập ngân hàng thương mại là gì?Trình tự thủ tục thành lập ngân hàng thương mại thường bao gồm các bước sau:Xác định loại hình ngân hàng và mô hình hoạt động: Chọn loại hình ngân hàng thương mại và mô hình hoạt động cụ thể.Chuẩn bị kế hoạch kinh doanh và tài liệu cần thiết: Bao gồm kế hoạch kinh doanh chi tiết, bản mô tả về tổ chức và quản lý, chính sách rủi ro, và các tài liệu khác theo yêu cầu của cơ quan quản lý.Nộp hồ sơ đăng ký và xin cấp phép: Nộp hồ sơ tới cơ quan quản lý tài chính hoặc ngân hàng trung ương để xin cấp phép hoạt động.Đánh giá hồ sơ và cấp phép: Cơ quan quản lý tiến hành đánh giá hồ sơ và quyết định cấp phép.Thực hiện các thủ tục đăng ký và khai trương: Sau khi nhận được giấy phép, ngân hàng cần hoàn tất các thủ tục đăng ký kinh doanh và tổ chức khai trương.2. Điều kiện mở ngân hàng là gì?Điều kiện mở ngân hàng thường bao gồm:Vốn pháp định tối thiểu: Một số tiền nhất định cần có để đảm bảo khả năng tài chính.Đội ngũ quản lý có kinh nghiệm: Người quản lý và cán bộ chủ chốt cần có kinh nghiệm và năng lực tài chính, quản lý phù hợp.Kế hoạch kinh doanh rõ ràng và khả thi: Bao gồm chiến lược, sản phẩm, thị trường mục tiêu, và các biện pháp quản lý rủi ro.Tuân thủ quy định pháp luật: Đáp ứng tất cả các yêu cầu pháp lý, quy định về an toàn và minh bạch tài chính.3. Kinh doanh ngân hàng cần có những điều kiện gì theo quy định của pháp luật?Kinh doanh ngân hàng cần tuân thủ các điều kiện sau theo quy định pháp luật:Vốn điều lệ tối thiểu: Mức vốn cần thiết để đảm bảo hoạt động ổn định và an toàn.Quản lý và cán bộ chủ chốt: Có đội ngũ quản lý và cán bộ chủ chốt đủ điều kiện và năng lực.**Tuân thủ quy định về PCCC, an ninh, bảo mật thông tin và các quy định khác có liên quan đến hoạt động ngân hàng.Chính sách và thủ tục quản lý rủi ro: Có chính sách và thủ tục cụ thể để quản lý rủi ro tài chính, tín dụng, thị trường, và hoạt động.Hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán: Thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán độc lập, hiệu quả.4. Mở ngân hàng cần bao nhiêu vốn?Vốn cần thiết để mở ngân hàng phụ thuộc vào quy định cụ thể của từng quốc gia và loại hình ngân hàng. Thông thường, cơ quan quản lý tài chính hoặc ngân hàng trung ương sẽ quy định một mức vốn pháp định tối thiểu cần thiết, thường là một số tiền lớn, để đảm bảo ngân hàng có đủ khả năng tài chính để hoạt động ổn định và đối phó với các rủi ro. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần vốn dự trữ để tuân thủ các quy định về tỷ lệ an toàn vốn.5. Thành lập ngân hàng là gì?Thành lập ngân hàng là quá trình thiết lập một tổ chức tài chính mới có quyền thực hiện các hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật, bao gồm việc thu nhận tiền gửi, cung cấp tín dụng, và thực hiện các dịch vụ tài chính khác. Quá trình này bao gồm việc lập kế hoạch kinh doanh, thu xếp vốn, thuê nhân sự, xin cấp phép hoạt động, và thiết lập cơ sở vật chất cùng hệ thống quản lý để ngân hàng có thể hoạt động hiệu quả và tuân thủ các quy định pháp luật. 
avatar
Văn An
187 ngày trước
Bài viết
Hướng Dẫn Thủ Tục Nhận Vốn Hỗ Trợ Dự Án Khoa Học từ Quỹ Đổi Mới Công Nghệ
Văn bản thỏa thuận hỗ trợ vốn giữa Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia và doanh nghiệp"Khi tiến hành ký kết văn bản thỏa thuận hỗ trợ vốn, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia và doanh nghiệp cần chú ý đến các điều khoản quan trọng sau đây để đảm bảo tuân thủ Điều 29 của Điều lệ do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt qua Quyết định 04/2021/QĐ-TTg:Đầy đủ thông tin về pháp nhân: Đây bao gồm tên, địa chỉ trụ sở của Quỹ và doanh nghiệp, cũng như thời điểm và địa điểm ký kết thỏa thuận.Rõ ràng về hình thức và quy mô hỗ trợ vốn: Thỏa thuận cần nêu rõ hình thức hỗ trợ, số tiền cụ thể, mục tiêu sử dụng vốn, lịch trình giải ngân, và thời hạn hiệu lực của thỏa thuận.Minh bạch về quyền lợi và nghĩa vụ: Cả hai bên cần thống nhất về quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm, cũng như phương pháp giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra.Cần lưu ý rằng, bên cạnh những nội dung cốt lõi trên, các bên cũng có thể đưa ra thêm các thỏa thuận khác phù hợp với quy định của Điều lệ và pháp luật liên quan.Thông qua việc tuân thủ những nội dung chủ yếu này trong văn bản thỏa thuận hỗ trợ vốn, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia và doanh nghiệp sẽ đảm bảo quản lý minh bạch và hiệu quả nguồn vốn, tạo môi trường ổn định cho các dự án đổi mới công nghệ.Thủ tục để Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia hỗ trợ vốn thực hiện dự án khoa học công nghệNhằm thúc đẩy sự đổi mới và phát triển trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia đã mở cửa cho các doanh nghiệp nộp đề nghị hỗ trợ vốn cho các dự án khoa học công nghệ. Thủ tục này, được hướng dẫn cụ thể qua Điều 29 trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ, yêu cầu các bước sau:Chuẩn bị hồ sơ: Đầu tiên, doanh nghiệp cần lập hồ sơ đề nghị hỗ trợ, bao gồm giấy đề nghị hỗ trợ vốn cùng hồ sơ nhiệm vụ khoa học và công nghệ, đi kèm các tài liệu chứng minh năng lực và đủ điều kiện của doanh nghiệp.Nộp hồ sơ: Hồ sơ hoàn chỉnh có thể được gửi trực tiếp đến trụ sở của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, qua dịch vụ bưu điện, hoặc nộp trực tuyến nếu có hỗ trợ.Xử lý và đánh giá: Sau khi tiếp nhận hồ sơ, Quỹ sẽ tiến hành kiểm tra và thẩm định. Một Hội đồng xét duyệt có thể được thành lập để kiểm tra tính khả thi của dự án cũng như sự phù hợp với các tiêu chí hỗ trợ vốn. Khi cần, Quỹ có thể yêu cầu ý kiến từ chuyên gia tư vấn hoặc Hội đồng khoa học và công nghệ.Doanh nghiệp sẽ được thông báo kết quả, dù là chấp nhận hoặc từ chối, cùng với lý do cụ thể trong trường hợp không được hỗ trợ.Thủ tục này, thiết lập dựa trên các quy định của Quyết định 04/2021/QĐ-TTg, nhằm đảm bảo rằng mọi quyết định hỗ trợ vốn đều minh bạch và công bằng, đồng thời nâng cao cơ hội thành công của các dự án khoa học công nghệ trên cả nước.Mức hỗ trợ vốn của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia đối với dự án khoa học và công nghệ tại vùng kinh tế xã hội khó khănTrong bối cảnh kinh tế xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp, việc hỗ trợ vốn cho các dự án khoa học và công nghệ tại các vùng kinh tế xã hội khó khăn trở nên cực kỳ quan trọng. Theo Điều 28 của Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, được ban hành bởi Thủ tướng Chính phủ thông qua Quyết định 04/2021/QĐ-TTg, mức độ hỗ trợ tài chính cho các dự án như vậy đã được xác định cụ thể.Đặc biệt, đối với các dự án khoa học và công nghệ được triển khai tại các khu vực kinh tế - xã hội có điều kiện khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn, Quỹ có chính sách hỗ trợ mạnh mẽ, lên đến 50% tổng vốn cần thiết cho việc thực hiện dự án. Điều này không chỉ thể hiện sự cam kết trong việc đẩy mạnh sự đổi mới và ứng dụng công nghệ, mà còn phản ánh mức độ ưu tiên mà nhà nước dành cho việc phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng khó khăn.Ngoài ra, tùy vào tính chất và quy mô của từng dự án khoa học và công nghệ cụ thể, Quỹ còn có thể tài trợ từ 70% đến thậm chí 100% vốn, đặc biệt đối với các dự án cấp quốc gia thuộc lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm và đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định.Mọi quyết định về mức tài trợ cụ thể sẽ dựa trên sự đánh giá và đề nghị của Giám đốc Quỹ, và cuối cùng được Chủ tịch Hội đồng Quản lý Quỹ phê duyệt.Như vậy, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia không chỉ mở ra cơ hội cho sự đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, mà còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội tại các vùng khó khăn trên khắp quốc gia.Câu hỏi liên quan1. Thẩm quyền thực hiện thủ tục nhận hỗ trợ vốn từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia cho dự án khoa học và công nghệ?Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia có thẩm quyền tiếp nhận và xem xét các hồ sơ đề nghị hỗ trợ vốn cho dự án khoa học và công nghệ từ các tổ chức, cá nhân, và doanh nghiệp. Quá trình xem xét có thể bao gồm việc thẩm định hồ sơ, đánh giá dự án và quyết định mức độ hỗ trợ vốn dựa trên các tiêu chí đã được quy định trước.Thẩm quyền có thể được mô tả cụ thể trong quy định hoặc điều lệ của Quỹ, thường yêu cầu sự thẩm định và phê duyệt từ Hội đồng quản lý Quỹ hoặc từ Giám đốc Quỹ dựa trên khuyến nghị của các chuyên gia hoặc hội đồng tư vấn khoa học.2. Hồ sơ thực hiện thủ tục nhận hỗ trợ vốn từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia cho dự án khoa học và công nghệ?Để nộp đơn đề nghị hỗ trợ vốn, tổ chức/cá nhân/doanh nghiệp cần chuẩn bị một hồ sơ đầy đủ bao gồm: a) Giấy đề nghị hỗ trợ vốn từ doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân; b) Hồ sơ chi tiết về dự án khoa học và công nghệ, bao gồm mô tả dự án, mục tiêu, phạm vi, kết quả dự kiến, ngân sách chi tiết và lịch trình thực hiện; c) Các văn bản, tài liệu chứng minh doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đáp ứng đủ điều kiện hỗ trợ vốn theo quy định; d) Các giấy tờ pháp lý liên quan khác (nếu có) như giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký dự án, v.v.3. Doanh nghiệp cần tiến hành thủ tục nhận vốn hỗ trợ từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia cho dự án khoa học và công nghệ ở đâu?Thủ tục để Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia hỗ trợ vốn thực hiện dự án khoa học công nghệ được thực hiện tại trụ sở của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia. Doanh nghiệp cần lập hồ sơ đề nghị hỗ trợ vốn theo quy định và nộp hồ sơ này tại trụ sở của Quỹ, hoặc có thể gửi thông qua dịch vụ bưu điện hoặc mạng điện tử nếu Quỹ có cung cấp dịch vụ trực tuyến.Để biết thông tin cụ thể về địa chỉ trụ sở cũng như các chi tiết liên quan đến thủ tục nộp hồ sơ và yêu cầu khác, doanh nghiệp cần truy cập website chính thức của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia hoặc liên hệ trực tiếp qua điện thoại hoặc email để được hướng dẫn cụ thể.4. Doanh nghiệp cần tiến hành thủ tục nhận vốn hỗ trợ từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia cho dự án khoa học và công nghệ trong thời hạn bao lâu?Thời hạn để hoàn thành thủ tục nghị Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia hỗ trợ vốn thực hiện dự án khoa học công nghệ không được quy định cụ thể trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ, do đó nó có thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm:Thời gian chuẩn bị hồ sơ: Doanh nghiệp cần dành thời gian để chuẩn bị đầy đủ hồ sơ theo yêu cầu của Quỹ. Thời gian này có thể biến động tùy thuộc vào tính phức tạp của dự án cũng như khả năng thu thập tài liệu của doanh nghiệp.Thời gian tiếp nhận và xử lý hồ sơ của Quỹ: Sau khi nộp hồ sơ, Quỹ sẽ tiến hành thẩm định và xét duyệt. Quá trình này có thể mất từ vài tuần đến vài tháng tùy thuộc vào quy mô và độ phức tạp của dự án cũng như số lượng hồ sơ mà Quỹ đang xử lý.Thời gian phản hồi và bổ sung hồ sơ (nếu cần): Trong trường hợp hồ sơ cần được chỉnh sửa hoặc bổ sung, thời gian hoàn thành thủ tục cũng sẽ kéo dài thêm.Do đó, quan trọng nhất là doanh nghiệp cần liên hệ trực tiếp với Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia để biết thông tin chi tiết về thời hạn cụ thể, cũng như các giai đoạn và yêu cầu trong quá trình xử lý hồ sơ.5. Thủ tục để Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia hỗ trợ vốn thực hiện dự án khoa học công nghệ có tốn phí?Thông tin về việc có phải trả phí hay không khi thực hiện thủ tục nhận vốn hỗ trợ từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia cho các dự án khoa học và công nghệ không được đề cập cụ thể trong các tài liệu mà Quỹ công bố. Tuy nhiên, dưới đây là một số điểm cần lưu ý:Phí thẩm định dự án: Trong một số trường hợp, có thể có các khoản phí liên quan đến việc thẩm định và đánh giá dự án. Điều này phụ thuộc vào chính sách cụ thể của Quỹ và cần được làm rõ trước khi nộp hồ sơ.Phí quản lý dự án: Nếu dự án được chấp nhận và nhận vốn, có thể có các khoản phí quản lý dự án phát sinh trong suốt quá trình thực hiện dự án, bao gồm nhưng không giới hạn ở việc quản lý tài chính, báo cáo tiến độ, và kiểm toán.Không phí trực tiếp: Đa số các quỹ hỗ trợ khoa học và công nghệ, bao gồm Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, thường không thu phí trực tiếp khi tiếp nhận và xử lý hồ sơ. Mục tiêu của họ là khuyến khích và hỗ trợ phát triển công nghệ và khoa học. 
avatar
Văn An
193 ngày trước
Bài viết
Vay Gián Tiếp từ Quỹ Đổi Mới Thủ Tục Cần Biết
Thời hạn cho vay gián tiếp từ Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia là bao nhiêu năm?Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, được ban hành bởi Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định 04/2021/QĐ-TTg, quy định rõ về thời hạn cho vay gián tiếp từ Quỹ. Theo quy định này, thời hạn cho vay gián tiếp được xác định dựa trên nhiều yếu tố, nhằm đảm bảo tính khả thi của dự án và khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, điều quan trọng là thời hạn này không vượt quá 07 năm.Ngoài ra, quy định cũng đề cập đến các yếu tố khác liên quan đến cho vay gián tiếp. Lãi suất cho vay gián tiếp sẽ được xác định bằng lãi suất cho vay trực tiếp quy định tại khoản 1 Điều 15 Điều lệ. Mức cho vay gián tiếp cho mỗi dự án không vượt quá mức cho vay trực tiếp quy định tại khoản 2 Điều 15 Điều lệ. Phí cho vay gián tiếp sẽ được quy định tối đa theo từng lĩnh vực và từng thời kỳ bởi Hội đồng Quản lý Quỹ.Với những quy định này, thời hạn cho vay gián tiếp từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia sẽ luôn được điều chỉnh và đảm bảo phù hợp với tình hình cụ thể của từng dự án, giúp doanh nghiệp có khả năng thu hồi vốn và trả nợ một cách hiệu quả.Thủ tục vay gián tiếp từ Quỹ đổi mới công nghệ quốc giaThủ tục vay gián tiếp từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia được thực hiện theo một loạt các bước cụ thể, theo Điều 19 của Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ, được ban hành bởi Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định 04/2021/QĐ-TTg. Dưới đây là các bước chi tiết của thủ tục này:Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị vay vốn. Điều này bao gồm việc chuẩn bị các giấy tờ sau:Giấy đề nghị vay vốn từ doanh nghiệp.Hồ sơ dự án của doanh nghiệp cùng với các văn bản và tài liệu chứng minh rằng doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện để vay vốn, như quy định tại khoản 1, điểm a, và điểm b của khoản 2 của Điều 14 Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (được quy định trong Quyết định 04/2021/QĐ-TTg).Bước 2: Nộp hồ sơ tới ngân hàng thương mại có liên kết với Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, hoặc có thể gửi qua dịch vụ bưu điện hoặc mạng điện tử nếu có sẵn.Bước 3: Ngân hàng thương mại tiếp nhận hồ sơ đề nghị vay vốn, thực hiện quá trình thẩm định và đưa ra quyết định về việc cho vay đối với doanh nghiệp. Sau đó, ngân hàng gửi hồ sơ đề nghị nhận vốn cho vay gián tiếp tới trụ sở của Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, hoặc có thể gửi qua dịch vụ bưu điện hoặc mạng điện tử nếu có.Lưu ý: Trong trường hợp ngân hàng từ chối việc cho vay đối với doanh nghiệp, ngân hàng phải cung cấp văn bản thông báo về lý do từ chối.Bước 4: Ngân hàng thương mại lập hồ sơ đề nghị nhận vốn cho vay gián tiếp để gửi đến Quỹ. Hồ sơ này bao gồm:Giấy đề nghị nhận vốn cho vay gián tiếp từ ngân hàng.Hồ sơ dự án của doanh nghiệp cùng với các văn bản và tài liệu chứng minh rằng doanh nghiệp đủ điều kiện để vay vốn, và bất kỳ tài liệu liên quan nào.Bước 5: Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia tiếp nhận hồ sơ từ ngân hàng. Quỹ sẽ tiến hành đánh giá hồ sơ đề nghị nhận vốn cho vay gián tiếp và quyết định việc chuyển vốn cho ngân hàng để thực hiện cho vay gián tiếp. Trong trường hợp cần thiết, Quỹ có thể thuê chuyên gia tư vấn độc lập hoặc thành lập Hội đồng khoa học và công nghệ để tư vấn về hồ sơ đề nghị nhận vốn cho vay gián tiếp. Nếu Quỹ từ chối chuyển vốn, Quỹ sẽ cung cấp văn bản thông báo cho ngân hàng về lý do từ chối.Doanh nghiệp có thể vay gián tiếp ngoại tệ từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia hay không? Dựa trên quy định rõ ràng của Điều 17 trong Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ, được ban hành bởi Thủ tướng Chính phủ theo Quyết định 04/2021/QĐ-TTg, về các điều kiện cho vay gián tiếp. Hãy cùng tìm hiểu chi tiết về điều này:Điều 17: Nguyên tắc, điều kiện cho vay gián tiếpQuy định về điều kiện cho vay gián tiếp được xác định như sau:Để đủ điều kiện vay vốn gián tiếp, doanh nghiệp cần thỏa mãn các yêu cầu sau đây: a) Doanh nghiệp phải đáp ứng các quy định tại khoản 1, điểm a, điểm b của khoản 2 trong Điều 14 của Điều lệ này. b) Ngân hàng cần chấp nhận cho vay và tuân thủ các thỏa thuận đã được thỏa thuận với Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia.Để đảm bảo hiểu rõ hơn về việc vay gián tiếp ngoại tệ từ Quỹ, chúng ta cần tham khảo Điều 14 của Điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ:Điều 14: Đối tượng và điều kiện cho vay trực tiếpQuy định về điều kiện cho vay trực tiếp là như sau:Để được vay trực tiếp từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, doanh nghiệp cần thỏa mãn các điều kiện sau đây: a) Thuộc đối tượng vay vốn theo quy định tại khoản 1 của Điều này. b) Phải có dự án với mục tiêu, nội dung, sản phẩm phù hợp với mục đích hoạt động của Quỹ, như được quy định tại Điều 3 của Điều lệ này. c) Dự án phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật, và phải được Quỹ thẩm định và đánh giá là khả thi với khả năng hoàn trả nợ vay. d) Doanh nghiệp phải được thành lập theo quy định của pháp luật, có đủ nguồn lực để thực hiện dự án và đảm bảo nguồn vốn chủ sở hữu tham gia tối thiểu 20% tổng vốn đầu tư để thực hiện dự án. đ) Doanh nghiệp phải có khả năng tài chính để trả nợ, tuân thủ các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Quyết định này và các quy định pháp luật có liên quan. e) Tại thời điểm đề nghị vay vốn, doanh nghiệp không được có nợ xấu tại các tổ chức tín dụng và không được có nợ thuế trong khoảng thời gian từ 01 năm trở lên, theo quy định của Luật Quản lý thuế. Trong trường hợp nợ thuế phát sinh do nguyên nhân khách quan, doanh nghiệp phải có xác nhận của cơ quan quản lý thuế trực tiếp. g) Cuối cùng, đồng tiền cho vay và trả nợ từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia là đồng Việt Nam.Dựa vào quy định rõ ràng này, có thể thấy rằng đồng tiền cho vay và trả nợ từ Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia là đồng Việt Nam. Vì vậy, theo quy định, doanh nghiệp không thể vay gián tiếp ngoại tệ từ Quỹ được.Câu hỏi liên quanQuỹ Đổi mới công nghệ quốc gia là gì và chức năng của nó?Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia là một nguồn vốn hỗ trợ việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ mới, thúc đẩy sáng tạo và tiến bộ kỹ thuật, công nghệ tại quốc gia.Tài chính gián tiếp là gì?Tài chính gián tiếp thường chỉ việc giao dịch tài chính thông qua một bên trung gian hoặc một cơ cấu trung gian, không thực hiện trực tiếp giữa hai bên mua và bán.Cho vay gián tiếp là gì và cách thức hoạt động của nó?Cho vay gián tiếp xảy ra khi một bên vay tiền thông qua một bên trung gian, chẳng hạn như ngân hàng, tài chính công cộng, hoặc các tổ chức tài chính khác, thay vì vay trực tiếp từ nguồn tiền tươi của một bên cho vay.Ví dụ về tài chính gián tiếp?Một ví dụ về tài chính gián tiếp là khi một cá nhân vay một khoản tiền từ ngân hàng để mua nhà, thay vì vay tiền trực tiếp từ một người cá nhân hoặc một tổ chức khác.Hạn chế của kênh tài chính gián tiếp là gì?Một số hạn chế của kênh tài chính gián tiếp có thể bao gồm chi phí cao hơn do sự can thiệp của bên trung gian, thủ tục phức tạp hơn và thời gian xử lý lâu hơn so với giao dịch trực tiếp. 
avatar
Văn An
211 ngày trước
Bài viết
Hướng dẫn Thủ Tục Rút Vốn Vay ODA và Vốn Vay Ưu Đãi cho Dự Án Dự Thụ Động
Nội Dung Về Việc Giới Thiệu Chữ Ký Mẫu và Hủy Chữ Ký Mẫu cho Đơn Rút Vốn Vay ODA và Vốn Vay Ưu ĐãiTheo quy định tại Khoản 4 Điều 73 Nghị định 114/2021/NĐ-CP, chúng ta sẽ tìm hiểu về việc giới thiệu và hủy chữ ký mẫu khi ký đơn rút vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi. Dưới đây là các điểm quan trọng:Giới Thiệu Chữ Ký Mẫu:Cơ quan chủ quản sẽ gửi một văn bản chứa thông tin về chữ ký mẫu đến Bộ Tài chính. Trong văn bản này, họ sẽ giới thiệu chữ ký mẫu đại diện của chủ dự án hoặc Ban quản lý dự án. Điều này đặc biệt quan trọng khi áp dụng cơ chế tài chính cấp phát hoặc cho vay lại theo tỷ lệ.Hủy Chữ Ký Mẫu:Bên vay lại (chủ dự án hoặc Ban quản lý dự án, nếu được ủy quyền) cần gửi văn bản thông báo hủy chữ ký mẫu đại diện của họ đến Bộ Tài chính. Điều này đặc biệt quan trọng khi áp dụng cơ chế tài chính cho vay lại toàn bộ.Những quy định này giúp quản lý chữ ký mẫu một cách hiệu quả và đảm bảo tính minh bạch và hợp pháp trong quá trình rút vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi.Thủ tục rút vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi phương thức tài trợ dự ánCăn cứ theo Khoản 3 Điều 73 Nghị định 114/2021/NĐ-CP quy định về trình tự và thủ tục rút vốn đối với khoản vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi theo phương thức tài trợ dự án, dưới đây là các điểm quan trọng bạn cần biết:Các hình thức rút vốn:Thanh toán trực tiếp: Đây là quy trình chuyển tiền thanh toán trực tiếp cho nhà thầu hoặc nhà cung cấp của dự án.Thanh toán theo hình thức Thư tín dụng (L/C): Được thực hiện bằng thư tín dụng do ngân hàng phát hành, theo yêu cầu của chủ dự án cam kết với nhà thầu hoặc nhà cung cấp, với điều kiện rằng họ xuất trình được các chứng từ hợp lệ, đúng theo quy định trong L/C.Hoàn vốn: Là hình thức nhà tài trợ nước ngoài thanh toán tiền để hoàn lại các khoản chi hợp lệ do chủ dự án đã chi cho dự án.Tài khoản tạm ứng: Nhà tài trợ nước ngoài tạm ứng trước một khoản tiền vào một tài khoản mở riêng cho dự án tại ngân hàng phục vụ hoặc Kho bạc Nhà nước. Điều này giúp chủ dự án chủ động trong việc thanh toán cho các khoản chi tiêu và hợp lệ của dự án, đồng thời giảm bớt số lần rút vốn vay.Thủ tục rút vốn:Báo cáo và gửi hồ sơ: Sau khi nhà tài trợ nước ngoài thông báo rằng Việt Nam đã hoàn thành các điều kiện tiên quyết để rút vốn theo quy định tại điều ước quốc tế, thỏa thuận về vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi, chủ dự án hoặc Ban quản lý dự án lập bộ hồ sơ đề nghị rút vốn. Hồ sơ này phải tuân theo mẫu của bên cho vay nước ngoài và theo từng hình thức rút vốn. Bộ Tài chính sẽ là đơn vị tiếp nhận hồ sơ này.Tài liệu bổ sung: Trong trường hợp bên cho vay nước ngoài yêu cầu tài liệu bổ sung hoặc chỉ chấp thuận một phần đơn rút vốn, Bộ Tài chính hoặc bên cho vay nước ngoài sẽ thông báo cho chủ dự án để phối hợp xử lý các yêu cầu hợp lý.Hồ sơ rút vốn: Đối với mỗi đợt rút vốn, chủ dự án hoặc đơn vị được ủy quyền lập và gửi Bộ Tài chính 01 bộ hồ sơ rút vốn theo từng hình thức rút vốn. Hồ sơ này phải đảm bảo tính chính xác và hợp lệ, bao gồm các thông tin như số kiểm soát chi, khối lượng nghiệm thu thanh toán, định mức, đơn giá, dự toán các loại công việc và các thông tin chỉ dẫn thanh toán cho các nhà thầu. Hồ sơ phải tuân thủ quy định của pháp luật về chế độ quản lý tài chính của nguồn vốn vay ODA và vay ưu đãi.Thủ tục rút vốn trên môi trường điện tử: Khi đủ điều kiện, thủ tục rút vốn có thể thực hiện trên môi trường điện tử của Bộ Tài chính theo quy định của Chính phủ về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến.Câu hỏi liên quanCâu hỏi 1: Thủ tục rút vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi phương thức tài trợ dự án làm ở đâu?Trả lời: Thủ tục rút vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi phương thức tài trợ dự án thường được thực hiện tại cơ quan tài chính, nơi chịu trách nhiệm quản lý và phối hợp các hoạt động tài chính liên quan đến dự án.Câu hỏi 2: Thủ tục rút vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi phương thức tài trợ dự án có tốn phí không?Trả lời: Thường thì thủ tục rút vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi không có mức phí trực tiếp. Tuy nhiên, có thể có các khoản phí liên quan đến việc gửi tài liệu, xử lý giao dịch ngân hàng hoặc các phí liên quan đến quy trình nộp hồ sơ.Câu hỏi 3: Thủ tục rút vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi phương thức tài trợ dự án làm bao lâu?Trả lời: Thời gian thực hiện thủ tục rút vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi tùy thuộc vào quy trình và phương thức cụ thể của từng dự án. Thời gian này có thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng, phụ thuộc vào sự phê duyệt và xử lý các tài liệu cần thiết.Câu hỏi 4: Điều kiện làm Thủ tục rút vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi phương thức tài trợ dự án là gì?Trả lời: Điều kiện để thực hiện thủ tục rút vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi phương thức tài trợ dự án có thể khác nhau cho mỗi dự án cụ thể. Thường thì điều kiện này bao gồm việc hoàn thành các yêu cầu tiên quyết, đảm bảo tính minh bạch trong quản lý tài chính, và tuân thủ các quy định và hạn mức cụ thể của đơn vay.Câu hỏi 5: Hồ sơ làm Thủ tục rút vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi phương thức tài trợ dự án gồm những gì?Trả lời: Hồ sơ thủ tục rút vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi phương thức tài trợ dự án thường gồm các tài liệu như đơn đề nghị, bản thuyết minh về tiến độ dự án và việc sử dụng vốn, các báo cáo tài chính, và các tài liệu liên quan đến quản lý dự án và tài chính.Câu hỏi 6: Thẩm quyền làm Thủ tục rút vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi phương thức tài trợ dự án thuộc về ai?Trả lời: Thẩm quyền thực hiện thủ tục rút vốn vay ODA và vốn vay ưu đãi thường thuộc về cơ quan tài chính hoặc tổ chức có liên quan chịu trách nhiệm quản lý dự án và hoạt động tài chính liên quan đến nó. 
avatar
Đoàn Trà My
241 ngày trước
Bài viết
CÔNG CHỨC LÀM LỘ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC CÓ THỂ BỊ XỬ PHẠT NHƯ THẾ NÀO?
Hành vi làm lộ bí mật nhà nước là một trong những tội phạm trọng tội trong ngành công an và an ninh. Đặc biệt, đối với cán bộ công làm lô, hành vi này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn đe dọa đến an ninh quốc gia và an toàn xã hội.Bí mật nhà nước là gì?Căn cứ theo khoản 1, 2 Điều 2 Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018 quy định:Bí mật nhà nước là thông tin có nội dung quan trọng do người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác định căn cứ vào quy định Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018, chưa công khai, nếu bị lộ, bị mất có thể gây nguy hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc.Hình thức chứa bí mật nhà nước bao gồm tài liệu, vật, địa điểm, lời nói, hoạt động hoặc các dạng khác.Bảo vệ bí mật nhà nước là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng lực lượng, phương tiện, biện pháp để phòng, chống xâm phạm bí mật nhà nước.Cán Bộ Công Làm Lộ Và Hành Vi Làm Lộ Bí Mật Nhà Nước:Pháp luật về cơ yếu quy định một loạt các hành vi bị cấm liên quan đến làm lộ bí mật nhà nước. Dưới đây là một số ví dụ về các hành vi này:Chuyển Mục Đích Sử Dụng Máy Tính và Thiết Bị Khác: Chuyển đổi mục đích sử dụng máy tính và thiết bị khác đã được sử dụng để soạn thảo, lưu trữ, hoặc trao đổi thông tin bí mật nhà nước trước khi loại bỏ thông tin bí mật nhà nước.Sử Dụng Thiết Bị Thu, Phát Tín Hiệu, Ghi Âm, Ghi Hình: Sử dụng các thiết bị có khả năng thu, phát tín hiệu, ghi âm, ghi hình trong các hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung bí mật nhà nước dưới mọi hình thức mà chưa được sự cho phép từ người có thẩm quyền.Đăng Tải và Phát Tán Bí Mật Nhà Nước: Đăng tải hoặc phát tán thông tin bí mật nhà nước trên phương tiện thông tin đại chúng, mạng Internet, mạng máy tính và mạng viễn thông.Như vậy, hành vi làm lộ bí mật nhà nước là hành vi vi phạm pháp luật.Lợi Dụng Vị Trí Chức Vụ:Các cán bộ công làm lộ thông tin thường có trách nhiệm quản lý và xử lý thông tin nhạy cảm liên quan đến an ninh quốc gia và bí mật nhà nước. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, họ có thể lợi dụng vị trí chức vụ để tiết lộ thông tin mật cho người khác hoặc sử dụng thông tin đó vì lợi ích cá nhân.Nguy Cơ Làm Lộ Thông Tin Quan Trọng:Hành vi làm lộ bí mật nhà nước của các cán bộ công làm lô có thể dẫn đến việc tiết lộ thông tin quan trọng cho những tổ chức hoặc cá nhân có ý định gây hại đối với quốc gia. Thông tin này có thể liên quan đến kế hoạch quân sự, an ninh, kinh tế, hoặc các hoạt động tình báo.Luật Cán Bộ, Công Chức 2008 quy định những điểm sau đây:Không Tiết Lộ Thông Tin Bí Mật Nhà Nước: Cán bộ, công chức không được tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật nhà nước dưới mọi hình thức.Thời Hạn Không Làm Công Việc Liên Quan Đến Bí Mật Nhà Nước: Cán bộ, công chức làm việc ở các lĩnh vực liên quan đến bí mật nhà nước thì ít nhất trong thời hạn 05 năm kể từ khi nghỉ hưu hoặc thôi việc, họ không được làm công việc có liên quan đến ngành, nghề mà họ đã đảm nhiệm cho tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài.Danh Mục Các Lĩnh Vực Cấm Cán Bộ, Công Chức Làm: Chính phủ quy định danh mục cụ thể của các lĩnh vực, nghề nghiệp, công việc, và thời hạn liên quan đến các quy định này.Các quy định này giúp đảm bảo tính bảo mật và an toàn của thông tin bí mật nhà nước và ngăn ngừa hành vi làm lộ thông tin này.Theo Điều 19 Luật Cán bộ, công chức 2008 quy định như sau:Những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến bí mật nhà nước1. Cán bộ, công chức không được tiết lộ thông tin liên quan đến bí mật nhà nước dưới mọi hình thức.2. Cán bộ, công chức làm việc ở ngành, nghề có liên quan đến bí mật nhà nước thì trong thời hạn ít nhất là 05 năm, kể từ khi có quyết định nghỉ hưu, thôi việc, không được làm công việc có liên quan đến ngành, nghề mà trước đây mình đã đảm nhiệm cho tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài.3. Chính phủ quy định cụ thể danh mục ngành, nghề, công việc, thời hạn mà cán bộ, công chức không được làm và chính sách đối với những người phải áp dụng quy định tại Điều này.Theo đó, những việc nêu trên công chức không được làm khi liên quan đến bí mật nhà nước.Hậu Quả Và Xử Lý Hành Vi Làm Lộ Bí Mật Nhà Nước:Theo khoản 4 Điều 19 Nghị định 144/2021/NĐ-CP thì hành vi vi phạm quy định về bảo vệ bí mật nhà nước bị xử phạt như sau:Vi phạm quy định về bảo vệ bí mật nhà nước...4. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:a) Làm lộ bí mật nhà nước; làm mất tài liệu, vật chứa bí mật nhà nước nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;b) Đăng tải, phát tán bí mật nhà nước trên phương tiện thông tin đại chúng, mạng Internet, mạng máy tính và mạng viễn thông không đúng quy định của pháp luật;c) Truyền đưa bí mật nhà nước trên phương tiện thông tin, viễn thông không đúng quy định của pháp luật....Như vậy, khi cán bộ, công chức làm lộ bí mật nhà nước sẽ bị xử phạt hành chính với mức phạt tiền từ 20.000.00 đồng đến 30.000.000 đồng.Ngoài ra cán bộ, công chức có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi làm lộ bí mật nhà nước nếu thuộc quy định tại Điều 337, 338 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) về các tội như sau:- Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước.- Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước.Hình Phạt Hành chính: Cán bộ công làm lô bị xác định làm lộ thông tin bí mật nhà nước có thể bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật. Hình phạt có thể bao gồm việc kỷ luật, cảnh cáo, buộc thôi việc, hoặc bị giới hạn trong quyền và nghĩa vụ công việc.Hình Phạt Hình Sự: Trong những trường hợp nghiêm trọng hơn, hành vi làm lộ bí mật nhà nước của cán bộ công làm lô có thể bị truy cứu hình sự và phải đối mặt với án phạt tù từ năm năm trở lên, tù chung thân hoặc thậm chí là tử hình. Điều này phản ánh sự nghiêm trọng và nguy hiểm của việc làm lộ thông tin quan trọng.Thủ Tục Và Quy Định Xử Lý:Thủ Tục Pháp Luật: Thông tin chi tiết về thủ tục và quy định xử lý hành vi làm lộ bí mật nhà nước của cán bộ công làm lô có thể được tìm thấy tại Thủ Tục Pháp Luật. Trang web này cung cấp thông tin về quá trình điều tra, truy tố và xử lý theo quy định của pháp luật.Kết LuậnHành vi làm lộ bí mật nhà nước của cán bộ công làm lô là một tội phạm nghiêm trọng, đe dọa đến an ninh quốc gia và an toàn xã hội. Thủ Tục Pháp Luật cung cấp thông tin chi tiết để bạn hiểu rõ hơn về quy định và thủ tục xử lý hành vi này, cũng như hậu quả mà việc này có thể gây ra đối với cán bộ công làm lô và an ninh quốc gia.
avatar
Lã Thị Ái Vi
254 ngày trước
Bài viết
Thực trạng quy định pháp luật về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước
3.3. Thực trạng quy định pháp luật về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước Sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách được quy định khá phân tán bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau, trong đó có pháp luật thực hiện dân chủ cơ sở, pháp luật ngân sách, pháp luật đầu tư, pháp luật quản lý tài sản công, pháp luật thanh tra, pháp luật về tổ chức và hoạt động của chính quyền các cấp và Mặt trận tổ quốc. Với các mức độ tham gia cụ thể như sau: 3.3.1. Được biết thông tin về ngân sách nhà nước. Quyền tham gia của người dân nói chung, ngân sách nhà nước nói riêng ở Việt Nam hiện được quy định đầy đủ nhất tại cấp cơ sở dưới tên gọi “thực hiện dân chủ”, trước đây được điều chỉnh bởi Pháp lệnh số 34, mới đây được xây dựng thành Luật Thực hành dân chủ ở cơ sở năm 2022. Theo đó, quyền tham gia được ghi nhận với các mức độ gồm: Được biết thông tin thể hiện với quy định là Công khai ngân sách nhà nước; Nhân dân bàn và quyết định; Nhân dân tham gia ý kiến; Nhân dân kiểm tra giám sát. trong đó có lĩnh vưc ngân sách được sửa đổi và ghi nhận khá cụ thể. Đối với mức độ thấp nhất, được biết thông tin về ngân sách được quy định dưới tên gọi: Công khai ngân sách. Cụ thể như sau: Theo quy định chung tại điểm a khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015, người dân được biết thông tin về ngân sách nước khi nhà nước công khai, với các nội dung chủ yếu gồm: Dự toán ngân sách nhà nước trình Quốc hội, Hội đồng nhân dân; dự toán ngân sách nhà nước đã được cấp có thẩm quyền quyết định; báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước; quyết toán ngân sách nhà nước được Quốc hội, Hội đồng nhân dân phê chuẩn; dự toán, tình hình thực hiện, quyết toán ngân sách của các đơn vị dự toán ngân sách, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ và các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Theo quy định này, ngân sách nhà nước được công khai được phân loại thành những nội dung khác nhau: Thứ nhất là công khai ngân sách của các cấp ngân sách; Thứ hai là công khai ngân sách của các đơn vị dự toán, các tổ chức được ngân sách nhà nước tài trợ; Thứ ba là các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Cụ thể như sau: Thứ nhất, đối với các cấp ngân sách nhà nước - Ngân sách trung ương, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 343/2016/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện công khai ngân sách nhà nước đối với các cấp ngân sách nhà nước (Thông tư 343/2016), có bốn nội dung ngân sách trung ương phải công khai gồm: 1, Công khai chỉ tiêu, biểu mẫu, thuyết minh làm căn cứ trình Quốc hội quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương 2, Công khai số liệu dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương đã được Quốc hội quyết định; 3, Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước quý (06 tháng, năm) đã được báo cáo Chính phủ; 4, Công khai số liệu và thuyết minh quyết toán ngân sách nhà nước đã được Quốc hội phê chuẩn. Đối với ngân sách cấp tỉnh, theo Điều 7 Thông tư 343/2016, bốn nội dung ngân sách cần phải công khai gồm: 1, Công khai chỉ tiêu, biểu mẫu, thuyết minh làm căn cứ trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định dự toán ngân sách địa phương và phân bổ ngân sách cấp tỉnh; 2, Công khai số liệu dự toán ngân sách địa phương và phân bổ ngân sách cấp tỉnh đã được Hội đồng nhân dân quyết định; 3, Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách địa phương quý (06 tháng, năm) đã được báo cáo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; 4, Công khai số liệu và thuyết minh quyết toán ngân sách địa phương đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê chuẩn. Đối với ngân sách cấp huyện, theo Điều 11 Thông tư 343/2016, bốn nội dung ngân sách cần phải công khai gồm: 1, Công khai chỉ tiêu, biểu mẫu, thuyết minh làm căn cứ trình Hội đồng nhân dân cấp huyện quyết định dự toán ngân sách huyện và phân bổ ngân sách cấp huyện; 2, Công khai số liệu dự toán ngân sách huyện và phân bổ ngân sách cấp huyện đã được Hội đồng nhân dân cấp huyện quyết định; 3, Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách huyện quý (06 tháng, năm) đã được báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện; 4, Công khai số liệu và thuyết minh quyết toán ngân sách huyện đã được Hội đồng nhân dân cấp huyện phê chuẩn. Đối với ngân sách cấp xã, theo Điều 15 Thông tư 343/2016, bốn nội dung ngân sách cần phải công khai gồm: 1, Công khai chỉ tiêu, biểu mẫu và thuyết minh làm căn cứ trình Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định dự toán ngân sách xã và kế hoạch hoạt động tài chính khác ở xã; 2, Công khai số liệu dự toán ngân sách xã và kế hoạch hoạt động tài chính khác ở xã đã được Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định; 3, Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách xã quý (06 tháng, năm); 4, Công khai quyết toán ngân sách xã và kết quả thực hiện các hoạt động tài chính khác ở xã đã được Hội đồng nhân dân cấp xã phê chuẩn. Về hình thức công khai của các cấp ngân sách nhà nước: Hiện được quy định chung tại điểm b khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015 gồm: công bố tại kỳ họp, niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát hành ấn phẩm; thông báo bằng văn bản đến các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; đưa lên trang thông tin điện tử; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phụ thuộc vào từng cấp ngân sách mà hình thức công khai có sự điều chỉnh cho phù hợp, tuy nhiên, với ngân sách cấp trung ương thì hình thức bắt buộc là công bố trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài chính, đối với cấp tỉnh hình thức bắt buộc là công bố trên Cổng/Trang thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân tỉnh và Cổng/Trang thông tin điện tử của Sở Tài chính, đối với cấp huyện hình thức công khai bắt buộc là thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân huyện ít nhất là 30 ngày. Đối với cấp xã, hiện được điều chỉnh đồng thời bởi nhiều quy định khác nhau, theo đó, tại Thông tư số 343/2016 thì quy định, đối với công khai chỉ tiêu, biểu mẫu và thuyết minh làm căn cứ trình Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định dự toán ngân sách xã và kế hoạch hoạt động tài chính khác ở xã và công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách xã quý (06 tháng, năm) thì hình thức công khai áp dụng là niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã ít nhất trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày niêm yết; thông báo trên hệ thống truyền thanh của xã (nếu xã có hệ thống truyền thanh). Đối với công khai số liệu dự toán ngân sách xã và kế hoạch hoạt động tài chính khác ở xã đã được Hội đồng nhân dân cấp xã quyết định và công khai quyết toán ngân sách xã và kết quả thực hiện các hoạt động tài chính khác ở xã đã được Hội đồng nhân dân cấp xã phê chuẩn) thì hình thức công khai là niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã ít nhất trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày niêm yết; thông báo trên hệ thống truyền thanh của xã (nếu xã có hệ thống truyền thanh); thông báo bằng văn bản cho Đảng ủy, các tổ chức chính trị - xã hội ở xã và trưởng các thôn, làng, ấp, bản, buôn, sóc ở xã và tổ dân phố ở phường, thị trấn. Cùng là nội dung về công khai ngân sách nhà nước tại cấp xã, tại Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở thống nhất bốn nội dung cần phải công khai theo Thông tư số 343/2016 đồng thời bổ sung thêm nội dung kết quả thực hiện các kiến nghị của Kiểm toán nhà nước (nếu có) (Khoản 2 Điều 11 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở). Tương ứng với các nội dung này, các hình thức công khai bắt buộc là đăng tải trên trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử của chính quyền địa phương tại nơi đã thiết lập trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử. Song song với hình thức này, UBND cấp xã phải có trách nhiệm niêm yết thông tintại trụ sở Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã, tại nhà văn hóa và các điểm sinh hoạt cộng đồng ở thôn, tổ dân phố. Về thời điểm công khai: Phụ thuộc vào từng nội dung công khai ngân sách pháp luật quy định cụ thể về thời gian công khai. Đối với dự thảo dự toán trình cơ quan quyền lực của Chính phủ và UBND thì thời điểm công khai là 05 ngày làm việc kể từ ngày Chính phủ hoặc UBND trình cơ quan quyền lực nhà nước. Đối với dự toán và quyết toán ngân sách được thông qua, thời điểm công khai chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày văn bản được ban hành. Báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hằng quý, 06 tháng phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc quý và 06 tháng. Báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước hằng năm được công khai khi Chính phủ trình Quốc hội UBND trình HĐND. Về chủ thể chịu trách nhiệm công khai: được giao cho cơ quan tài chính trung ương và địa phương, đối với cấp xã giao UBND mà cụ thể là Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách nhiệm công khai. Thứ hai, đối với đơn vị dự toán ngân sách, tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ Về nội dung công khaiDựa vào Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 61/2017/TT-BTC Hướng dẫn công khai ngân sách đối với đơn vị dự toán ngân sách, tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ. Theo đó, các chủ thể trên phải công khai các nội dung gồm: Dự toán ngân sách; Số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước (quý, 6 tháng, năm) và Công khai quyết toán ngân sách nhà nước. Đối với tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ cần phải công khai kinh phí ngân sách nhà nước hỗ trợ; Công khai số liệu và thuyết minh tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hỗ trợ (quý, 6 tháng, năm); Công khai quyết toán ngân sách nhà nước hỗ trợ Về chủ thể chịu trách nhiệm công khai: thuộc về Thủ trưởng đơn vị dự toán chịu trách nhiệm thực hiện công khai; Thủ trưởng tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ chịu trách nhiệm thực hiện công khai. Về hình thức công khai: được thực hiện bằng một hoặc một số hình thức quy định tại điểm b khoản 1 Điều 15 của Luật Ngân sách nhà nước, đối với đơn vị có Cổng thông tin điện tử thì phải thực hiện công khai ngân sách qua Cổng thông tin điện tử của đơn vị mình. Về thời điểm công khai: Đối với báo cáo dự toán ngân sách nhà nước phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày được đơn vị dự toán cấp trên hoặc cấp có thẩm quyền giao đầu năm và điều chỉnh giảm hoặc bổ sung trong năm (nếu có). Tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ phải côn khai là 15 ngày kể từ ngày được tổ chức cấp trên hoặc cấp có thẩm quyền giao đầu năm và điều chỉnh giảm hoặc bổ sung trong năm (nếu có) ; Đối với báo cáo tình hình thực hiện dự toán ngân sách nhà nước hằng quý, 6 tháng phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày kết thúc quý và 06 tháng. Đối với báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước hàng năm được công khai chậm nhất là 05 ngày làm việc, kể từ ngày đơn vị báo cáo đơn vị dự toán cấp trên trực tiếp. Và đối với báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước phải được công khai chậm nhất là 15 ngày, kể từ ngày được đơn vị dự toán cấp trên hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thứ ba, đối với các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Nội dung công khai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước 2015, các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước được công khai dự toán đã được cấp có thẩm quyền quyết định, tình hình thực hiện ngân sách nhà nước và quyết toán ngân sách nhà nước; kết quả thực hiện các kiến nghị của Kiểm toán nhà nước; trừ số liệu chi tiết, báo cáo thuyết minh thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh, dự trữ quốc gia. Bên cạnh đó, Luật Tiếp cận thông tin 2016 đồng thời quy định tại Điểm đ khoản 1 Điều 17 về thông tin phải công khai đối với các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước gồm: dự toán, tình hình thực hiện và quyết toán ngân sách. Cụ thể tại Điều 14 Luật Đầu tư công 22019 quy định về các nội dung công khai minh bạch trong đầu tư công gồm 11 nội dung, theo trình tự từ pháp luật đầu tư công cho đến kế hoạch, các nguyên tắc, tình hình  và tiến độ thực hiện cho tới khi quyết toán vốn đầu tư công Hình thức công khai : Được thực hiện theo điểm b khoản 1 Điều 15 Luật Ngân sách nhà nước, bao gồm nhiều hình thức khác nhau: công bố tại kỳ họp, niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát hành ấn phẩm; thông báo bằng văn bản đến các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; đưa lên trang thông tin điện tử; thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Điểm đ khoản 1 Điều 17 Luật Tiếp cận thông tin bổ sung thêm các hình thức công khai như thông qua việc tiếp công dân, họp báo, thông cáo báo chí, hoạt động của người phát ngôn của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật; hoặc các hình thức khác thuận lợi cho công dân do cơ quan có trách nhiệm công khai thông tin xác định. Chủ thể công khai đối với các chương trình, dự án đầu tư công theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Luât Đầu tư công 2019 do người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực hiện việc công khai các nội dung đầu tư công theo quy định của pháp luật. Về thời điểm công khai áp dụng theo quy định của pháp luật ngân sách nhà nước, pháp luật về tiếp cận thông tin và Luật Thực hiện dân chủ tại cơ sở. 3.3.2. Được tham vấn ngân sách cùng nhà nước Về lý thuyết, ở mức độ này, người dân được nhà nước mời tham gia và trả lời các nội dung được thiết kế trước về ngân sách nhà nước. Qua đó, nhà nước hiểu hơn quan điểm cũng như nhận thức của người dân về ngân sách nhà nước. Hiện nay, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở có giải thích về thuật ngữ dân chủ ở cơ sở trong đó lý giải rằng đó là cách thức để người dân làm chủ thông qua việc thảo luận, tham gia ý kiến, quyết định và kiểm tra, giám sát các vấn đề ở cơ sở theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Qua rà soát và đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật liên quan cho thấy, hiện nay, tại Việt Nam chưa quy định về nội dung người dân được tham vấn ngân sách cùng nhà nước. 3.3.3. Thảo luận ngân sách cùng nhà nước Đây là giai đoạn người dân thể hiện quan điểm của mình về nội dung ngân sách nhà nước hoặc dự án hoặc chương trình có sử dụng ngân sách nhà nước. Quá trình thảo luận ngân sách được nhà nước tổ chức, người dân tham gia với tư cách cá nhân hoặc đại diện hộ gia đình để cung cấp nhu cầu và nó có giá trị cung cấp các phương án như là gợi ý chính sách cho các chủ thể có thẩm quyền trong quá trình ra quyết định về ngân sách nhà nước. Nội dung thảo luận: Qua đánh giá mức độ tham gia này tương ứng với hình thức Tham gia ý kiến, được quy định tại Mục 3 Luật Thực hiện dân chủ tại cơ sở 2022, liên quan đến ngân sách nhà nước được cụ thể như sau: Đối với các cấp ngân sách nhà nước, thảo luận ngân sách cùng nhà nước của người dân chưa được quy định. Đối với các đơn vị dự toán, các tổ chức được ngân sách nhà nước hỗ trợ, hiện pháp luật cũng không quy định về vấn đề thảo luận với người dân. Đối với các chương trình, dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước được quy định về thảo luận với người dân tại khoản 3 Điều 25 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022, theo đó, phạm vi thảo luận gồm các nội dung về chủ trương, chính sách đầu tư, xây dựng, đất đai, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường, đền bù, giải phóng mặt bằng và phương án di dân, tái định canh, định cư đối với việc quyết định đầu tư công dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A, dự án có quy mô di dân, tái định canh, định cư lớn, dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường, dự án có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội của cộng đồng dân cư nơi thực hiện dự án. Hình thức thảo luận: Bao gồm các hình thức như: hội nghị trao đổi, đối thoại giữa Ủy ban nhân dân cấp xã với Nhân dân; Tổ chức cuộc họp của cộng đồng dân cư; Phát phiếu lấy ý kiến của hộ gia đình; Thông qua hòm thư­ góp ý, đường dây nóng (nếu có); Thông qua Ban công tác Mặt trận ở thôn, tổ dân phố và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở; Thông qua cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của chính quyền địa phương cấp xã; Thông qua mạng viễn thông, mạng xã hội hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật, bảo đảm phù hợp với mức độ ứng dụng công nghệ thông tin tại cấp xã, tại thôn, tổ dân phố. Chủ thể tiến hành thảo luận: UBND cấp xã chịu trách nhiệm lên kế hoạch và tổ chức lấy ý kiến của người dân, quy trình này phải thông báo tới HĐND cùng cấp và MTTQVN cùng cấp. Tại khoản 2 Điều 28 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 cũng đồng thời quy định Chủ tịch UBND cấp xã chịu trách nhiệm chỉ đạo việc tiếp nhận, tổng hợp ý kiến, thông tin phản hồi của người dân dân; nghiên cứu tiếp thu, giải trình ý kiến tham gia của người dân về các nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của cấp xã để quyết định theo thẩm quyền hoặc báo cáo HĐND, UBND cấp xã quyết định và thực hiện việc công khai kết quả tổng hợp ý kiến của người dân, nội dung giải trình, tiếp thu đến người dân. Việc thảo luận hay còn được quy định là Tham gia ý kiến của người dân liên quan đến ngân sách nhà nước được ghi nhận khá phù hợp và tương thích với các bậc thang tham gia nói chung. Trong trường hợp ý kiến của người tham gia không được sử dụng cho quá trình ra quyết định chính sách, pháp luật cũng ghi nhận về việc chịu trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền nếu đưa ra phương án và quyết định khác với các ý kiến của đa số người dân. 3.3.4. Thực hiện ngân sách cùng nhà nước Đây là giai đoạn mà nhà nước và công dân trở thành đối tác hợp tác để thực hiện các nội dung về ngân sách, các chương trình hay dự án có sử dụng ngân sách nhà nước. Người dân cùng thực hiện ngân sách nhà nước có nghĩa là họ trở thành một phần của quy trình ngân sách nhà nước, người dân cùng thực hiện và cùng chịu trách nhiệm với nhà nước. Hiện nay, Luật Ngân sách nhà nước 2015 cùng Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 và các quy định thuộc các lĩnh vực liên quan như pháp luật về đầu tư, pháp luật về quản lý tài sản công…không quy định rõ về nội dung người dân cùng thực hiện ngân sách với nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế tại Việt Nam hiện nay, thuật ngữ “nhà nước và nhân dân cùng làm” đang được áp dụng ở hầu hết các địa phương đã cho thấy sự tồn tại của mức độ tham gia này nhưng chưa được xây dựng thành luật. Cụ thể Đối với ngân sách nhà nước của các cấp chính quyền không quy định mức độ tham gia này. Đối với các đơn vị dự toán/chương trình được ngân sách nhà nước hỗ trợ vốn không quy định về mức độ tham gia này. Đối với các chương trình/ dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước được quy định cụ thể như sau: Về phạm vi áp dụng: chỉ áp dụng tại chính quyền cấp xã Về mục đích: theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 24/1999/NĐ-CP Về việc ban hành quy chế tổ chức huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, thị trấn đã quy định về mục đích huy động nguồn lực của người dân để bổ sung vào vốn đầu tư cho các mục đích xây dựng mới, nâng cấp sửa chữa các công trình cơ sở hạ tầng của xã và công trình cơ sở hạ tầng liên thôn trong xã (gọi chung là công trình cơ sở hạ tầng của xã) gồm: công trình điện, giao thông, trường học, trạm xá xã, các công trình văn hoá, thể thao, hệ thống nước sạch, kênh, mương nội đồng và các công trình công ích khác. Về nội dung ngân sách người dân cùng thực hiện với nhà nước được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 15 Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 gồm: (1) Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng trong phạm vi địa bàn cấp xã, ở thôn, tổ dân phố do người dân đóng góp toàn bộ hoặc một phần kinh phí, tài sản, công sức; (2) Việc thu, chi, quản lý các khoản đóng góp của người dân tại cộng đồng dân cư ngoài các khoản đã được pháp luật quy định; việc thu, chi, quản lý các khoản kinh phí, tài sản do cộng đồng dân cư được giao quản lý hoặc được tiếp nhận từ các nguồn thu, tài trợ, ủng hộ hợp pháp khác. Về hình thức tham gia ở mức độ Thực hiện ngân sách cùng nhà nước bao gồm:Tổ chức cuộc họp của cộng đồng dân cư; Phát phiếu lấy ý kiến của từng hộ gia đình; Biểu quyết trực tuyến nếu phù hợp với mức độ ứng dụng công nghệ thông tin và được cộng đồng dân cư thống nhất lựa chọn. UBND cấp xã có thể áp dụng 1 hoặc một số hình thức tham gia dựa vào tình hình thức tế của địa phương. Hình thức đóng góp được quy định gồm: Tiền; Ngày công lao động và hiện vật theo quy định tại Mục I Thông tư số 85/1999/TT-BTC Hướng dẫn thực hiện quy chế tổ chức huy động, quản lý và sử dụng các khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng của các xã, thị trấn. Hình thức này hiện được mặc định với tên gọi Nhà nước và nhân dân cùng làm. Theo đó, sau khi xác định đươc nội dung, UBND cấp xã chủ trì việc lựa chọn và tổ chức quy trình thực hiện. Việc đóng góp của người dân phải được lấy ý kiến với sự đồng thuận cao, sau khi đa số người dân đồng ý thì UBND xã tổ chức huy động nhân dân đóng góp, nhân dân có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh các quyết định được đa số đồng ý. Tức là người dân phải chịu trách nhiệm và tôn trọng với các ý kiến đã được thông qua. Trong quá trình thực hiện chương trình/dự án, người dân tại địa bàn được ưu tiên hợp tác như là một đối tác thực hiện dự án. Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 24/1999/NĐ-CP thì việc thi công công trình phải ưu tiên sử dụng lao động và lực lượng thi công tại xã, chỉ mời thầu và tổ chức đấu thầu với các lực lượng thi công ngoài địa bàn xã trong trường hợp công trình đòi hỏi kỹ thuật cao, tính chất thi công phức tạp mà lực lượng thi công tại xã không đảm nhận được. Việc tổ chức đấu thầu phải thực hiện theo đúng các quy định hiện hành của Nhà nước. Như vậy, người dân không chỉ chịu trách nhiệm với quyết định khi bỏ phiếu, với tư cách là đối tác thực hiện dự án, họ phải chịu trách nhiệm trước người dân, chính quyền và pháp luật đối với các hạng mục mà họ được mời hợp tác thực hiện.Đối với các hình thức tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước, mức độ thực hiện ngân sách cùng nhà nước được thiết kế chi tiết và đầy đủ hơn so với các mức độ tham gia khác. Theo Lương Thị Thu HươngLink: Tại đây 
avatar
Lã Thị Ái Vi
254 ngày trước
Bài viết
Ghi nhận sự tham gia của người dân trong các bản hiến pháp Việt Nam
3.2. Ghi nhận sự tham gia của người dân trong các bản hiến pháp Việt Nam 3.2.1. Theo Hiến pháp 1946 Các bản Hiến pháp Việt Nam thể chế hóa đường lối của ĐCSVN. Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam được ra đời như một tuyên bố với thế giới về một quốc gia độc lập, ghi nhận quyền và nghĩa vụ của công dân tại Chương II. Liên quan đến sự tham gia của người dân, Hiến pháp 1946 ghi nhận những quyền cơ bản của con người, thông qua đó, gián tiếp khẳng định khả năng bắt kịp xu hướng quốc tế về xây dựng luật khi nhận định rằng: “nền tảng quyền lực nhà nước là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, thể hiện rõ về quyền tham gia chính quyền của người dân (Điều 7). Hiến pháp năm 1946 ghi nhận những nguyên lý về dân chủ (nguyên lý chủ quyền nhân dân) và nhiều tư tưởng tiến bộ có thể sánh ngang các bản hiến pháp tiên tiến thời kỳ đó. Những nội dung này được thể hiện qua mấy ý cơ bản sau đây: Thứ nhất, sự tham gia được quy định nhưng bên cạnh đó, các điều kiện để tham gia hiệu quả cũng đồng thời được ghi nhận, đó là các quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do xuất bản…tại Điều 10 Hiến pháp 1946.  Như đã trình bày tại Chương II, sự tham gia sẽ mang lại giá trị và hiệu quả cao hơn nếu cùng đồng thời kết hợp với sự công khai và minh bạch, tăng cường trách nhiệm giải trình, những nhân tố này chỉ có thể thực hiện được khi quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp….được nhà nước thừa nhận. Thứ hai, theo nhận thức của tác giả Luận án, “sự tham gia chính quyền” được quy định trong Hiến pháp 1946, dù chủ thể tham gia được định danh là “công dân” nhưng vẫn mang tính cá thể hóa nhiều hơn, bởi vì, chỉ có cá thể hóa mới phụ thuộc vào “tài năng và đức hạnh” của chủ thể đó. Nếu sự tham gia được đặt trong một môi trường và khuôn khổ một tổ chức, một tập thể, tính cá nhân hay cá thể này cần phải lược bớt, để tạo một sự đồng thuận rộng rãi hơn. Tuy nhiên, việc Hiến pháp 1946 quy định “công dân có quyền tham gia chính quyền” đã thể hiện một tư tưởng và quan điểm nhất quán cho đến tận ngày nay về cách thức tổ chức dân chủ trong đó có sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước, đó là, không tách rời quyền con người với quyền công dân. Đây là bản sắc riêng của Việt Nam khi thừa nhận về các quyền cơ bản của người dân. Nó không chỉ được biểu hiện về mặt câu chữ, các quyền con người và quyền công dân luôn được đặt thành một chương trong các bản hiến pháp, mà quan điểm này còn thể hiện rất rõ trong từng quy định của Hiến pháp hay pháp luật chuyên ngành. Ví dụ, theo thông lệ trên thế giới, quyền tự do ngôn luận, đó là quyền con người, hay quyền tham gia đóng góp và tận hưởng sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị là một quyền phát triển nhưng cũng đồng thời là quyền con người căn bản, nhưng theo tư duy pháp lý ở Việt Nam, đây là một quyền công dân, chẳng hạn, theo Điều 10 Hiến pháp 1946, công dân có quyền tự do ngôn luận; công dân có quyền tham gia chính quyền (Điều 7). Bên cạnh đó, dựa trên nền tảng của quyền tham gia chính quyền của công dân trong Điều 7, các quyền cơ bản khác gồm quyền tham gia bầu cử (Điều 18); quyền bãi miễn đại biểu và cử tri (Điều 20); quyền phúc quyết Hiến pháp (Điều 21) trong đó, nhân dân có quyền bày tỏ ý kiến của mình để quyết định những vấn đề có liên quan đến vận mệnh của đất nước và quyết định việc sửa đổi Hiến pháp lần lượt được xác định. Hiến pháp 1946 không tách rời quyền con người với quyền công dân. Theo tác giả Luận án, đây là mấu chốt dẫn đến cách tiếp cận và góc nhìn khác nhau giữa pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn đánh giá theo thông lệ quốc tế. Bởi như đã trình bày ở Chương II, sự tham gia của người dân là một quyền tự do dân sự và chính trị, là một quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên, tại Việt Nam, Hiến pháp 1946 đã minh định sự tham gia chính quyền là một quyền của công dân, tức đây là dân quyền chứ không phải nhân quyền như thông lệ mà thế giới đã thừa nhận. Như vậy, theo các bậc thang của sự tham gia nói chung, pháp luật thời kỳ này đã trực tiếp hoặc gián tiếp ghi nhận nhưng có một đặc điểm chung là chưa cụ thể về cơ chế thực thi, mức độ tham gia thấp, ví dụ như quyền phúc quyết đối với những vấn đề liên quan đến vận mệnh đất nước và Hiến pháp, quyền tham gia được ghi nhận nhưng dừng ở mức độ được tham vấn, đưa ra ý kiến, chưa được quyết định. 3.2.2. Theo Hiến pháp 1959 Cùng với công cuộc xây dựng miền Bắc theo định hướng XHCN, hệ thống pháp luật XHCN được du nhập vào Việt Nam trong thời gian này. Nền tảng tư tưởng của hệ thống pháp luật XHCN là cơ sở cho các bản Hiến pháp 1959; Hiến pháp 1980, và sau đó là Hiến pháp 1992, mặc dù bản Hiến pháp 1992 được ban hành cho thời kỳ đổi mới và hội nhập. Tư tưởng và nền tảng pháp luật XHCN được biểu hiện gồm: nhà nước giữ vị trí chủ đạo trong các thành phần kinh tế; nền kinh tế kế hoạch tập trung; quyền lãnh đạo duy nhất thuộc về ĐCSVN; nhà nước sở hữu đất đai; tinh thần pháp luật được dùng để cai trị. Bản Hiến pháp 1959 ghi nhận các các đặc trưng này. Liên quan đến sự tham gia của người dân, Hiến pháp 1959 đặt những ưu tiên khác lên trên, minh chứng là quyền và nghĩa vụ của công dân được đặt tại Chương III, khái niệm tham gia kiến quốc của công dân không được giữ lại mà sự tham gia của người dân chủ yếu thông qua cơ chế dân chủ đại diện bởi các đại biểu, Điều 4 đã quy định rằng quyền lực nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thuộc về người dân, thông qua Quốc hội và HĐND, đồng thời, các chủ thể này phải chịu trách nhiệm trước người dân. Việc người dân tham gia chính quyền được phản ánh gián tiếp thông qua Điều 23, theo đó, không phân biệt, từ đủ mười tám tuổi công dân Việt Nam có quyền bầu cử, ứng cử khi đủ hai mốt tuổi. Hoặc tại Điều 29 quy định về quyền khiếu nại cơ quan công quyền và phải được nhà nước giải quyết, nếu bị thiệt hại thì có quyền được bồi thường. Như vậy, trong Hiến pháp 1959 không quy định cụ thể về các hình thức thực hiện dân chủ nhân dân, các điều kiện thực sự để bảo đảm tính khả thi. Nên các kết quả đạt được về thực thi dân chủ, trong đó có sự tham gia của người dân vào lĩnh vực công hay khu vực ngân sách là hạn chế. Tính cá thể hóa, các quyền cơ bản và dân chủ trong các lĩnh vực kinh tế không có vì nhà nước chỉ thừa nhận sở hữu tập thể: Nhà nước nghiêm cấm việc lợi dụng tài sản tư hữu để làm rối loạn sinh hoạt kinh tế của xã hội, phá hoại kế hoạch kinh tế Nhà nước (Điều 17 Hiến pháp 1959). Do vậy, so với Hiến pháp 1946, sự tham gia của người dân trong giai đoạn này có sự tương đồng là quyền con người và quyền công dân vẫn không tách rời mà được ghi nhận chung. Sự khác biệt mà chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đó là không khuyến khích sự tham gia trực tiếp, bởi sự tham gia trực tiếp dựa trên những yếu tố mang tính cá thể như Hiến pháp 1946 đã chỉ rõ, đó là “tài năng và đức hạnh”. Sự khác biệt này, có thể xuất phát từ bối cảnh chưa thống nhất, sự độc lập chưa trọn vẹn, vì thế, hoàn cảnh thực tế và đòi hỏi của thực tiễn là cần một sự nhất trí ở mức độ cao, việc tham gia vào tập thể, được đại diện bởi các cử tri trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước được ưu tiên cũng là điều có thể giải thích được trong bối cảnh lịch sử của Hiến pháp 1959. 3.2.3. Theo Hiến pháp 1980 Một điểm nổi bật trong Hiến pháp 1980 so với  Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959 được quy định tại Điều 12: “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN”. Đây là một bước chuyển giao về nhận thức của ĐCSVN và Nhà nước Việt Nam. Liên quan đến sự tham gia, sự chuyển đổi nhận thức này là tiền đề để các hình thức dân chủ trực tiếp phát triển hơn nữa, bởi vì pháp luật chính là một công cụ quan trọng nhất, bảo đảm thực thi trên thực tế các quyền tham gia của người dân trở nên hợp pháp. Theo (Đỗ Ngọc Hải, 2006) nguyên tắc pháp chế XHCN áp dụng tại Việt Nam trong thời gian này được cấu tạo bởi 4 nhân tố, gồm: tính thống nhất; tính hợp lý; tính  không có ngoại lệ; tính liên quan giữa pháp chế và văn hóa và cuối cùng nhưng đặc biệt quan trọng là tính gắn liền với dân chủ. Thuộc tính gắn liền với dân chủ thể hiện nội dung căn bản như mọi công dân đều có quyền bình đẳng khi tham gia quản lý và tham gia công việc của nhà nước, dân chủ là chế độ chính trị của nhà nước XHCN với sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân lao động vào công việc nhà nước, dân chủ có mối quan hệ không tách rời, với pháp chế xã hội chủ nghĩa, không thể có dân chủ chân chính bên ngoài xã hội chủ nghĩa. Ghi nhận tại Điều 12 là cơ sở để sự tham gia quản lý công việc của nhà nước được quy định tại Điều 56 về quyền tham gia quản lý công việc của nhà nước, khái niệm về sự tham gia đã được ghi nhận lại như một sự kế thừa Hiến pháp 1946, ngoài ra, thời điểm này, Hiến pháp 1980 khi quy định về sự tham gia của người dân có thêm một bước tiến mới đó là quy định thêm quyền tự do lập hội bên cạnh các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí như Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, tự do lập hội thể hiện tầm nhìn đầy đủ hơn của các nhà lập hiến ở Việt Nam  đối với vấn đề tham gia của người dân, bởi vì, điều kiện để phát triển của sự tham gia đó chính là sự tồn tại của các tổ chức như tổ chức chính trị xã hội; các tổ chức dân sự... Hiến pháp 1980 đã tạo thêm các điều kiện thuận lợi cho sự tham gia được phát triển một cách chính danh trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, vào những năm 1986, Việt Nam phải đối diện với một cuộc khủng hoảng toàn diện. Nguyên nhân được chỉ ra gồm các yếu tố như: sự suy yếu dẫn đến sụp đổ của hệ thống các nước XHCN là nhân tố bên ngoài, nhưng những nhân tố nội tại có thể kể đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau đã được chứng minh và đánh giá nhưng có lẽ chủ yếu đến từ sự không phù hợp của thể chế,  pháp luật mang tính hình thức, không có tính khả thi, cấu trúc bộ máy và các quy định pháp lý xã hội chủ nghĩa dập khuôn, bỏ qua sự tương thích của môi trường/ hiện trạng kinh tế - xã hội nội tại là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến khủng hoảng. Trong bối cảnh đó, sự tham gia của người dân, dù được quy định trong văn bản pháp luật, song thực tế triển khai còn hạn chế, như (Phạm Văn Đức, 2017, trang 63 – 64) đã nhận định: dân chủ không thực chất dẫn đến làm chủ tập thể không thực hiện được, bị biến dạng thành vô chủ, quan liêu hóa, hành chính hóa nặng nề. Từ đó, kìm hãm sự phát triển. Đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, đời sống nhân dân sa sút cả về vật chất lẫn tinh thần. 3.2.4. Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) Sau 6 năm tiến hành Đổi Mới, bắt đầu từ Đại Hội Đảng lần 6 năm 1986, Việt Nam tiến hành sửa đổi hiến pháp lần thứ 4, đó là Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp đầu tiên của tiến trình Đổi Mới. Liên quan đến sự tham gia của người dân, trong lần sửa đổi hiến pháp này, một số quan điểm và tư tưởng vẫn được kế thừa và duy trì, cụ thể như việc kế thừa tư duy về quyền con người và quyền cơ bản của công dân không tách rời. Sự tham gia của công dân dù không còn được tuyên bố là dân chủ XHCN và làm chủ tập thể như trước đây nhưng về cơ bản, việc thừa nhận và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa tại Điều 12 vẫn cho thấy quan điểm rất rõ là nhà nước khuyến khích các quyền dân chủ nhân dân được đặt trong một khuôn khổ hoặc dưới một tổ chức hoặc cộng đồng nhất định, cụ thể là các tổ chức chính trị - xã hội như MTTQ là một ví dụ. Tuy nhiên, dưới tác động của Đổi Mới, cùng với những thiết chế được ban hành trước khi Hiến pháp 1992 được công bố để phục vụ phát triển kinh tế đặc biệt là các bộ luật để phục vụ thu hút hoạt động đầu tư nước ngoài, mà nội dung của những bộ luật này, chịu sự tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ của pháp luật ở các nước phát triển, vốn coi pháp luật là công cụ để phát triển kinh tế và trong quá trình phát triển kinh tế, con người phải được đặt vào trọng tâm, sự phát triển của con người là trung tâm của mọi chiến lược phát triển. Vì thế, các chương trình phát triển cũng như các tổ chức quốc tế như WB, OECD, UNDP…và các quốc gia có nhu cầu mở rộng thị trường đã tiên phong xây dựng các bộ nguyên tắc trong quản trị, và đặt vào trong đó, những quyền căn bản của con người như quyền được thông tin; quyền được tham gia và nhà nước có trách nhiệm công khai, minh bạch và có nghĩa vụ phải giải trình. Chính vì thế, pháp luật phục vụ thu hút đầu tư và phục vụ mục đích phát triển kinh tế của Việt Nam thời kỳ sau Đổi Mới chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng hội nhập, xây dựng pháp luật để thúc đẩy phát triển. Các quy định liên quan đến quyền tham gia của người dân trong Hiến pháp 1992 đã khẳng định điều này. Cụ thể: Thứ nhất, sự tham gia trong Hiến pháp cho thấy tư duy về phân cấp phân quyền đã bắt đầu và trở nên mạnh mẽ, tại Điều 11 ghi nhận công dân tham gia công việc của nhà nước đồng nghĩa là thực hiện quyền làm chủ của mình. Phạm vi tham gia trong Hiến pháp 1992 chỉ rõ người dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội nhưng ở cấp cơ sở. Phân cấp được định dạng rõ hơn trong Điều 56, khi quy định rằng quyền quản lý nhà nước và xã hội của công dân, có quyền thảo luận vấn đề chung, quyền được biểu quyết khi NN trưng cầu dân ý, như vậy, sự tham gia quản lý nhà nước và xã hội vẫn được quy định, nhưng khi nằm trong phạm vi cấp chính quyền, thì sự tham gia được “khoanh vùng” rất rõ. Sự tham gia vào công việc ở cấp cơ sở và những công việc này có thể nhiều loại nhưng trong đó có ảnh hưởng đến đời sống của công dân và cộng đồng. Ở cấp độ trung ương và địa phương, sự tham gia chỉ dừng lại ở mức độ được thảo luận hoặc được tham vấn, tức là mức độ thấp nhất. Thứ hai, Hiến pháp 1992 vẫn kế thừa các điều kiện để tham gia hiệu quả liên quan đến các quyền tự do về ngôn luận, báo chí hoặc hội họp hoặc lập hội…nhưng có sự ảnh hưởng mạnh từ hệ thống pháp luật Luật và phát triển. Cụ thể, khi quy định công dân “có quyền được thông tin” tại Điều 69 cùng với các quyền về tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp… đã khẳng định điều này. Thứ ba, việc quy định về sự tham gia trong Hiến pháp 1992 và “khoanh vùng” tham gia ở cấp cơ sở đã gián tiếp chứng minh sự ảnh hưởng của quan điểm: pháp luật là công cụ phục vụ phát triển kinh tế nhưng người dân và doanh nghiệp được đặt là trọng tâm, bởi vì, để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam, các thông tin liên quan đến các thủ tục hành chính, mối quan hệ giữa nhà nước và người dân và doanh nghiệp cần được minh bạch, cần được công khai…đồng thời đáp ứng kịp thời quá trình chuyển đổi và phân cấp và phân quyền của Việt Nam trong thời gian này. Tạo điều kiện cho địa phương quyền chủ động cũng như khả năng cạnh tranh bằng con đường cải cách hành chính, và vì tiếp cận thông tin là quyền của công dân thì đồng thời cung cấp thông tin, công khai thông tin, minh bạch thông tin, trách nhiệm giải trình lại trở thành nghĩa vụ của nhà nước. Năm 2001, trước sức ép ngày càng mạnh mẽ của quá trình hội nhập, Hiến pháp 1992 tiếp tục được sửa đổi. Điểm mới nhất và quan trọng nhất được quy định tại Điều 2. Cụ thể như sau: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Tuyên bố Việt Nam là nhà nước theo chế độ pháp quyền XHCN, trong đó, quyền lực nhà nước có sự phân công thành các khối lập pháp, hành pháp và tư pháp đã chứng minh sự đổi mới sâu sắc của Việt Nam dưới góc nhìn thể chế. Liên quan đến sự tham gia của người dân nói chung và sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nói riêng, dự báo sẽ có những đột phá mới, xuất phát từ những lý do sau đây: Thứ nhất, nhà nước được xây dựng theo chế độ pháp quyền là nhà nước lấy quyền lực nhân dân làm nền tảng cho toàn bộ hoạt động và tổ chức, trong đó, các quyền cơ bản của nhân dân được ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Trong đó, quyền tham gia của người dân nói chung và tham gia vào quy trình ngân sách nói riêng là quyền tự do quan trọng và căn bản nhất. Thứ hai, quy định tại Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001) cho thấy quan điểm mới của VN về mối quan hệ giữa nhà nước với người dân. Theo đó, người dân được mở rộng quyền tới mức người dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, đổi lại, khu vực nhà nước “chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”. Thứ ba, tuyên bố Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN, dự báo sự đổi mới ngày càng sâu sắc của quốc gia ở tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là thể chế. Tuy nhiên, chính khái niệm “pháp quyền XHCN” cũng khẳng định một sự linh hoạt và uyển chuyển trong chiến lược phát triển của Việt Nam. Theo đó, nền tảng pháp luật XHCN vẫn được giữ lại như một trục chính vững chắc, dựa trên đó, các thiết chế pháp luật mới được cài đặt vào đó, tạo thành các khung định hướng cho thị trường tạo nền cho sự phát triển kinh tế. Cũng chính từ những thay đổi của thị trường đã dần dà kéo theo sự thay đổi thực sự mối quan hệ giữa nhà nước với người dân. Như vậy, so với sự tham gia được quy định trong các bản hiến pháp trước thời kỳ Đổi Mới, gồm Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980 thì sự tham gia trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) đã có thay đổi đáng kể. Mặc dù vẫn dựa trên nền tảng pháp luật XHCN nhưng có chuyển biến tích cực tới quyền tham gia của người dân. Ghi nhận này đánh dấu sự khởi đầu cho những chuyển đổi mạnh mẽ sau này của Việt Nam, đặc biệt dưới góc độ của thể chế. 3.2.5. Theo Hiến pháp 2013 Sau Đại hội Đảng lần thứ XI, Việt Nam tiến hành sửa đổi Hiến pháp lần 5, đó là Hiến pháp 2013. Liên quan đến quyền tham gia của người dân, Hiến pháp lần này ghi nhận rõ ràng, đầy đủ nhưng đồng thời cũng thể hiện sự uyển chuyển, linh hoạt trong hội nhập toàn cầu nhưng đồng thời kiên quyết giữ lại truyền thống pháp luật xã hội chủ nghĩa mang bản sắc riêng, đó là hệ thống pháp luật pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể như sau: Thứ nhất, khẳng định Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân tại khoản 1 Điều 2 cho thấy rằng, sự nhất quán cao trong việc xây dựng nhà nước theo hình thức dân chủ, bởi vì toàn bộ hệ thống thể chế được kiến tạo trên nền tảng quyền lực nhân dân, và nhà nước pháp quyền chính là một bảo đảm để các quyền tự do của người dân được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Việc khẳng định chắc chắn về nhà nước pháp quyền XHCN cho thấy sự đổi mới về mối quan hệ giữa nhà nước với người dân, nó dự báo về không gian dành cho các quyền cơ bản của người dân sẽ được quy định cụ thể hơn, rõ hơn với phạm vi rộng rãi hơn, đặc biệt là quyền tham gia của người dân trong khu vực công và cả lĩnh vực vốn có truyền thống khép kín như là ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN, và vì thế, nó mang bản chất pháp luật của pháp luật XHCN, trên đó, các lớp luật toàn cầu được cấy ghép một cách linh hoạt để tương thích với xu thế toàn cầu và chiến lược hội nhập ngày càng sâu sắc, nhưng trụ đỡ căn bản cho các thiết chế mang dáng dấp pháp luật toàn cầu lại chính là hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Điều này thể hiện ở việc các quyền con người và quyền công dân được tách khá độc lập thành những điều luật riêng trong Hiến pháp 2013 và nhà nước vẫn luôn tôn trọng việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân nhưng khuyến khích tham gia thông qua các tổ chức và đoàn thể được tổ chức hợp pháp, đặc biệt là các tổ chức chính trị; chính trị xã hội; nghề nghiệp nằm trong hệ thống của bộ máy nhà nước. Thứ hai, sự uyển chuyển và linh hoạt tiếp nhận các làn sóng pháp luật mới khi hội nhập được thể hiện tại Điều 6 khi Hiến pháp 2013 lần đầu tiên chỉ rõ cơ chế tham gia của người dân có thể lựa chọn đó là dân chủ trực tiếp hoặc dân chủ gián tiếp. Trong các bản hiến pháp trước đây, khái niệm dân chủ được quy định khái quát và chung chung, tuy nhiên, lần này, Hiến pháp 2013 đã tách bạch rõ dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Đây là một bước tiến mới, một sự bứt phá để pháp luật của Việt Nam phù hợp và tương thích với thông lệ quốc tế. Bởi vì, sự tham gia của người dân được thế giới đồng thuận công nhận là một hình thức dân chủ trực tiếp của người dân. Thứ ba, việc định dạng rõ dân chủ trực tiếp và gián tiếp làm căn cứ để lần đầu tiên trong hiến pháp của Việt Nam, các quyền con người và quyền cơ bản của công dân được tách bạch thay vì được gộp lại như những bản Hiến pháp trước đây. Tại Chương II của Hiến pháp 2013, các quyền con người và quyền công dân được khéo léo ghi nhận, trong đó, quyền tham gia của người dân trong khu vực công được quy định tại Điều 28. Cụ thể tại khoản 1 như sau: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”. Như vậy, so với Điều 56 Hiến pháp 1992, sự tham gia của người dân vào quản lý nhà nước có một số thay đổi, đó là, Hiến pháp 2013 mặc dù vẫn ghi nhận sự tham gia của người dân trong quản lý nhà nước và xã hội vẫn chỉ dừng lại ở mức độ được kiến nghị và thảo luận nhưng có sự phân bậc rõ ràng khi tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội trong cấu trúc bộ máy nhà nước, thể hiện sự phân cấp ngày càng rõ cũng như phương pháp quản trị áp dụng mô hình từ dưới lên, bắt đầu từ cấp cơ sở, sau đó đến địa phương và trên cùng là phạm vi cả nước, khía cạnh “cả nước” thể hiện hai nghĩa, đó là sự tham gia ở cấp trung ương vì thẩm quyền của những cơ quan nhà nước có thể tác động tới phạm vi cả nước, thứ hai, tức là người dân có thể tham gia vào khu vực công, ngay cả đối với quy trình ngân sách nhà nước ở các địa phương khác chứ không chỉ khoanh vùng trong phạm vi địa giới hành chính của địa phương mình. Tại khoản 2 Điều 28 Hiến pháp 2013 thể hiện cam kết của nhà nước về mối quan hệ giữa nhà nước và công dân khi ghi nhận rằng công dân được khuyến khích tham gia quản lý nhà nước, đồng thời, nhà nước cần phải minh bạch khi nhận hoặc phản hồi ý kiến, kiến nghị của người dân. Không những thế, đây là sự ghi nhận lại nhằm thể hiện để chứng minh rằng Việt Nam là nhà nước pháp quyền, vì thế, các quyền cơ bản của công dân đều được cam kết tôn trọng và bảo đảm thực hiện và quá trình này yêu cầu phải công khai và minh bạch. Sự tham gia của người dân trước tiên là một quyền con người căn bản. Nhưng ở Việt Nam, quyền này được định hình là một quyền cơ bản của công dân. Như vậy, về lý thuyết, có một độ chênh giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế về quyền con người. Tất nhiên, các nguyên tắc áp dụng quyền con người có tính phổ biến nhưng cũng có tính đặc thù, việc áp dụng quyền con người phụ thuộc vào nhiều nhân tố của quốc gia áp dụng. Vì vậy, khi Việt Nam đặt quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân thành một quyền cơ bản của công dân có nghĩa là quyền này sẽ được thực hiện phụ thuộc vào quan điểm của nhà nước Việt Nam ở mỗi một giai đoạn lịch sử nhất định. Độ chênh giữa pháp luật quốc gia với pháp luật quốc tế về quyền tham gia của người dân đã tạo nên những đặc trưng căn bản về quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội trong đó có quyền tham gia vào quy trình ngân sách của người dân tại Việt Nam, nhân tố quan trọng này sẽ quyết định tới bản chất, nội dung, các cơ chế, các hình thức và phạm vi tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước ở Việt Nam. Cụ thể, nhà nước đã định hình sẵn về các mức độ tham gia đó là kiến nghị và thảo luận chứ không được áp dụng các nấc thang của sự tham gia như thông lệ của pháp luật quốc tế. Thứ tư, sự tương thích pháp lý phù hợp với hệ thống pháp luật toàn cầu còn được thể hiện tại Điều 25 Hiến pháp 2013 liên quan đến sự tham gia của người dân, đó là thay vì được quy định công dân có quyền được thông tin như trước đây thì thay vào đó quyền này được địnhh nghĩa lại thành “quyền tiếp cận thông tin”, thể hiện sự chủ động hơn cho người dân khi muốn khai thác thông tin để tham gia hiệu quả. Như đã trình bày ở phần trên, thông tin là một nhân tố quan trọng tác động tới hiệu quả của quá trình tham gia, các chủ thể tham gia chỉ có thể đưa ra được ý kiến hoặc quyết định tới vấn đề khi họ có đầy đủ thông tin. Việc cung cấp thông tin là trách nhiệm của nhà nước khi nhà nước phải có nghĩa vụ minh bạch và công khai hoạt động quả lý. Quyền tiếp cận thông tin cũng gián tiếp cho chúng ta thấy trách nhiệm công khai và minh bạch thông tin từ phía nhà nước, bởi vì, chỉ khi thông tin sẵn có và dễ dàng truy cập thì mới có thể tiếp cận thông tin trong thực tế. Sự quy định này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế về các nguyên tắc quản trị tốt. Như vậy, Hiến pháp 2013 đã thể hiện rõ nét quan điểm của Việt Nam về đường lối và định hướng phát triển thông qua việc quy định các quyền con người và các quyền cơ bản của công dân. Theo đó, sự linh hoạt trong việc tiếp cận pháp luật quốc tế để đổi mới và kiến tạo quốc gia đã được thể hiện trong việc tách bạch quyền con người với quyền công dân, nhà nước có nghĩa vụ cung cấp các điều kiện và đảm bảo các quyền đó được thực thi trong thực tế. Tuy nhiên, sự khoanh vùng và giới hạn quyền tham gia của người dân vào khu vực công nói chung và vào quy trình ngân sách nhà nước nói riêng vẫn từng bước được cân nhắc và thận trọng. Sự tham gia trong Hiến pháp 2013 mới chỉ dừng lại ở những mức độ đầu tiên và nhà nước không khuyến khích sự tham gia có tính cá thể mà ủng hộ sự tham gia quy trình được vận hành trong những tổ chức thuộc bộ máy nhà nước. Quy định này được thể hiện rõ trong Điều 16 của Luật Ngân sách nhà nước 2015 là một minh chứng rất rõ về thái độ kiên quyết giữ lại nền tảng pháp luật chủ nghĩa nhưng không rập khuôn mà có thể uyển chuyển linh hoạt để thể chế cũng như quyền tham gia mang bản sắc XHCN Việt Nam một cách đặc trưng và riêng biệt. Theo Lương Thị Thu HươngLink: Tại đây 
avatar
Lã Thị Ái Vi
254 ngày trước
Bài viết
Vai trò của sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước
2.3. Vai trò của sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước 2.3.1. Sự tham gia thúc đẩy kinh tế phát triển Hiện nay, ảnh hưởng của sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước tới lĩnh vực kinh tế vẫn đang được tranh luận. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, sự tham gia có tác động tới kinh tế vĩ mô như chỉ số minh bạch dẫn đến chỉ số về nợ công thấp hơn (Alt, J., and D. D. Lassen, 2006); uy tín và thu hút đầu tư (Stigliz, 2000); chỉ số xếp hạng tín dụng quốc gia cao hơn (Hameed. F, (2005) ; chi phí đi vay giảm (Wang, T., P. Shields, and Y. Wang, 2014); …các nghiên cứu này đều phần lớn chỉ ra rằng đó là kết quả của quá trình công khai và minh bạch thông tin về ngân sách. Tuy nhiên, theo quan  điểm của tác giả, trong nỗ lực tìm kiếm và nghiên cứu sâu tài liệu liên quan đã nhận ra rằng, sự tham gia của người dân thực sự có tác động thúc đẩy kinh tế phát triển, tuy nhiên sự tác động này là gián tiếp với các lý do sau đây: Thứ nhất, trong quá trình thiết kế, áp dụng nguyên tắc công khai minh bạch ngân sách, hầu hết đều áp dụng song song đồng thời cơ chế về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách.  Đầu tiên, dưới góc độ ban hành pháp luật quốc tế, IMF, khi xây dựng Bộ luật minh bạch tài khóa năm 2014, trong đó, các tiêu chuẩn về dự báo, lập và báo cáo, quản lý tài khóa, đã khuyến khích các quốc gia đồng thời áp dụng cơ chế tham gia để đạt được các kết quả phát triển khả quan. Bên cạnh đó, năm 2015, OECD thông qua Khuyến nghị về Quản lý ngân sách đã khẳng định rằng: “Ngân sách nên được thể hiện công khai, minh bạch và dễ tiếp cận, có sự tham gia thực tế”. Rộng hơn khu vực tài chính công, LHQ khi ban hành bộ quy tắc quản trị tốt, yêu cầu về minh bạch đi kèm với sự tham gia. Tất cả đều có một đặc điểm chung đó là ghi nhận quyền được tiếp cận thông tin về ngân sách và có cơ hội tham gia hoạch định chính sách hiệu quả, như là cách thức của một quy trình khép kín. Tinh thần và định hướng này đã dần dà được giới thiệu vào các quốc gia đang phát triển bằng nhiều cách thức và chính phủ các nước đó đã xây dựng thành những quy định của pháp luật (Democracy and Civil Society in Asia, 2004), ví dụ: Bộ Luật Tài khóa Quốc gia của Hàn Quốc năm 2004 (sửa đổi 2006) đã quy định tại Điều 16 như sau: 1. Duy trì sự lành mạnh về tài khóa; 2. Giảm thiểu gánh nặng cho người dân; 3. Tăng hiệu quả của chi tiêu tài chính và thuế; 4. Tăng cường tính minh bạch và công khai tham gia vào quá trình ngân sách; 5. Giới thiệu ngân sách giới. Hay tại Việt Nam, dù trước đây còn dè dặt (trừ Luật Ngân sách nhà nước 2015, tất cả các luật ngân sách trước đây đều không quy định về công khai và sự tham gia ngân sách nhà nước của người dân) nhưng đến năm 2015 đã quy định về công khai ngân sách và đồng thời quy định các hình thức tham gia vào ngân sách của cộng đồng tại Điều 15 và Điều 16. Rõ ràng, từ lý thuyết được thể chế hóa, từ những quy tắc mang tính chuẩn mực quốc tế hay pháp luật quốc gia, minh bạch và tham gia luôn được kết hợp cùng nhau để hướng tới những kết quả có giá trị để thúc đẩy kinh tế phát triển. Thứ hai, khi đặt minh bạch và sự tham gia vào quy trình ngân sách dưới góc độ phát triển trong mối quan hệ giữa nhà nước (người thu thuế) với công dân của mình (người đóng thuế) thì theo nghĩa này, nhà nước ghi nhận, cung cấp thông tin và tạo cơ hội, mở rộng không gian chính trị cho người dân của mình cùng với các cơ chế trao quyền mạnh mẽ thì có thể khẳng định minh bạch và sự tham gia thực tế là một nội dung thống nhất, vì nếu thiếu bất cứ một điều kiện nào, các giá trị đạt được đều không hàm chứa đầy đủ tính phát triển toàn diện và bền vững. Vì thế những giá trị mang lại phải là sự kết hợp, thống nhất của hai khái niệm này. Theo Joseph E. Stiglitz (2000) sự tham gia theo nghĩa rộng nhất bao hàm cả sự minh bạch, cởi mở và tiếng nói trong khu vực công và thị trường vốn. Theo ông, “tại các quốc gia không có pháp quyền, minh bạch suy yếu nó sẽ kéo theo sự suy yếu của cả quá trình tham gia”. Như vây, khi đặt hai yếu tố này trong nội hàm phát triển, thì sự tham gia và minh bạch ngân sách nhà nước như là những nhân tố không thể thiếu trong một quy trình nếu muốn đạt được những thành tựu nền tảng để thúc đẩy kinh tế phát triển. Thứ ba, minh bạch và tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước là mối liên hệ có điều kiện, theo ý này, để đạt được sự tác động và sức ảnh hưởng tới kinh tế nhằm cải thiện hay thúc đẩy thì cần thêm những tác nhân về mặt kỹ thuật hoặc công nghệ, pháp lý, truyền thông, trình độ tri thức… hoặc tất cả các nhân tố trên, một nghiên cứu điển hình ở Hàn Quốc đã cung cấp bằng chứng cho thấy sự minh bạch liên quan đến trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân. Theo nghiên cứu này, thông tin ngân sách minh bạch đã thu hút được sự tham gia của người dân nước này vào quy trình ngân sách nhà nước, đồng thời, đạt được những kết quả khảo sát quốc tế về ngân sách mở và sự tham gia của người dân cao nhất (Khagram, S., A. Fung và P. de Renzio (2013 - chương 4). Năm 2004, nước này ban hành Đạo luật Tài khóa Quốc gia. Đồng thời cung cấp hệ thống Digital Brain với 4 trọng tâm gồm: Điều chỉnh phạm vi báo cáo của thống kê tài khóa để tuân thủ với tiêu chuẩn quốc tế; Cải cách hệ thống các chương trình chính sách của chính phủ và quản lý hiệu suất; Giới thiệu phương pháp ghi sổ kép và kế toán dồn tích hiệu quả hệ thống trong khu vực chính phủ; Thiết lập hệ thống thông tin Tài khóa Tích hợp Quốc gia. Kết quả, toàn bộ hệ thống thông tin về ngân sách được cung cấp đầy đủ, luôn có sẵn, dễ truy cập khiến ngân sách nhà nước trở nên minh bạch dẫn đến sự tham gia của người dân được mở rộng. Theo đánh giá của IPB (International Budget Partnership) năm 2012, chỉ số về sự tham gia của cộng đồng của quy trình ngân sách Hàn Quốc đạt 92/100 vì người dân nước này có thể tham gia vào ngân sách nhà nước ở tất cả các giai đoạn của quy trình, điều này được chứng minh bằng chỉ số điểm ngân sách mở của Hàn Quốc đứng thứ hai ở Đông Á và Thái Bình Dương và thứ 8 trong số 100 các quốc gia được khảo sát trên toàn thế giới. Một lần nữa chúng ta thấy rằng để đạt được chỉ số điểm cao về sự tham gia thì chỉ số ngân sách mở (minh bạch, đầy đủ, sẵn có, dễ dàng) cũng phải đạt ở mức độ cao như ví dụ của Hàn Quốc. Một nghiên cứu thực nghiệm khác của (Oklen, 2007) tiến hành thí điểm tại Mexico cũng chứng minh rằng, thông tin được cung cấp kết hợp với hình thức tham gia trực tiếp lựa chọn dự án dẫn đến quyết định dự án phát triển tốt hơn, ít tham nhũng hơn và tránh được sự ảnh hưởng và can thiệp từ tầng lớp tinh hoa địa phương. Tại Việt Nam, một tình huống nhỏ tại Hải Phòng, ngày 28/02/2020 các đại biểu dự kỳ họp thứ 12 (kỳ họp bất thường) HĐND TP Hải Phòng khóa XV thống nhất thông qua chủ trương tặng quà cho tất cả các hộ gia đình có hộ khẩu trên địa bàn nhân dịp kỷ niệm 65 năm Ngày giải phóng thành phố, với số tiền trích từ ngân sách lên tới 269 tỉ đồng. Thông tin và truyền thông cùng với các diễn đàn công khai phản đối mạnh mẽ tạo thành áp lực thúc chính quyền Hải Phòng không thực hiện nhiệm vụ chi này. Rõ ràng, cuối cùng, chính quyền tạm dừng chi mua quà tặng mà không thể giải thích vì thông tin số tiền sẽ chi được công bố khiến người dân cả nước phản ứng gây sức ép hay dưới sức ép này khiến thông tin về số tiền được công bố. Dù sự tác động qua lại giữa hai nhân tố này như thế nào thì không thể phủ nhận rằng đây là hai điều kiện cần thiết cho một quy trình và minh bạch không tự nhiên dẫn đến sự tham gia nhưng người dân cũng không thể tham gia thực sự khi không có thông tin minh bạch. Đặc biệt là quan hệ giữa nhà nước với người dân liên quan đến ngân sách. Minh bạch thông tin là tiền đề, là cơ sở, là nền tảng để sự tham gia dựa vào đó trong quá trình ra quyết định. Tức là nếu có sự tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước mà thông tin không minh bạch, không sẵn có thì sự tham gia chỉ mang tính hình thức. Ngược lại, trong trường hợp thông tin minh bạch nhưng sự tham gia không được thiết kế trong quy trình thì cuối cùng khả năng ảnh hưởng đến các quyết định ngân sách của người dân là không có, các mục tiêu phát triển không thể đạt được. Như vây, sự tham gia dựa trên nền tảng minh bạch thông tin cần có thêm “chất dẫn” ví dụ như thể chế; kỹ thuật kế toán; công nghệ; truyền thông… để có thể đạt được những giá trị về cải thiện hoặc thúc đẩy sự phát triển, trong đó có kinh tế. Thứ tư, theo tác giả, một giả thiết được đặt ra rằng, nếu sự tham gia không tự nhiên dẫn đến thúc đẩy kinh tế phát triển hơn, không can thiệp và gây ảnh hưởng tới kinh tế vĩ mô và vì vậy các chỉ số như nợ công hoặc đầu tư công hoặc chỉ số quốc gia hoặc chi phí đi vay ... không thực sự bị tác động nào thì có thể đảo ngược vấn đề này, tức là, nhu cầu thực sự của quốc gia muốn cải thiện các vấn đề trên, chẳng hạn như nhu cầu đầu tư công hiệu quả hơn, giảm tham nhũng…thì sự tham gia là một phương án hợp lý và khả thi. Tức là, để người tham gia trở thành một phần của quá trình, để họ có tiếng nói khi lựa chọn dự án phù hợp với nhu cầu thực tế của họ, như thế, không chỉ tiêu chí hài lòng được đạt mà thước đo sử dụng ngân sách hiệu quả cũng hoàn toàn được tìm thấy. Quá trình thực hiện dự án, từ lựa chọn loại dự án cho tới nhà thầu, giai đoạn thi công, giai đoạn nghiệm thu, đánh giá và bảo trì, bất kỳ giai đoạn nào của quá trình đều có thể áp dụng sự tham gia để đạt được mục tiêu về hiệu quả kinh tế. Như vậy, can thiệp và ảnh hưởng trực tiếp tới kinh tế đặc biệt là kinh tế vĩ mô của sự tham gia còn cần nhiều thời gian và sức lực của các nhà nghiên cứu tài chính công trên toàn thế giới, thì một sự thật chúng ta cần thừa rằng, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước thực sự tác động tới hiệu quả phát triển kinh tế dưới các cơ chế gián tiếp. Đồng thời, theo quan điểm của tác giả, liên quan đến lĩnh vực ngân sách nhà nước, hai khái niệm minh bạch và sự tham gia không thể đặt chúng độc lập ngoài mối liên hệ ràng buộc chúng với nhau, bởi vì thiếu mất bất cứ một nhân tố nào hoặc minh bạch hoặc sự tham gia thì các kết quả mà chúng mang lại đều không có giá trị ảnh hưởng tới kinh tế, quản trị, phân bổ công bằng hay phát triển bền vững.2.3.2. Vai trò cải thiện và thúc đẩy quản trị nhà nước Từ cuối thế kỷ 20, khái niệm quản trị nhà nước bắt đầu được nhìn nhận lại, nó cũng đồng thời được đánh giá là phương tiện để thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Nói cách khác, cấu trúc của thể chế và các thiết chế của hệ thống cơ quan nhà nước, mối quan hệ giữa nhà nước với người dân được thiết kế và vận hành như thế nào chính là một cách thức mới để phát triển. Vai trò quan trọng của quản trị nhà nước một lần nữa được khẳng định sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á vào những năm 1997. Theo đó, quản trị nhà nước hiệu quả được coi là chìa khóa mở các cánh cửa phát triển đã trở thành một nội dung không cần tranh luận. Nhận định này được củng cố thêm bởi sự đồng thuận của các tổ chức quốc tế khi xây dựng các bộ nguyên tắc quản trị công sau đó cấy ghép và áp dụng vào các quốc gia chuyển đổi có nhu cầu tìm kiếm thể chế mới sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu hoặc các quốc gia theo mô hình XHCN ở Châu Á, trong đó có Việt Nam. Theo chiến lược phát triển toàn cầu này, góc nhìn và quan điểm về sự phát triển đã được định nghĩa lại, trước đây, chỉ số tăng trưởng là thước đo phát triển của một nước thì nay mọi chiến lược phát triển phải xoay quanh vì con người, lấy con người là trung tâm, nghĩa là mọi chiến lược phải vì mục đích phát triển và sự tiến bộ của con người. Nó giải thích vì sao trong quản trị công đương đại, các bộ nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được xây dựng dựa vào các trụ cột chính như: minh bạch; trách nhiệm giải trình và sự tham gia. Sự tham gia của người dân vào quản trị nhà nước nói chung và quy trình ngân sách nhà nước nói riêng như là một thực tế không thể phủ nhận. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và phi tập trung nhanh chóng, tốc độ dân trí được nâng cao hơn kéo theo nhu cầu kiểm soát và giám sát nhà nước của người dân tăng lên đáng kể, đến một mức độ nào đó nó tạo thành áp lực, buộc các nhà nước phải phân phối lại quyền lực (Arnstein Sherry, 1969). Dựa trên nền tảng các bên liên quan trong quản trị công (Chris Ansell và Alison Gash, 2007), sự tham gia của người dân được coi là một thành phần trong mạng lưới quản trị, đối với những vấn đề công đặc biệt là quyết định tới nguồn lực công, thì không một chủ thể nào có đủ thẩm quyền tự quyết định mà cần sự hợp tác và chia sẻ quyền lực để đi tới một quyết định cuối cùng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho tất cả các bên liên quan. Bên cạnh đó, về lý thuyết, cơ chế đại diện cho phép quyền lực đặt vào tay người trúng cử và họ là người ra quyết định cuối cùng nhưng sự tham gia của mạng lưới quản trị như các tổ chức xã hội dân sự, nhóm cộng đồng dân cư, nhóm chuyên gia…bổ sung kiến thức và năng lực thực hiện trong quá trình thiết kế và thực thi chính sách công. Quá trình này, về mặt lý thuyết, nâng cao tính tham gia công dân vào chính sách công và tăng cường tính đa dạng của hệ thống. Vì vậy, sự tham gia được nhìn nhận như là một quyền con người được lồng vào quá trình phát triển nhưng dưới góc độ quản trị nhà nước nó trở thành một công cụ quản trị nhà nước hiệu quả. Bên cạnh đó, bầu cử và cơ chế đại diện là một công cụ nhưng không phải lúc nào cũng đủ lực để giữ các chính trị gia chịu trách nhiệm cho các hành động cụ thể (UNDP, 2008); (Alberto Di’Az- Cayeros và Công sự, 2013), vì vậy lá phiếu và bầu cử được cho là một trong những thành tựu ưu việt so với chế độ chuyên quyền, tuy nhiên, những cam kết chính trị, những lời hứa về các chiến lược mà các chính trị gia dùng để đánh bóng và thu hút lá phiếu khi thực thi có thể bị mâu thuẫn với những lợi ích khác, nó là một áp lực không phổ biến - chỉ những người được bầu cử hoặc bổ nhiệm mới có thể trải nghiệm. Đây là một trong những khiếm khuyết của cơ chế tham gia đại diện – khả năng suy yếu về trách nhiệm chính trị của quan chức chính phủ trước cử  tri. Sự tham gia trực tiếp có thể lấp được khoảng trống này bằng các hình thức như tham gia trực tiếp vào quá trình ra quyết định, thúc đẩy minh bạch thông tin tạo ra các cơ chế gây áp lực tăng cường trách nhiệm giải trình và nhắc nhở người đứng đầu theo đuổi và hoàn thành các cam kết khi tranh cử. Sự tham gia của người dân trong lĩnh vực ngân sách dưới góc độ quản trị nhà nước thúc đẩy minh bạch và trách nhiệm giải trình. Sự tham gia trực tiếp hoặc từ nhóm cộng đồng hoặc từ các tổ chức nghề nghiệp hoặc dân sự cho phép người dân kết nối trực tiếp với chính phủ hoặc chính quyền địa phương, bởi vì người dân không thể thảo luận với nhà nước về những gì họ không biết, kết hợp với trình độ dân trí (Sounman Hong Yonsei, 2015), công nghệ thông tin…sự tham gia trở thành áp lực khiến các thông tin về ngân sách được công khai và minh bạch, quá trình này tiếp diễn quay trở lại thu hút sự tham gia đông đảo và hiệu quả hơn (Teresa M. Harrison và Djoko Sigit Sayogo, 2014). Cùng với quan điểm này, theo Joseph E. Stiglitz (2002), dưới sức ép của toàn cầu hóa và nền kinh tế tri thức được hình thành và đang phát triển mạnh mẽ, sự phát triển ở các quốc gia hiện nay là sự chuyển đổi từ mô thức phát triển truyền thống sang mô thức phát triển hiện đại. Không thể áp dụng lý thuyết về nền kinh tế kép tức là có thể nâng cao năng suất và thậm chí thay đổi tư duy trong phạm vi nền kinh tế mà không cần đạt được sự chuyển đổi phát triển thực sự của toàn xã hội. Vì dưới góc độ này nó mâu thuẫn với xu hướng toàn cầu hóa. Bên cạnh đó, khoa học công nghệ phát triển hiện đại, hình thành nên một thế hệ công dân có tri thức cao tham gia vào quá trình hình thành và điều chỉnh các ý tưởng và chính sách. Đây chính là sự tham gia và dân chủ, điều này đồng nghĩa với kết quả là sự minh bạch và trách nhiệm giải trình cao hơn trong cả khu vực doanh nghiệp và chính phủ. Các quy trình thảo luận lập ngân sách có sự tham gia tạo ra sự đổi mới chính trị (Brian Wampler, 2012), vì các cuộc họp công khai thu hút đông đảo các tầng lớp dân cư tham gia, giới thiệu tiếng nói của họ, kể cả những đối tượng bị loại trừ vào các quy trình chính trị, các quy trình thảo luận mới này cung cấp các cơ chế cho phép họ có cơ hội tiếp cận quyền lực chính trị. Sự tham gia sử dụng một hình thức thảo luận cởi mở với các ý tưởng mới và cuối cùng các ý kiến được lắng nghe thực sự bằng các đề xuất và quyết định chính sách. Sự tham gia càng tích cực của công dân càng mở rộng khả năng đổi mới chính trị vì khi tham gia, tiếng nói và quan điểm được dân chúng tranh luận với nhau và với nhà nước về các ưu tiên công. Thay vì chỉ dừng lại ở hình thức tham vấn và công việc còn lại trao trọn cho đại diện của cử tri như trong truyền thống. Sự tham gia của người dân đặc biệt là vào quy trình ngân sách nhà nước cung cấp đầu vào cho quá trình ra quyết định, với các hình thức tham gia, người dân trực tiếp tham gia từ giai đoạn đầu tiên của quy trình, bên cạnh các thành phần phần ưu tú, tầng lớp trung lưu thì còn cả các đối tượng bị loại trừ như người nghèo, tầng lớp yếu thế, dễ bị tổn thương…cũng bình đẳng tham gia với lá phiếu có giá trị như nhau. Quá trình giao tiếp, cung cấp cho nhà nước tài liệu về những nhu cầu thiết yếu, những thứ tự ưu tiên và các mong đợi…cho phép nhà nước hiểu rõ hơn những nhu cầu thực sự thì những nhu cầu này sẽ được hiện thực hóa bằng các quyết định ngân sách. Vòng tròn giao tiếp này mang lại tính hiệu quả cho ngân sách nhà nước dưới góc độ quyền và trách nhiệm của nhà nước với người dân của họ - những người đóng thuế và hơn thế nữa nó còn củng cố niềm tin của người dân với chính quyền của họ (Alta Fölscher, 2007); (Patrick Heller; K.N Harilal và Shubham Chaudshuri, 2007); (Benjamin A. Olken, 2010). Những nghiên cứu thực địa về sự tham gia vào quy trình ngân sách tại Brazil; Philippin; Bolivia…(UNDP, 2008) cho chính phủ hoặc chính quyền địa phương thấy rõ các nhu cầu thực sự, theo đó, người nghèo có xu hướng chọn các dự án phù hợp theo nhu cầu cấp thiết, cụ thể: thay vì chọn dự án mạng lưới di động – nhu cầu của người có thu nhập mới sử dụng được thì đường giao thông, nước sạch hay nhà vệ sinh công cộng là những dự án được chọn. Mọi lĩnh vực hành chính công đều tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng (S.Chiavago- Campo và P.S.A.Sundaram, 2003), vì thế sự tham gia của người dân vào các giai đoạn của quy trình ngân sách nhà nước là nhân tố phòng ngừa tham nhũng, như đã trình bày ở trên, các trụ cột trong quản trị hành chính gồm công khai, minh bạch; thông tin có thể dự đoán được; trách nhiệm giải trình và sự tham gia có mối liên hệ nội tại và thường diễn ra trong một chu trình tuần tự, một ví dụ về dự án cải tạo trường học sử dụng ngân sách nhà nước sẽ làm rõ nội dung  này. Theo đó, thông tin sẵn có, minh bạch và có thể dự đoán được như là một khoảng mở (Lối thoát) thu hút và thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng các doanh nghiệp, quy trình được diễn ra theo thứ tự và công bằng, nó cũng đồng nghĩa là loại bỏ được việc phải “bôi trơn”; “hoa hồng”; “lại quả” của doanh nghiệp đối với chủ thể có thẩm quyền ra quyết định. Đây cũng có thể là những lý do quan trọng nhất mà quyền và nghĩa vụ của công chức phải tách khỏi dòng chảy với các chủ thể khác của các thể chế về các hoạt động kinh doanh, trong thực tế, các doanh khi bị đưa ánh sáng có bóng dáng thân hữu, không đủ điều kiện…nhưng lại trúng thầu thì người ta luôn phải đặt ra những câu hỏi về sự công bằng. Vì thế, tham gia dù trực tiếp hay gián tiếp đều thúc đẩy công bằng và loại trừ tham nhũng. Lập ngân sách có sự tham gia có thể làm giảm tham nhũng bằng cách tăng số lượng công dân giám sát việc phân phối các nguồn lực, (Brian Wampler, 2007) hoặc có khả năng kiềm chế tham nhũng (Alberto Di’Az- Cayeros, Beatriz Magaloni, Alexander Ruiz- Euler, 2013). Liên hệ thực tiễn tại TP.HCM, ngày 03/03/2021, Viện kiểm sát nhân dân TP.HCM đã quyết định khởi tố bị can là công chức Sở Tài chính TP.HCM do vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí. Theo đó, việc cải tạo 7 trường học trên địa  bàn huyện Củ Chi trong thời gian 2016- 2017 dưới sự chủ trì của người này đã không tuân thủ các quy định về đấu thầu, duyệt thầu, nghiệm thu…toàn bộ quá trình cải tạo được thực hiện khi doanh nghiệp móc nối với người ra quyết định, quá trình thực hiện dự án được thực hiện trong một vòng tròn khép kín, ngay cả các chủ thể sử dụng trực tiếp là các trường mà đại diện là các hiệu trưởng cũng không được tham gia, hậu quả gây thiệt hại theo kết luận điều tra lên đến hàng chục tỷ đồng ngân sách nhà nước.  Theo Lương Thị Thu HươngLink: Tại đây 
avatar
Lã Thị Ái Vi
254 ngày trước
Bài viết
Một số đặc trưng căn bản về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước
2.2. Một số đặc trưng căn bản về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước Thứ nhất, sự tham gia của người dân nói chung, trong quy trình ngân sách nói riêng là một quyền cơ bản của con ngườiTham gia bằng các hình thức khác nhau vào khu vực công để gây ảnh hưởng hoặc tác động tới các quyết định của chính quyền được thừa nhận là một quyền cơ bản của con người, được pháp luật quốc tế thừa nhận. Tại Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, Liên Hiệp Quốc (LHQ) ghi nhận trong Điều 25 tại điểm a như sau: “Mọi người dân đều có quyền và cơ hội để tham gia vào các vấn đề công cộng, trực tiếp hoặc thông qua các đại diện được lựa chọn tự do”. Không dừng lại ở đó, năm 1986, LHQ trong Tuyên bố về Quyền phát triển quy định tại Điều 1, sự tham gia của người dân một lần nữa được ghi nhận như sau: Tạm dịch: Quyền phát triển là quyền con người không thể thay đổi bởi vì mọi người và mọi dân tộc đều có quyền tham gia đóng góp và tận hưởng sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và chính trị, trong đó tất cả các quyền con người và quyền tự do cơ bản đều có thể được thực hiện đầy đủ”. Như vậy, tự do tham gia vào khu vực công là một quyền căn bản bên cạnh các quyền khác như bầu cử; ứng cử; tự do ngôn luận... Điều này có nghĩa là, nhà nước dù dưới hình thức ở bất kỳ thời đại lịch sử nào, cũng không phải là nơi tạo ra các quyền đó, nhà nước chỉ đóng góp dưới vai trò tạo ra thể chế để ghi nhận và bảo vệ những quyền căn bản của công dân, nói một cách khác, tự do tham gia vào khu vực công ví dụ như tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước để quyết định tới các chính sách liên quan tới nguồn lực công là quyền công dân chứ hoàn toàn không phải là đặc ân của nhà nước dành cho người dân. Thứ hai, sự tham gia của người dân nói chung, vào quy trình ngân sách nói riêng là nền tảng của chế độ dân chủ Nếu như sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách là một quyền căn bản của con người đã được pháp luật quốc tế thừa nhận rộng rãi, thì quan niệm về dân chủ chưa đạt được sự đồng thuận mạnh mẽ, trừ một nhận thức rằng, dân chủ và tự do không phải là một, hai khái niệm này không thể thay thế cho nhau (Economist Intelligence Unit, 2020). Bên cạnh đó, sự thừa nhận dân chủ là hình thức tổ chức chính trị của xã hội dựa trên sự công nhận nhân dân như là nguồn gốc của quyền lực, dựa trên quyền của nhân dân trong việc tham gia giải quyết những vấn đề của quốc gia và trao cho công dân một loạt các quyền và quyền tự do thực sự (N.M. Voskresenskaia và N.B. Davletshina, 1995). Như vậy, liên quan đến ngân sách nhà nước, ngoài việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực về mặt lý thuyết, nhưng trong thực tế, ngân sách được hình thành và duy trì cũng bắt nguồn từ sự đóng góp của người dân tạo nên mối quan hệ pháp lý ràng buộc trách nhiệm giữa nhà nước và người dân, tức là, sự tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước không phải chỉ xuất phát từ quyền tự do tham gia vào đời sống chính trị của nhà nước, tham gia quản lý nhà nước mà còn xuất phát từ mối quan hệ vật chất, người dân tham gia vào các hoạt động của ngân sách bởi họ chính là chủ sở hữu thực sự của ngân sách nhà nước. Do đó, sự tham gia nói chung và sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nói riêng không phải là những đặc ân về quyền mà nhà nước trao cho người dân, mà ngược lại, nhà nước phải có trách nhiệm ghi nhận và tôn trọng quyền này của người dân. Như vậy, sự tham gia là nền tảng của chế độ dân chủ và dân chủ cũng có nghĩa là dựa vào các quyền con người để bảo vệ tự do của con người. Như đã trình bày ở trên, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước là nền tảng của chế độ dân chủ, tuy nhiên, mối liên hệ giữa dân chủ và sự tham gia của người dân không chỉ dừng lại ở đó, sự ảnh hưởng, tác động và thúc đẩy giữa dân chủ và sự tham gia còn được nhận thấy từ phía dân chủ, vì dân chủ có giá trị kiến tạo tới sự tham gia của người dân, đặc biệt là trong quy trình ngân sách nhà nước. Sự tham gia vào các vấn đề tài khóa có thể đạt được dưới những hình thức khác nhau (Teresa M. Harrison, Djoko Sigit Sayogo, 2014) . Có thể bằng các cơ quan khác ngoài chính phủ như hệ thống cơ quan quyền lực (theo cách gọi của Việt Nam, gồm Quốc Hội và HĐND) hoặc thông qua cơ quan chuyên môn độc lập với chính phủ như là Kiểm toán nhà nước, hoặc thông qua các tổ chức chính trị xã hội như Mặt trận Tổ quốc hoặc mạnh mẽ và trực diện hơn đó là sự tham gia trực tiếp. Người ta thường lấy ví dụ về người dân Hy Lạp cổ đại khi quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia để minh chứng rằng dân chủ có hai cơ chế căn bản: đại diện và trực tiếp. Đều bắt nguồn từ lý tưởng và xây dựng các hình thức chính trị dựa trên nguồn gốc quyền lực của nhân dân, mọi chính sách của nhà nước cho đến cùng đều vì quyền và lợi ích của người dân, nhưng với lập luận rằng, tất cả không thể cùng điều khiển một chiếc xe nên người ta lựa chọn người lãnh đạo bằng lá phiếu bình đẳng, những người được bầu hoạt động dựa trên niềm tin và sự đồng thuận mạnh mẽ của xã hội rằng họ đang làm những điều đó là vì và cho số đông trong xã hội, đây là cơ chế hoạt động của hình thức dân chủ đại diện. Ngược lại, khi người dân tự mình hoặc trở thành thành viên của một tổ chức xã hội nào đó để đưa ra ý kiến, trực tiếp tham gia vào quy trình công cộng, giám sát hoặc đánh giá…có nghĩa là họ đang sử dụng cơ chế dân chủ trực tiếp. Sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước là một ví dụ rõ nhất cho việc áp dụng cơ chế dân chủ trực tiếp. Như vậy, sự tham gia là nền móng của chế độ dân chủ, đặc biệt là dân chủ trực tiếp, nhưng đồng thời, chính dân chủ cũng là nơi kiến tạo ra những hình thức tham gia, hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp cho người dân. Thứ ba, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước được sử dụng như một công cụ trong quản trị nhà nước Sử dụng sự tham gia của người dân và thiết kế nó thành một nguyên tắc trong quản trị là phát kiến của các tổ chức quốc tế như UNDP; OECD; WB…theo đó, vào những năm 1990, Bộ nguyên tắc quản trị tốt được thiết kế trong đó các trụ cột chính gồm: minh bạch, công khai, trách nhiệm giải trình và sự tham gia. Với quan điểm cho rằng, quản trị nhà nước tốt là cánh cổng mở ra con đường phát triển bền vững ở các quốc gia chuyển đổi hoặc đang phát triển, nên nội dung của Bộ nguyên tắc quản trị tốt trở thành “hy vọng hiện hữu” là giải pháp định hướng con đường tài trợ phát triển trên thế giới, dưới áp lực đổi mới, hội nhập và những gói tài trợ khổng lồ, quản trị tốt trong đó có trụ cột là sự tham gia được phân phối và cấy ghép trên toàn cầu, tạo thành một làn sóng quản trị mới cũng như cách thức phát triển mới ở rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam (Đào Trí Úc và Lê Minh Thông, 1999); (Phạm Duy Nghĩa, 2002). Sự tham gia của người dân có thể thúc đẩy trách nhiệm giải trình, tính minh bạch và hơn thế nữa phân phối hiệu quả các nguồn lực (Wampler, 2000, trang 1) Các chương trình này được thiết kế để kết hợp công dân vào việc hoạch định chính sách xử lý, thúc đẩy cải cách hành chính và phân phối các nguồn lực công tới mức thấp vùng lân cận thu nhập. Sự loại trừ xã hội và chính trị bị thách thức, vì các tác nhân chính trị bị loại trừ theo truyền thống được tạo cơ hội để đưa ra các quyết định chính sách, đồng thời thúc đẩy học tập của cộng đồng và quyền công dân tích cực, đạt được công bằng xã hội thông qua cải thiện chính sách và phân bổ nguồn lực, và cải cách bộ máy hành chính.Thứ tư, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước là sự tham gia quan trọng nhất Vì không có quyết định nào quan trọng bằng các quyết định liên quan đến kinh tế (Stigliz, 2000), cùng với nhận thức rằng một chính sách ảnh hưởng tới tất cả mọi người thì cần được thảo luận chung và đạt được sự đồng thuận mạnh mẽ có sức hút đối với hầu hết các chủ thể trong xã hội, các học giả Franklin, Alfred T. Ho và Carol Ebdon (2009) từ lâu đã ủng hộ vai trò quan trọng của công dân trong quá trình ngân sách vì lập ngân sách có sự tham gia là hình thức mạnh nhất để đưa công dân vào các quyết định cụ thể về phân bổ ngân sách (Paolo de Renzio và Joachim Wehner, 2017), cụ thể:   Thứ nhất, tài liệu về ngân sách là tài liệu chính sách quan trọng nhất của chính phủ (OECD, 2002), mục tiêu phát triển quốc gia, các phướng hướng và kế hoạch hành động luôn đi kèm với số liệu ngân sách phục vụ thực hiện nhiệm vụ, vì thế sự tham gia, với các cơ chế của mình có thể tác động và gây ảnh hưởng tới các chính sách quan trọng đó. Thứ hai, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước là một hoạt động có ý nghĩa, thông qua các phác thảo sử dụng ngân sách sẽ thể hiện được trách nhiệm và mối quan hệ của chính phủ với người dân của mình. Quá trình này cũng thể hiện rất rõ các ưu tiên của chính phủ khi quyết định lựa chọn đối tượng khai thác nguồn lực và đối tượng được cung cấp dịch vụ công. Tức thông qua các quyết định về dòng chảy ngân sách cho thấy rõ lựa chọn và đánh đổi lợi ích của các lực lượng trong xã hội của chính phủ. Thứ ba, sự tham gia thúc đẩy cân bằng quyền lực chính trị, trong trường hợp vì nhiều nguyên nhân, các đại biểu dân cử cần hỗ trợ về kiến thức và kỹ thuật kế toán liên quan đến ngân sách, thứ mà luôn được thiết kế để “chỉ các chuyên gia mới nhận ra nhau”. Bởi vì hiểu rõ dự thảo ngân sách quốc gia là một việc quan trọng nhất của các đại biểu dân cử, nếu không đảm bảo được điều này, quyết định bấm nút thông qua dự toán trở thành một hành động vô nghĩa và thiếu trách nhiệm, đối với cả cử tri của mình nhưng nghiêm trọng hơn, quyền quyết định ngân sách thực thụ đã bị bỏ rơi và quyền lực nhà nước, vốn được cân bằng bằng dòng chảy của quy trình ngân sách đã hoàn toàn phụ thuộc bởi các cơ quan hành pháp. Theo Lương Thị Thu HươngLink: Tại đây 
avatar
Lã Thị Ái Vi
254 ngày trước
Bài viết
Lý thuyết nghiên cứu về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước
Lý thuyết nghiên cứu về sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước1.2.3.1. Lý thuyết cấy ghép pháp luật. Lý thuyết này đi từ thuật ngữ “legal transplant” và được hiểu là sự tiếp nhận pháp luật nước ngoài của một quốc gia một cách chủ động hoặc thụ động trong quá trình xây dựng pháp luật. Việc dịch chuyển hay khuếch tán pháp luật được phát triển và chịu sự ảnh hưởng của các nhà nghiên cứu pháp lý phương tây như Alan Watson với các tác phẩm như Legal Transplants: An Approach to Comparative Law xuất bản năm 1974; Society and Legal Change 1977 và Legal Transplants and Legal Reform xuất bản năm 1991; và nhà nghiên cứu Otto Kahn-Freund với tác phẩm On use and misuse of comparative Law và The modern law review xuất bản năm 1974. Theo đó, các tác giả cho rằng, pháp luật của một quốc gia có thể dễ dàng được tiếp nhận bởi một quốc gia khác mặc dù không có nhiều sự tương đồng. Tuy nhiên, việc tiếp nhận pháp lý này là một hoạt động mang tính thận trọng và cần cân nhắc bởi các nền tảng truyền thống văn hóa, lịch sử, kinh tế khi cấy ghép pháp luật. Tại Việt Nam, lý thuyết về cấy ghép pháp luật được sử dụng bằng thuật ngữ “tiếp nhận pháp luật nước ngoài” (Đào Trí Úc và Lê Minh Thông, 1999); (Phạm Duy Nghĩa, 2002). Theo đó, các học giả đồng thuận rằng, Việt Nam là một quốc gia chuyển đổi và hệ thống pháp luật được xây dựng trên nhiều lớp luật (Bùi Ngọc Sơn), việc tiếp nhận pháp luật lúc mang tính cưỡng chế như ở thời kỳ nhà nước phong kiến và thực dân đô hộ nhưng cũng có những thời điểm, việc tiếp nhận pháp luật mang tính chủ động như Việt Nam sau thời kỳ Đổi Mới, bắt đầu từ 1986 cho đến nay. Ban đầu là để khuyến khích khu vực tư nhân phát triển và để thúc đẩy mục tiêu này đạt đích, hàng loạt các quy định pháp luật ghi nhận quyền sở hữu tư nhân, tự do kinh doanh, bình đẳng của các thành phần kinh tế tư nhân …của nước ngoài đã được Việt Nam tiếp nhận. Bên cạnh những thành tựu này, một kết quả gián tiếp cũng được thấy xuất hiện ở Việt Nam, đó là sự chuyển đổi khá nhanh ở khu vực công. Từ những quy định pháp luật nước ngoài được tiếp nhận phục vụ phát triển kinh tế tư nhân, dần dà, đã tác động và chuyển đổi thể chế pháp lý khu vực công, theo đó, việc tiếp nhận các tư tưởng về nhà nước trong mối quan hệ với người dân được nhìn nhận và đánh giá lại, Việt Nam đã tiếp nhận cấu trúc pháp lý nhà nước pháp quyền trên nền tảng thể chế xã hội chủ nghĩa thể hiện bắt đầu trong Hiến pháp (2001), động thái này bắt đầu cho việc tiếp nhận các quy định pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và người dân ngày càng rộng hơn về phạm vi và nội hàm. Đó là, trách nhiệm giải trình, công khai và minh bạch là nghĩa vụ của nhà nước và trở thành các nguyên tắc trong xây dựng và hoạt động của bộ máy nhà nước. Người dân với các quyền con người và quyền công dân lần đầu được ghi nhận riêng biệt, đặc biệt là Hiến pháp 2013 được coi là bản Hiến pháp với các quyền con người và quyền công dân được quy định ở phạm vi rộng nhất trong lịch sử lập hiến của Việt Nam. Từ Hiến pháp, các quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của người dân Việt Nam bắt đầu được thể chế vào các ngành luật độc lập, ngay cả với Luật ngân sách nhà nước, khu vực vốn được coi là không gian riêng của nhà nước, năm 2015, Luật Ngân sách Nhà nước cũng đã bắt đầu mở lối, mặc dù còn là khung cửa hẹp nhưng việc cho rằng ngân sách nhà nước được giám sát bởi cộng đồng (Điều 16 Luật Ngân sách 2015) cũng đã cho thấy sự chuyển biến và tiếp nhận pháp luật nước ngoài thực sự đã hiện diện ở Việt Nam. 1.2.3.2. Lý thuyết về sở hữu và điều hành. Lý thuyết về sở hữu và điều được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực tài chính công truyền thống và hiện đại. Theo đó, giữa nhà nước và người dân có mối quan hệ đặc biệt, trong đó, nhà nước tồn tại và vận hành dựa trên nguồn lực được đóng góp và nuôi dưỡng thông qua các khoản thuế, phí và lệ phí..của người dân. Vì thế, người dân chính là chủ sở hữu thực thụ của ngân sách nhà nước và các nguồn lực công khác. Tuy nhiên, do đặc trưng xuất phát từ vai trò và chức năng của nhà nước, mà người dân sẽ không trực tiếp quản lý và sử dụng nguồn lực công, quá trình này được ủy quyền cho nhà nước. Chủ sở hữu thực sự nhưng không sử dụng, quản lý và vận hành tài sản của mình, đây chính là đặc trưng và cũng là cách thức vận hành phổ biến nhất trên thế giới đối với nguồn ngân sách của các nhà nước. Để đảm bảo rằng tài sản công được sử dụng hiệu quả, các cơ chế quản lý được thiết kế nhưng hiệu quả nhất vẫn là các quy định pháp luật. Ở đó, nhà nước sử dụng và quản lý ngân sách, người dân, với tư cách là chủ sở hữu có quyền giám sát, theo dõi và tham gia nhằm đảm bảo rằng nguồn lực được sử dụng đúng đắn. Lý thuyết về sở hữu điều hành là cơ sở để khẳng định rằng, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước không chỉ là quyền con người cơ bản, nó còn xuất phát từ mối quan hệ chủ sở hữu với người điều hành, vì thế, sự tham gia của người dân vào quy trình ngân sách không còn là vấn đề cần tranh biện, thậm chí, khi các cơ chế đại diện không phản ánh đúng nguyện vọng và nhu cầu thực sự của cử tri, người dân có quyền tự mình tham gia trực tiếp vào quy trình ngân sách nhà nước, đặc biệt là với các hoạt động phân bổ ngân sách cho các mục đích cung cấp dịch vụ để gây ảnh hưởng và ra quyết định phân bổ nguồn lực công này cho phù hợp với những nhu cầu thiết thực mà người dân/chủ sở hữu thực thụ đang thực sự cần thiết. 1.2.3.3. Lý thuyết thông tin bất cân xứng. Lý thuyết này được Akerlof (1970) giới thiệu, theo đó, thông tin bất cân xứng là tình trạng trong một giao dịch, một bên có thông tin đầy đủ và tốt hơn so với (các) bên còn lại. Bất cân xứng thông tin là tình trạng phổ biến trong xã hội và có thể diễn ra trong mối quan hệ giữa nhà nước với người dân. Theo đó, nhà nước được người dân ủy quyền quản lý, ví dụ như quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước. Mối quan hệ giữa chủ sở hữu ngân sách nhà nước (người dân) với người thừa hành (nhà nước) mang tính đặc biệt như đã trình bày ở trên nên nhà nước có nhiều lợi thế về thông tin hơn có thể dẫn đến hậu quả là người được ủy quyền (nhà nước) vượt quá thẩm quyền hoặc vi phạm các các cam kết (quy định pháp luật ngân sách nhà nước). Vì vây, để hạn chế và loại trừ các rủi do này lựa chọn ủng hộ và ghi nhận quyền tham gia của người dân vào quy trình ngân sách nhà nước vì người dân là chủ sở hữu nên tham gia vào quy trình ngân sách nhà nước là quyền của người dân, hơn nữa, kiểm soát tham nhũng, tăng cường ủng hộ nhà nước, phân bổ công bằng dịch vụ công đã được kiểm chứng bằng các nghiên cứu lý và các nghiên cứu thực địa trên thế giới.  Theo Lương Thị Thu HươngLink: Tại đây 
Bài viết được xem nhiều nhất
Bài viết
(mới)Những mẫu bản kiểm điểm đảng viên dành cho cán bộ, giáo viên, sinh viên,.. luôn được bạn đọc chú ý. Đây là thời điểm để mọi người nhìn nhận lại những gì mình đã và chưa làm được. Qua đó cho mình thêm động lực để phấn đấu hơn nữa. Hãy cùng nhau theo dõi ngay trong bài viết mẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân của Legalzone - hệ thống thủ tục pháp luậtMẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân Bản kiểm điểm Đảng viên sẽ gồm có các phần chính sau:Ưu điểm, kết quả đạt được về tư tưởng chính trị;Phẩm chất đạo đức, lối sống;Y thức tổ chức kỷ luật;Tác phong, lề lối làm việc;Về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao;Về việc thực hiện cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hằng năm.Cụ thể: Hạn chế, khuyết điểm đảng viên về tư tưởng chính trị; phẩm chất đạo đức, lối sống; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong, lề lối làm việc; về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.Hạn chế khuyết điểm đảng viên về việc thực hiện cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hằng năm và nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm.Kết quả khắc phục những ưu khuyết điểm của đảng viên đã được cấp có thẩm quyền kết luận hoặc được chỉ ra ở các kỳ kiểm điểm trước.Tại phần này cần kiểm điểm rõ:Từng ưu khuyết điểm đảng viên (đã được khắc phục; đang khắc phục, mức độ khắc phục; chưa được khắc phục)Những khó khăn, vướng mắc (nếu có)Trách nhiệm của cá nhân.Giải trình, nhận xét ưu khuyết điểm của đảng viên những vấn đề được gợi ý kiểm điểm (nếu có).Giải trình từng vấn đề được gợi ý kiểm điểm, nêu nguyên nhân.Xác định trách nhiệm của cá nhân đối với từng vấn đề được gợi ý kiểm điểm.Làm rõ trách nhiệm của cá nhân đối với những ưu điểm khuyết điểm của đảng viên (nếu có).Phương hướng, biện pháp khắc phục những ưu khuyết điểm của đảng viên. Tự nhận mức xếp loại chất lượng.Legalzone cung cấp cho bạn đọc 02 mẫu bản tự kiểm kiểm cá nhân tham khảo sau đây:Mẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhânBẢN KIỂM ĐIỂM CÁ NHÂNHọ và tên: ………………… Sinh ngày: …………………………………Ngày vào Đảng: ……………… Chính thức ngày ………………………… Chức vụ Đảng: …………………………………………………………..Chức vụ chính quyền(đoàn thể): ………………………………………….Đơn vị công tác: ………………………………………………………Hiện đang sinh hoạt tại chi bộ: ………………………………………..I. Ưu điểm, kết quả công tác 1. Về tư tưởng chính trị– Là một Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi luôn kiên định đối với đường lối của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.– Chấp hành nghiêm túc quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực để bảo vệ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.– Luôn có ý thức tuyên truyền, vận động người thân, gia đình và quần chúng nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.– Xác định ý thức tích cực, tự giác tự học, tự nâng cao kiến thức về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác qua các lớp tập huấn, các lớp bồi dưỡng, nghiên cứu tài liệu, tham khảo đồng nghiệp…– Bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch nghiên cứu, học tập, phấn đấu, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng thực hiện cuộc vận động“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo” của bản thân.Trong quá trình công tác, bản thân luôn nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.2. Về phẩm chất đạo đức, lối sống.– Bản thân tôi luôn có ý thức thực hành tiết kiệm, đấu tranh phòng, chống lãng phí, tham nhũng, quan liêu.- Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác trong ngành. Luôn có ý thức giữ gìn tư cách, đạo đức tính tiên phong của người đảng viên trong tác chuyên môn.- Không vi phạm tiêu chuẩn đảng viên và những điều Đảng viên không được làm theo quy định số 19-QĐ/TW ngày 03/01/2002 của Bộ Chính trị.– Bản thân tôi luôn thực hiện tự phê bình và phê bình trung thực và thẳng thắn, giữ gìn đoàn kết trong Đảng trên cơ sở cương lĩnh và điều lệ Đảng, phát huy quyền làm chủ và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động chỉ đạo chuyên môn và luôn luôn xây dựng tốt khối đoàn kết nội bộ.-  Trong cuộc sống thường ngày sinh hoạt với địa phương, tôi đã thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, được nhân dân nơi cư trú tin tưởng, tham gia tích cực mọi hoạt động ở nới cư trú.3. Về thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao:– Bản thân luôn thực hiện đúng qui chế chuyên môn, đảm bảo tính khoa học.– Làm việc có trách nhiệm cao, cố gắng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. – Luôn có tinh thần tìm tòi, học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.– Luôn phối kết hợp tốt với các đồng nghiệp, với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. -Trong công tác xây dựng Đảng, đoàn thể tôi luôn có ý thức tuyên truyền, tham gia xây dựng chi bộ, các đoàn thể trong cơ quan trong sạch, vững mạnh.4. Về tổ chức kỷ luật:– Bản thân tôi luôn thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, có ý thức tổ chức kỉ luật cao, chấp hành sự phân công điều động, luân chuyển của tổ chức.- Bản thân luôn vận động gia đình chấp hành nghiêm túc chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các luật và nghị định của Nhà nước về phòng chống ma tuý, chống tiêu cực ……– Bản thân tôi luôn thực hiện tốt chế độ sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí theo quy định.- Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chi bộ, quán triệt sâu sắc các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Nhà nước và ngành đề ra.– Tham gia đầy đủ các buổi hội họp, học nghị quyết do chi bộ và Đảng bộ tổ chức; đóng Đảng phí đầy đủ, kịp thời.– Thực hiện tốt quy chế, nội quy của tổ chức Đảng cũng như của cơ quan đơn vị, có tinh thần gương mẫu chấp hành và lãnh đạo thực hiện tốt quy chế, quy định, nội quy của cơ quan, đơn vị và nơi cư trú- Ý thức lắng nghe, tiếp thu và tự sửa chữa khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình, thực hiện tốt chế độ sinh hoạt Đảng.– Thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, Đảng uỷ cơ sở; có tinh thần tham gia xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền.- Luôn có trách nhiệm cao với công việc được giao; thái độ phục vụ nhân dân tốt; có ý thức đấu tranh với những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, hách dịch, gây phiền hà nhân dân.II. Khuyết điểm, hạn chế và nguyên nhân– Chỉ đạo hoạt động chuyên môn của nhà trường và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn giảng dạy kết quả chưa cao– Đôi khi còn chưa linh hoạt, trong giải quyết công việc với đồng nghiệp, với học sinh– Tuy có ý thức trong công tác tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt nhưng vẫn còn chưa mạnh dạn.– Đôi lúc chưa chủ động trong tổ chức thực hiện một số hoạt động. Trong công việc đôi lúc còn chưa mạnh dạn, thẳng thắn góp ý cho đồng nghiệp– Chưa cương quyết trong xử lí vi phạm, làm việc còn mang tính cả nểIII. Phương hướng và biện pháp khắc phục, sửa chữa yếu kém– Tuyệt đối chấp hành các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.- Thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ trong Đảng và cơ quan.– Không ngừng tu dưỡng đạo đức, tự học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị,chuyên môn nghiệp vụ, mạnh dạn hơn nữa trong việc tham mưu đề xuất các giải pháp nhằm làm tốt hơn công tác quản lý, nhiệm vụ chính trị được giao.– Tiếp tục đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, luôn có ý thức tự phê bình và phê bình, tránh tư tưởng nể nang, nâng cao vai trò tiên phong của người đảng viên.Biện pháp khắc phục:– Trong thời gian tới sẽ phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm trên để bản thân được hoàn thiện hơn.– Tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng những hành động và việc làm cụ thể trong thực hiện công việc và nhiệm vụ được giaoXem thêm: Thủ tục thành lập trung tâm ngoại ngữ tại Hà NộiLink dowload các biểu mẫu miễn phíBẢN TỰ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁ NHÂNBẢN TỰ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁ NHÂN 2BẢN TỰ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁN BỘTải ngay mẫu Bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân tại phần ảnh tại bài viết hoặc tại phần bình luận của bài viết bạn nhé IV. Tự nhận mức xếp loại chất lượng Đảng viên, cán bộ, công chức:Mức 2: Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.Người viết bản kiểm điểmMẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân số 2ĐẢNG BỘ Xà.......CHI BỘ TRƯỜNG .........***ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ........, ngày...tháng...năm 2019BẢN KIỂM ĐIỂM CÁ NHÂNHọ và tên: ............. .............. Sinh ngày: ........... ................ ........... ............Ngày vào Đảng: ............... .............. Chính thức ngày .............. .............. Chức vụ Đảng: ........... ............ ............... .............. ................ ................. Chức vụ chính quyền(đoàn thể): .............. ................. .................. ............ Đơn vị công tác: ............ ............... ................ ................... ................. Hiện đang sinh hoạt tại chi bộ: .................... .................... .................... Ưu điểm, kết quả công tácVề tư tưởng chính trị- Là một Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi luôn kiên định đối với đường lối của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.- Chấp hành nghiêm túc quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực để bảo vệ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.- Luôn có ý thức tuyên truyền, vận động người thân, gia đình và quần chúng nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.- Xác định ý thức tích cực, tự giác tự học, tự nâng cao kiến thức về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác qua các lớp tập huấn, các lớp bồi dưỡng, nghiên cứu tài liệu, tham khảo đồng nghiệp...- Bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch nghiên cứu, học tập, phấn đấu, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", cuộc vận động "Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo" của bản thân. Trong quá trình công tác, bản thân luôn nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.Về phẩm chất đạo đức, lối sống.- Bản thân tôi luôn có ý thức thực hành tiết kiệm, đấu tranh phòng, chống lãng phí, tham nhũng, quan liêu.Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác trong ngành.Luôn có ý thức giữ gìn tư cách, đạo đức tính tiên phong của người đảng viên trong tác chuyên môn.Không vi phạm tiêu chuẩn đảng viên và những điều Đảng viên không được làm theo quy định số 19-QĐ/TW ngày 03/01/2002 của Bộ Chính trị.- Bản thân tôi luôn thực hiện tự phê bình và phê bình trung thực và thẳng thắn, giữ gìn đoàn kết trong Đảng trên cơ sở cương lĩnh và điều lệ Đảng, phát huy quyền làm chủ và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động chỉ đạo chuyên môn và luôn luôn xây dựng tốt khối đoàn kết nội bộ. Trong cuộc sống thường ngày sinh hoạt với địa phương, tôi đã thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, được nhân dân nơi cư trú tin tưởng, tham gia tích cực mọi hoạt động ở nới cư trú.Về thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao:- Bản thân luôn thực hiện đúng qui chế chuyên môn, đảm bảo tính khoa học.- Làm việc có trách nhiệm cao, cố gắng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao- Luôn có tinh thần tìm tòi, học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.- Luôn phối kết hợp tốt với các đồng nghiệp, với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao-Trong công tác xây dựng Đảng, đoàn thể tôi luôn có ý thức tuyên truyền, tham gia xây dựng chi bộ, các đoàn thể trong cơ quan trong sạch, vững mạnh.>>Tham khảo bài viết: Bộ luật Dân sự 2015: Điểm nổi bật và ý nghĩa trong bối cảnh pháp luật hiện đạiVề tổ chức kỷ luật:- Bản thân tôi luôn thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, có ý thức tổ chức kỉ luật cao, chấp hành sự phân công điều động, luân chuyển của tổ chức. Bản thân luôn vận động gia đình chấp hành nghiêm túc chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các luật và nghị định của Nhà nước về phòng chống ma tuý, chống tiêu cực ......- Tham gia đầy đủ các buổi hội họp, học nghị quyết do chi bộ và Đảng bộ tổ chức; đóng Đảng phí đầy đủ, kịp thời.- Thực hiện tốt quy chế, nội quy của tổ chức Đảng cũng như của cơ quan đơn vị, có tinh thần gương mẫu chấp hành và lãnh đạo thực hiện tốt quy chế, quy định, nội quy của cơ quan, đơn vị và nơi cư trú; ý thức lắng nghe, tiếp thu và tự sửa chữa khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình, thực hiện tốt chế độ sinh hoạt Đảng.- Luôn có thái độ cầu thị trong việc nhận và sửa chữa khắc phục khuyết điểm.- Thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, Đảng uỷ cơ sở; có tinh thần tham gia xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền.- Luôn có trách nhiệm cao với công việc được giao; thái độ phục vụ nhân dân tốt; có ý thức đấu tranh với những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, hách dịch, gây phiền hà nhân dân.Khuyết điểm, hạn chế và nguyên nhân- Chỉ đạo hoạt động chuyên môn của nhà trường và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn giảng dạy kết quả chưa cao. - Chưa dành thời gian thích hợp để nghiên cứu, tìm hiểu sâu về Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết, quy định của Đảng; pháp luật, chính sách của Nhà nước.- Trách nhiệm cá nhân trong việc phối kết hợp với các đoàn thể khác trong trường có lúc chưa đạt hiệu quả cao nhất.- Đôi lúc chưa chủ động trong tổ chức thực hiện một số hoạt động. Trong công việc đôi lúc còn chưa mạnh dạn, thẳng thắn góp ý cho đồng nghiệp- Chưa cương quyết trong xử lí vi phạm, làm việc còn nể nang tình cảm trong công tác phê bình và tự phê bình.III. Phương hướng và biện pháp khắc phục, sửa chữa yếu kém- Tuyệt đối chấp hành các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.- Thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ trong Đảng và cơ quan.- Không ngừng tu dưỡng đạo đức, tự học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ- Mạnh dạn hơn nữa trong việc tham mưu đề xuất các giải pháp nhằm làm tốt hơn công tác quản lý, nhiệm vụ chính trị được giao.- Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống- Luôn có ý thức tự phê bình và phê bình, nâng cao vai trò tiên phong của người đảng viên.Biện pháp khắc phục:- Trong thời gian tới sẽ phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm trên để bản thân được hoàn thiện hơn.- Tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng những hành động và việc làm cụ thể trong thực hiện công việc và nhiệm vụ được giao. Tự nhận mức xếp loại chất lượng Đảng viên, cán bộ, công chức:Mức 2: Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.     NGƯỜI TỰ KIỂM ĐIỂM(Ký, ghi họ tên) ĐÁNH GIÁ PHÂN LOẠI CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊNNhận xét, đánh giá của chi ủy:........... ............ ............. ................ .............. .................. ................ ...............Chi bộ phân loại chất lượng:........... ............ ............. ................ .............. .................. ................ ..........................., ngày...tháng...năm....T.M CHI ỦYBí thưĐảng ủy (chi ủy cơ sở) phân loại chất lượng:........... ............ ............. ................ .............. .................. ................ ................................., ngày...tháng...năm...     T.M ĐẢNG ỦYTrên đây là một số thông tin về mẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân bạn đọc tham khảo. Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và hỗ trợ. Hoặc bạn có thể tra cứu các thủ tục qua trang Thủ tục pháp luật của chúng tôi. 
Bài viết
[MỚI]Địa điểm kinh doanh phải bao gồm tên doanh nghiệpTừ 2021, tên địa điểm kinh doanh phải bao gồm cả tên doanh nghiệp. Đây là nội dung mới được Quốc hội đề cập đến tại Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14. Quy định mới về tên địa điểm kinh doanhCụ thể, Điều 40 Luật Doanh nghiệp 2020 nêu rõ:Tên chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh phải bao gồm tên doanh nghiệp kèm theo cụm từ “Chi nhánh” đối với chi nhánh, cụm từ “Văn phòng đại diện” đối với văn phòng đại diện, cụm từ “Địa điểm kinh doanh” đối với địa điểm kinh doanh.Hiện nay, Luật Doanh nghiệp năm 2014 không yêu cầu với địa điểm kinh doanh mà chỉ quy định tên chi nhánh, văn phòng đại diện phải mang tên doanh nghiệp kèm cụm từ “chi nhánh” với chi nhánh, cụm từ “văn phòng đại diện” với văn phòng đại diện.  Quy định mới về tên địa điểm kinh doanhNgoài ra, Điều 41 Luật 2020 cũng có quy định cụ thể với tên chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh gồm:– Phải được viết bằng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt, các chữ cái F, J, Z, W, chữ số và các ký hiệu;– Phải được viết hoặc gắn tại trụ sở chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh. Trong đó, tên chi nhánh, văn phòng đại diện được in hoặc viết với khổ chữ nhỏ hơn tên tiếng Việt của doanh nghiệp trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu… do chi nhánh, văn phòng đại diện phát hành.Hồ sơ thành lập địa điểm kinh doanh* Thành phần hồ sơTheo Quyết định 1523/QĐ-BKHĐT, hồ sơ thành lập địa điểm kinh doanh bao gồm:– Thông báo lập địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp theo mẫu tại Phụ lục II-11 Nghị định 122/2020/NĐ-CP.– Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động theo Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư hoặc các giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương chưa thực hiện bổ sung, cập nhật thông tin đăng ký doanh nghiệp để được cấp đăng ký doanh nghiệp thay thế nội dung đăng ký kinh doanh trong Giấp phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương thì ngoài các giấy tờ nêu trên, doanh nghiệp phải nộp kèm theo:+ Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đầu tư;+ Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đăng ký thuế;+ Giấy đề nghị bổ sung, cập nhật thông tin đăng ký hoạt động đối với địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động theo giấy chứng nhận đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.Lưu ý: Trường hợp không phải Chủ sở hữu hoặc Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trực tiếp đến nộp hồ sơ: người được ủy quyền phải nộp văn bản uỷ quyền kèm bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân:– Đối với công dân Việt Nam: Thẻ căn cước công dân hoặc Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu Việt Nam còn hiệu lực.– Đối với người nước ngoài: Hộ chiếu nước ngoài hoặc giấy tờ có giá trị thay thế còn hiệu lực.* Số lượng hồ sơ: 01 bộTrình tự thủ tục lập địa điểm kinh doanhBước 1: Nộp hồ sơCó 02 cách thức để nộp hồ sơ, cụ thể:Cách 1: Nộp hồ sơ trực tiếp tại bộ phận một cửa Phòng Đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đặt địa điểm kinh doanh hoặc chi nhánh.Cách 2: Đăng ký qua mạng tại Cổng thông tin Quốc gia về đăng ký doanh nghiệp bằng chữ ký số công cộng hoặc sử dụng tài khoản đăng ký kinh doanh . Đối với Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh phải đăng ký qua mạng.Bước 2: Tiếp nhận và giải quyết hồ sơBước 3: Nhận kết quả* Thời hạn giải quyết: 03 ngày làm việc* Lệ phí giải quyết:– 50.000 đồng/lần đối với hồ sơ nộp trực tiếp tại bộ phận một cửa Phòng Đăng ký kinh doanh.– Miễn lệ phí đối với hồ sơ đăng ký qua mạng điện tử.Trên đây là bài viết tham khảo về một số quy định mới về hộ kinh doanh từ năm 2021. Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và hỗ trợ.
Bài viết
Trong bối cảnh tài chính cá nhân ngày càng phổ biến, các tổ chức tín dụng chơi một vai trò quan trọng trong việc cung cấp tiền mặt và dịch vụ tài chính cho người dân. Trong số những tổ chức này, FE Credit là một cái tên được nhiều người biết đến, đặc biệt trong lĩnh vực đòi nợ. Họ thực hiện một loạt biện pháp để đảm bảo khách hàng tuân thủ thỏa thuận và trả nợ đúng hạn. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu cách FE Credit thực hiện quy trình đòi nợ và những điều quy định liên quan.1. Fe credit được hiểu là gì?Fe Credit bắt đầu hoạt động vào năm 2015 sau khi trước đó là một phần của VPBank, một trong những Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng. Tuy nhiên, từ năm 2015 trở đi, FE Credit đã hoạt động độc lập dưới tư cách là Công ty TNHH Tài chính FE Credit.Kể từ đó, FE Credit đã phục vụ hơn 10 triệu người dân thông qua mạng lưới gồm hơn 13,000 điểm bán hàng và hơn 17,500 nhân viên, cùng với hơn 9,000 đối tác. Chủ yếu, FE Credit chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính tiêu dùng như vay tiền mặt, thẻ tín dụng, vay mua xe máy và vay mua điện thoại di động.Chúng ta đã quen thuộc với FE Credit qua các chương trình mua sắm trả góp 0% tại các đại lý bán hàng điện máy và xe hơi trên toàn quốc. Đây là một phương thức nhanh chóng và tiện lợi để đáp ứng nhu cầu vay tiền của những người cần tài chính gấp.2. Fe credit đòi nợ hiện nay như thế nào?Để thu hồi khoản nợ từ những người vay tiền không tuân thủ hoặc cố ý không trả nợ, nhân viên đội ngũ đòi nợ của FE Credit thực hiện các phương thức sau:Nhắn tin đòi nợ: Đây là một trong những phương thức phổ biến để đòi nợ. Ban đầu, tin nhắn từ nhân viên đòi nợ sẽ mang tính nhẹ nhàng và lịch sự, nhưng nếu không nhận được phản hồi hoặc thanh toán, tin nhắn sẽ trở nên cứng rắn. Ban đầu, sẽ có nhắn tin qua điện thoại.Liên hệ qua mạng xã hội: Trong trường hợp người vay không phản hồi tin nhắn hoặc cuộc gọi, bộ phận đòi nợ có thể thực hiện liên hệ thông qua mạng xã hội.Cuộc gọi điện thoại đòi nợ: FE Credit sử dụng nhiều số điện thoại khác nhau, do đó, khó nhận biết cuộc gọi từ họ. Một số người có thể cố gắng chặn cuộc gọi từ FE, nhưng không thể chặn được tất cả.Tăng cường áp lực: Nếu người vay tiếp tục không trả tiền, nhân viên đòi nợ sẽ tăng cường áp lực theo từng cấp độ. FE Credit có thể thậm chí đưa vụ việc ra tòa án nếu người vay không hợp tác.Liên quan đến người thân: Khách hàng sẽ cung cấp danh sách bạn bè và người thân cho FE Credit, bao gồm tên, số điện thoại và tài khoản mạng xã hội, để FE Credit nhắc nhở người vay trả nợ. Đây là một hình thức đòi nợ khiến cho cả người vay và người thân cảm thấy không thoải mái, vì nó tiết lộ thông tin cá nhân về tình trạng nợ của người vay.Vậy nếu bạn không trả hoặc cố ý không trả nợ, FE Credit sẽ thực hiện các biện pháp đòi nợ như nhắn tin, cuộc gọi điện thoại, và thậm chí làm phiền người thân. Mức độ của các biện pháp này sẽ phụ thuộc vào mức độ hợp tác của người vay.3. Quy trình fe credit đòi nợ như thế nào? Quy trình đòi nợ của FE Credit tuân theo một chuỗi bước như sau:Nhắc nhở trước hạn: Trước khi hạn trả nợ hoặc kỳ trả góp đến gần, nhân viên của FE Credit sẽ liên hệ với khách hàng. Họ sẽ thông báo địa điểm và ngày tháng thanh toán nếu khách hàng phản hồi.Liên tục nhắc nhở: Nếu khách hàng không tuân thủ thời hạn trả nợ, nhân viên sẽ tiếp tục gọi điện thoại và nhắn tin nhắc nhở. Nếu khách hàng không phản hồi hoặc ngắt kết nối, FE Credit sẽ tăng cường áp lực thông qua các cuộc gọi từ những người khác với mức độ đòi nợ tăng dần.Đòi nợ qua mạng xã hội: FE Credit sẽ tiếp tục đòi nợ trên các mạng xã hội như Facebook và Zalo nếu cuộc gọi điện thoại không đạt được. Các thông điệp có thể trở nên khó chịu và đe dọa kiện ra tòa.Liên hệ với bạn bè hoặc người thân: Trong một nỗ lực cuối cùng, FE Credit có thể liên hệ với danh sách bạn bè hoặc người thân được cung cấp bởi khách hàng. Tuy nhiên, phương pháp này thường gây xung đột và mất mát mối quan hệ.Gửi giấy báo nợ: Nếu không có sự hợp tác từ khách hàng, FE Credit sẽ gửi giấy báo nợ đến địa chỉ được ghi trong hợp đồng vay.Tố tụng tại tòa: Trong những trường hợp với số nợ lớn, FE Credit có thể đưa vụ việc ra tòa để giải quyết và đòi nợ một cách hợp pháp.Vậy, quy trình đòi nợ sẽ tăng dần theo mức độ trì hoãn trả nợ của người vay, và FE Credit sẽ áp dụng biện pháp đòi nợ tương ứng cho đến khi nợ được thanh toán hoàn toàn.4. Fe Credit đòi nợ làm phiền liên tục cần phải làm gì?Theo quy định tại Khoản 7 Điều 1 Thông tư 18/2019/TT-NHNN, các biện pháp đôn đốc và thu hồi nợ phải tuân theo nguyên tắc phù hợp với đặc thù của khách hàng, các quy định của pháp luật, và chỉ có thể được áp dụng sau khi có yêu cầu từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bảo mật thông tin của khách hàng phải được tuân theo quy định của pháp luật. Do đó, không được áp dụng các biện pháp như sau:Đe dọa khách hàng: Không được sử dụng các biện pháp đe dọa đối với khách hàng, trong đó số lần nhắc nợ tối đa là 05 lần trong một ngày, nhưng phải tuân theo khoảng thời gian từ 7 giờ sáng đến 21 giờ tối.Thu hồi nợ đối với tổ chức, cá nhân không có nghĩa vụ trả nợ: Không được áp dụng các biện pháp đòi nợ, gửi thông tin về việc thu hồi nợ của khách hàng đối với tổ chức hoặc cá nhân không có nghĩa vụ trả nợ.Căn cứ vào quy định tại Điểm g Khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, việc sử dụng thông tin số để đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, hoặc vu khống uy tín của người khác có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng.Vậy nếu trong trường hợp FE Credit đòi nợ nhiều lần mà không có nghĩa vụ trả nợ từ phía khách hàng hoặc không có quan hệ gì với người vay, người bị làm phiền có thể liên hệ với doanh nghiệp viễn thông mà họ là khách hàng hoặc gửi đơn khiếu nại cho Sở Thông tin và Truyền thông địa phương để yêu cầu giải quyết.Kết luận:FE Credit là một trong những tổ chức tài chính quan trọng tại Việt Nam, và việc họ đòi nợ là một phần quan trọng của hoạt động kinh doanh của họ. Tuy nhiên, quá trình đòi nợ phải tuân theo quy định của pháp luật và phải được thực hiện một cách công bằng và đúng luật. Khách hàng cũng cần hiểu rằng trách nhiệm trong việc trả nợ là rất quan trọng, và việc hợp tác với FE Credit có thể giúp tránh được những tình huống không mong muốn. 
Bài viết
KHỦNG HOẢNG TRUYỀN THÔNG - ẢNH HƯỞNG – BÀI HỌC XỬ LÝ  KHỦNG HOẢNG Khủng hoảng truyền thông có thể xảy ra với các thương hiệu bất kỳ lúc nào nhất là trong thời đại mạng xã hội đang bùng nổ. Việc kiểm soát khủng hoảng cho các thương hiệu cần có những chiến lược xử lý và phương pháp giải quyết nhanh chóng. Đặc biệt để lấy lại niềm tin của khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải có động thái rõ ràng và tích cực. Bởi vậy, khủng hoảng truyền thông luôn là “bóng đen” đối với các doanh nghiệp. Vậy khủng khoảng truyền thông là gì? Nó được hình thành như thế nào ? Có ảnh hưởng ra sao ?Bài viết dưới đây là một nghiên cứu bao gồm các ví dụ cụ thể, file dowload tình huống tại cuối bài, phân tích và giải pháp chi tiết về Khủng hoảng truyền thôngKhủng hoảng truyền thông là gì?Khủng hoảng truyền thông là cụm từ tiếng Việt được dịch ra từ chữ crisis. Định nghĩa chung, khủng hoảng truyền thông là những sự kiện xảy ra ngoài tầm kiểm soát của công ty khi có thông tin bất lợi về công ty hay sản phẩm. Sự bất lợi này đe dọa đến việc tiêu thụ sản phẩm hoặc làm giảm uy tín của công ty.Theo định nghĩa giáo khoa, “khủng hoảng truyền thông là bất kỳ một sự kiện ngoài ý muốn nào mang mối đe dọa nghiêm trọng đến uy tín của công ty hoặc niềm tin của các bên liên quan. Sự kiện có thể là một hành động vi phạm lòng tin, một sự thay đổi trong môi trường cạnh tranh, cáo buộc bởi các nhân viên hoặc những người khác, một nghị định đột ngột của chính phủ, lỗ hổng trong sản phẩm, hoặc bất kỳ tác động tiêu cực nào khác” hay nói một cách đơn giản, “khủng hoảng là bất kỳ một sự kiện nào có khả năng ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh của công ty đối với công chúng của nó”.Ba yếu tố chung cho một cuộc khủng hoảng: Mối đe dọa đối với tổ chứcYếu tố bất ngờThời gian quyết định ngắnVenette  lập luận rằng “khủng hoảng là một quá trình biến đổi trong đó hệ thống cũ không còn có thể được duy trì”. Do đó, yếu tố thứ tư của khủng hoảng là sự cần thiết phải thay đổi. Nếu không cần thay đổi, sự kiện có thể được mô tả chính xác hơn là sự cố hoặc sự cố.Các loại khủng hoảng truyền thôngBất kỳ một sự việc nào cũng có mối quan hệ biện chứng giữa “nguyên nhân – kết quả”. Đúng vậy, các cuộc khủng hoảng truyền thông không tự nhiên sinh ra mà nó có thể xuất phát từ các xung đột chính, cơ bản như:Xung đột lợi ích: Một nhóm các cá nhân hoặc nhóm có mâu thuẫn với các tập đoàn về những lợi ích nhất định từ đó dẫn đến các hoạt động chống phá để mang lợi ích về phe mình. Các hoạt động chủ yếu của xung đột này là tẩy chay. Xung đột này, trên thị trường khốc liệt hiện nay thì thường xuyên xảy ra.Cạnh tranh không công bằng: Công ty hoặc tổ chức đối thủ có các động thái vượt ngoài khuôn khổ pháp luật nhằm chống phá, bôi nhọ, hạ nhục danh tiếng của công ty kia. Tuy các hoạt động này đã được giới hạn nhưng vẫn còn đó mà cụ thể là hành động bắt nạt trên mạng.“Một con sâu làm rầu nồi canh”: Một cá nhân đại diện trong công ty, tổ chức có hành vi phạm tội, gây rúng động trong cộng đồng, khiến cộng đồng mất niềm tin và quay lưng với tổ chức. Trường hợp này cũng rất hay xảy ra ví dụ như vụ việc của Agribank.Khủng hoảng liên đới: Đối tác của công ty mình bị vướng vào vòng lao lý, từ đấy có một số tin đồn thất thiệt trên mạng xã hội nhắm vào làm bôi nhọ danh tiếng công ty khi đánh đồng công ty với những việc làm sai trái của đối tác.Khủng hoảng tự sinh: Các hoạt động truyền thông, sản phẩm hay dịch vụ vô tình có những lỗi hoặc phốt dẫn đến sự bất bình và lan truyền rộng rãi. Đây là lý do thường xuyên và phổ biến trong các doanh nghiệp. Ví dụ: vụ chai nước có ruồi của công ty Tân Hiệp Phát.Khủng hoảng chồng khủng hoảng: Là khi công ty, tổ chức xử lý truyền thông không khéo, không có thái độ thành khẩn sửa chữa lỗi lầm dẫn đến sự phẫn nộ sâu sắc hơn từ cộng đồng. Khủng hoảng này thường xảy ra khi công ty không có một chiến lược giải quyết khủng hoảng quy củ, cẩn thận.Và kết quả của những loại xung đột cộng thêm nhiều gia vị của truyền thông đã tạo nên những cuộc khủng hoảng truyền thông. Khủng hoảng truyền thông vừa là cơ hội, cũng vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp. Căn cứ vào mức độ ảnh hưởng, tính chất của cuộc khủng hoảng, có thể chia thành các loại khủng hoảng truyền thông như sau:Khủng hoảng âm ỉLà những khủng hoảng hay vấn đề một nhóm người đã có với công ty, tổ chức nhưng những vấn đề này quá nhỏ hoặc nó chưa đủ sức lan truyền rộng ra cộng đồng. Nhưng càng về lâu về dài, những vấn đề lớn dần và phát sinh khủng hoảng rộng lớn. Khi khủng hoảng phát sinh, doanh nghiệp rất khó giải quyết vì sự chậm trễ trong thay đổi không mang lại giá trị tích cực đến khách hàng. Khi phát sinh các nguy cơ âm ỉ, doanh nghiệp nên có sự đánh giá suy xét từ đó chặn đứng các nguy cơ có thể có.Khủng hoảng bất chợtLà những khủng hoảng bất chợt xuất hiện mà không có cảnh báo hay dự đoán như một chai nước bị kém chất lượng hay nhân viên phạm tội, những khủng hoảng này lỗi không hoàn toàn do công ty và cách giải quyết nên là thành thật xin lỗi, giải quyết hậu quả bằng tất cả khả năng.Khủng hoảng đa kênhKhủng hoảng đa kênh (Omni-channel) chứa nhiều khả năng gây hại nhất vì nó thu hút sự chú ý của nhiều kênh truyền thông. Nếu một thương hiệu đang đối phó với một tình huống cực đoan, chẳng hạn như cáo buộc quấy rối nơi làm việc, thu hồi sản phẩm hoặc các hành vi không phù hợp tại công ty, thì nó có thể phải đón nhận phản hồi tiêu cực trên phương tiện truyền thông xã hội và trên các phương tiện truyền thông truyền thống.Chuẩn bị đối phó bằng cách có một kế hoạch quản lý khủng hoảng mạnh mẽ thường xuyên được áp dụng và cập nhật. Trong những tình huống như thế này, một phản ứng nhanh chóng và xác thực có thể tạo ra sự khác biệt lớn. Đảm bảo rằng tất cả các tin nhắn được đăng không chỉ trên trang web của công ty mà còn trên bất kỳ kênh xã hội nào đang nhận được phản hồi tiêu cực. Và mặc dù tính nhất quán trong thông điệp của công ty là chìa khóa, từ ngữ nên được chau chuốt để thể hiện thái độ chân thành.Với các mức độ, phương thức khủng hoảng khác nhau như vậy, thì liệu khủng hoảng truyền thông  tất cả đều là xấu, hay nó chính là một bàn đạp thể hiện sự đẳng cấp, khốn khéo của con người và là cơ hội cho các doanh nghiệp chuyển mình, vươn lên?Ảnh hưởng của khủng hoảng truyền thôngNền kinh tế phát triển càng năng động, quyền con người được đề cao, sức mạnh truyền thông ngày càng lớn, tất cả đều có 2 mặt: tích cực và tiêu cực.  Khủng hoảng truyền thông là bất kì một chuyện xấu gì xảy đến với doanh nghiệp hoặc tổ chức được lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội truyền thông, làm ảnh hưởng đến danh tiếng từ đó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động, kinh doanh của các đối tượng bị khủng hoảng tác động đến.Khủng hoảng truyền thông thường kéo theo các cảm xúc tiêu cực không cần thiết mà hệ quả mang lại rất nặng nề:Làm lu mờ phán đoán chính xác.Tổn hại đến các đối tác của tổ chức bị khủng hoảng.Có tính lan truyền cao.Tính chính trực và danh tiếng của công ty cũng sẽ bị ảnh hưởng rõ nét phụ thuộc vào hành động của họ. Việc giải quyết kịp thời các khủng hoảng truyền thông là một bài toán khó của mọi ban ngành tổ chức. Khi gặp phải khủng hoảng, các cấp lãnh đạo, phòng ban nên có sự đối thoại nhanh chóng, rõ ràng để từ đó có thể giải quyết hiệu quả khủng hoảng, đặc biệt là khủng hoảng truyền thông xã hội. Các ngành nghề dễ bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng có thể kể đến thương mại điện tử, mạng xã hội, ngành thời trang,..Ví dụ, Những năm vừa qua, đã không ít các thương hiệu thiết sót trong việc xử lý khủng hoảng truyền thông. Như sự việc đáng tiếc của hãng Boeing để xảy ra hai vụ tai nạn nghiêm trọng đối với máy bay 737 Max 8 mới của mình, hãng phải chấp nhận mất doanh thu và thu nhập trên mỗi cổ phần đã giảm hơn 40% so với năm 2018. Hay trường hợp của Taco Bell xử trí khi nhân viên làm ảnh hưởng xấu đến thương hiệu trên Facebook…Khủng hoảng truyền thông là điều mà mọi doanh nghiệp đều không muốn xảy ra. Trong việc xử lý khủng hoảng, sẽ không có một quy trình chuẩn nào cả. Vì trong quá trình diễn ra khủng hoảng, sự việc biến đổi không ngừng. Nên cái doanh nghiệp cần chính là sự chuẩn bị. Và áp dụng linh hoạt các nguyên tắc xử lý khủng hoảng truyền thông. Sao cho phù hợp với từng tình huống, diễn biến tình hình bấy giờ.Tuy nhiên, cũng không thể nói hoàn toàn, khủng hoảng truyền thông đều có tác động xấu. Bởi lẽ, khủng hoảng cũng có thể là chất xúc tác có tác dụng kích thích tính năng động sáng tạo, huy động tối đa tiềm lực trí tuệ của con người, cộng đồng và xã hội. Chỉ cần, kịp thời đưa ra nhưng giải pháp, chiến lược phù hợp để xử lý thì tất cả có thể biến thành cơ hội hành động kêu gọi một cách thông minh, thì đương nhiên sẽ biến “nguy thành an” biến “ khó khăn thành cơ hội”. Điển hình như: KFC Xử lý khủng hoảng truyền thông tốt có thể giúp bạn biến bê bối thành một chiến lược độc đáo và thu về những phản hồi tích cực.Như vậy, thực tế đã chứng minh, có nhiều doanh nghiệp đã thật sự thất bại, điêu đứng trên bờ vực phá sản,…vì khủng khoảng truyền thông, nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp trở mình trên đường đua một cách ngoại mục.Các giải pháp xử lý khủng hoảng truyền thông THƯỜNG THẤYNhanh chóng đánh giá vấn đề gây khủng hoảngĐiều đầu tiên khi có những dấu hiệu khủng hoảng truyền thông là lập tức chúng ta phải tiếp cận và đánh giá vấn đề trong thời gian ngắn nhất. Trong đó, đặt ra các câu hỏi là một cách hiệu quả để nhìn nhận vấn đề một cách trực quan nhất.Vấn đề này có ảnh hưởng đến uy tín và danh tiếng của tổ chức, doanh nghiệp? Nó có ảnh hưởng đến bộ máy cấp cao hay không? Mức độ nghiêm trọng của vấn đề truyền thông nằm mà doanh nghiệp bạn đang gặp phải nằm ở khoảng nào ?Phản hồi với các đối tác, khách hàngThực tế, tốc độ phản hồi khách thực sự rất quan trọng khi khủng hoảng truyền thông xảy ra. Sự im lặng và thụ động sẽ biến mọi tình huống trở nên tệ hại hơn và nhận được nhiều sự giận dữ hơn.Hãy luôn trong tư thế sẵn sàng nhận các phàn nàn từ phía các đối tác, khách hàng và phản hồi ngay lập tức. Nếu bạn chưa thể có câu trả lời ngay, hãy ước tính một khoảng thời gian về phía khách hàng để họ cảm nhận rằng chúng ta thực sự quan tâm đến vấn đề họ đang mắc phải.Có thái độ tích cực và trung thựcChúng ta không nên che giấu và không rõ ràng với truyền thông, mạng xã hội khi có khủng hoảng truyền thông xảy ra.Lên tiếng trên mạng xã hội, đưa ra thông cáo, lời xin lỗi trình bày rõ ràng vấn đề chúng ta đang mắc phải và đưa ra phương hướng giải quyết chính là phương pháp để trấn an khách hàng, đối tác đồng thời nhận được sự thông cảm của dư luận.Như CMO Will McInnes của Brandwatch từng nói: “Chiến dịch có thể sẽ sai. Các thông điệp được kiểm tra trong nhóm sẽ không hiệu quả.Nhân viên sẽ không hành động đúng. Nhưng người tiêu dùng sẽ chấp nhận lỗi lầm khi nhận được những phản hồi phù hợp.”Xây dựng quy trình bài bản đề phòng khủng hoảng truyền thôngNgười ta vẫn thường nói: “Phòng bệnh hơn chữa bệnh.” Cách tốt nhất để xử lý khủng hoảng truyền thông là tiêu diệt triệt để những lối mòn có thể dẫn đến khủng hoảng truyền thông trước khi nó xảy ra. Có những cách để ngăn chặn khủng hoảng truyền thông như:Xây dựng một đội ngũ thiết kế và quản lý web chuyên nghiệp để đăng tải và cập nhập thông tin kịp thờiKiểm soát chặt chẽ những thông tin phát tán trên mạng xã hội.Cẩn thận kiểm tra tất cả những sản phẩm truyền thông (viral videos, photos…) trước khi tạo chiến dịch truyền thông.Không nên quảng cáo quá xa vời thực tế, lố lăng về chất lượng doanh nghiệp.Có rất nhiều phương pháp xử lý khủng hoảng truyền thông, sự lựa chọn phương pháp giải quyết phù hợp là rất quan trọng nó quyết định đến sự thành bại.VÍ DỤ Khủng hoảng truyền thông của United Airlines: Bài học về quản lý khủng hoảng và giữ uy tín"Mở đầu: Trong lịch sử của ngành hàng không, khủng hoảng truyền thông của United Airlines vào năm 2017 là một ví dụ điển hình về cách một sự cố có thể gây tổn hại lớn đến hình ảnh của một công ty. Bài viết này sẽ phân tích nguyên nhân, quá trình và kết quả của sự cố này, cũng như bài học quan trọng về quản lý khủng hoảng truyền thông.Nguyên nhân: Sự cố bắt đầu khi một video ghi lại cảnh một hành khách bị kéo ra khỏi máy bay của United Airlines trở nên viral trên mạng xã hội. Hành khách này đã mua vé và ngồi xuống ghế của mình, nhưng sau đó đã bị yêu cầu rời khỏi máy bay do quá tải. Khi người đàn ông này từ chối, anh ta đã bị lực lượng an ninh kéo ra khỏi máy bay một cách bạo lực.Quá trình: Sau khi video này trở nên phổ biến trên mạng xã hội, United Airlines đã phải đối mặt với sự chỉ trích gay gắt từ cộng đồng trực tuyến và truyền thông. Ban đầu, CEO của United Airlines đã phát hành một tuyên bố bào chữa cho hành động của nhân viên an ninh và không xin lỗi trực tiếp đến hành khách bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, sau khi gặp phản ứng tiêu cực từ cộng đồng, CEO đã phát hành một tuyên bố xin lỗi và hứa sẽ không bao giờ để sự cố tương tự xảy ra lại.Kết quả: United Airlines đã phải trả giá đắt cho khủng hoảng truyền thông này. Giá cổ phiếu của hãng đã giảm sút, và hãng đã mất đi sự tin tưởng của khách hàng. Tuy nhiên, sau khi xin lỗi và thực hiện các biện pháp cải thiện, hãng đã dần khôi phục lại uy tín của mình.Bài học: Khủng hoảng truyền thông này cho thấy sự quan trọng của việc xử lý tình huống một cách nhân văn và tôn trọng quyền lợi của khách hàng. Ngoài ra, việc phản hồi nhanh chóng và chân thành cũng rất quan trọng trong việc giảm thiểu thiệt hại cho hình ảnh của doanh nghiệp. Cuối cùng, việc xây dựng một kế hoạch truyền thông khẩn cấp và đào tạo nhân viên về cách xử lý khủng hoảng truyền thông cũng rất quan trọng.Kỹ năng quan trọng trong việc xử lý khủng hoảng truyền thông: Bí quyết giữ vững uy tín doanh nghiệp - GIẢI PHÁP TƯ VẤN THỰC TẾ chỉ có tại TTPL.VNKhủng hoảng truyền thông có thể xảy ra bất ngờ và gây ra những thiệt hại lớn đối với hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp. Để đối phó hiệu quả với những tình huống khó khăn này, doanh nghiệp cần có các chiến lược xử lý khủng hoảng truyền thông hiệu quả. Dưới đây là bốn chiến lược quan trọng mà mọi doanh nghiệp nên áp dụng.Xây dựng chiến lược CHI TIẾT xử lý khủng hoảng: Để đối phó với khủng hoảng truyền thông, doanh nghiệp cần có một chiến lược xử lý khủng hoảng rõ ràng. Việc này cần sự giúp sức của nhiều hệ thống, xây dựng chi tiết chiến lược là không thể thiếu.Điều này bao gồm việc xác định trước các bước cần thực hiện, lựa chọn kênh truyền thông và xác định thông điệp cần truyền đạt.Xây dựng kế hoạch seeding mạng xã hội: Seeding là việc sử dụng các tài khoản mạng xã hội để truyền đạt thông điệp của doanh nghiệp đến cộng đồng trực tuyến. Doanh nghiệp cần xây dựng một kế hoạch seeding hiệu quả để đảm bảo thông điệp của mình được truyền đạt đến đối tượng mục tiêu một cách hiệu quả.Xây dựng hệ thống báo chí và trang mạng cùng ngành: Doanh nghiệp cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với báo chí và trang mạng cùng ngành. Điều này giúp doanh nghiệp có thể truyền đạt thông điệp của mình đến cộng đồng một cách nhanh chóng và hiệu quả.Xây dựng một kế hoạch truyền thông khẩn cấp: Một kế hoạch truyền thông khẩn cấp giúp doanh nghiệp xác định trước các bước cần thực hiện khi xảy ra khủng hoảng. Kế hoạch này nên bao gồm việc xác định người phát ngôn, lựa chọn kênh truyền thông, và xác định thông điệp cần truyền đạt. Điều này giúp doanh nghiệp phản hồi nhanh chóng và kiểm soát tình hình.Tạo ra một đội ngũ quản lý khủng hoảng truyền thông: Đội ngũ này nên bao gồm các chuyên gia truyền thông, quan hệ công chúng và quản lý khủng hoảng. Họ sẽ chịu trách nhiệm giám sát tình hình, đưa ra quyết định và thực hiện các chiến lược xử lý khủng hoảng truyền thông.Sử dụng các kênh truyền thông khác nhau để truyền đạt thông điệp của bạn: Trong thời đại số hóa, việc sử dụng đa kênh truyền thông là cần thiết. Doanh nghiệp nên sử dụng cả truyền thông truyền thống và truyền thông số để truyền đạt thông điệp của mình. Điều này giúp doanh nghiệp tiếp cận được nhiều đối tượng khác nhau và truyền đạt thông điệp một cách hiệu quả.Theo dõi và đánh giá hiệu quả của các chiến lược xử lý khủng hoảng truyền thông: Sau khi áp dụng các chiến lược, doanh nghiệp nên theo dõi và đánh giá hiệu quả của chúng. Điều này giúp doanh nghiệp biết được những gì đã làm đúng và những gì cần cải thiện trong tương lai.Kết luận: Khủng hoảng truyền thông là một thách thức lớn đối với mọi doanh nghiệp. Tuy nhiên, với các chiến lược xử lý khủng hoảng truyền thông hiệu quả, doanh nghiệp có thể giữ vững uy tín và tiếp tục phát triển mạnh mẽ.CẦN HƯỚNG DẪN CHI TIẾT XỬ LÝ, HÃY ẤN VÀO BÌNH LUẬN BÀI VIẾT NHÉTài liệu về khủng hoảng truyền thôngDưới đây là một số tài liệu cần biết về khủng hỏang truyền thông của các thương hiệu lớn và phương thức xử lý, bài học rút ra rất hữu ích: Ngày thứ 2 đen tối và cơn ác mộng của người làm truyền thông: Tải về05 ví dụ về khủng hoảng truyền thông và bài học rút ra: Tải về10 bài học điển hình về xử lý khủng hoảng truyền thông: Tải vềCơ chế lan truyền của khủng hoảng truyền thông: Tải vềDomino-s Pizza- Dội nước dập tắt khủng hoảng truyền thông, thay vì im lặng chờ chết: Tải vềKhi nhân viên làm xấu hình ảnh thương hiệu trên facebook đừng xử trí như Taco Bell: Tải vềNestle và Bài học xử lý khủng hoảng trên mạng xã hội: Tải vềSocial Listening- khủng hoảng truyền thông của Agribank ảnh hưởng như thế nào ? Tải vềSocial Listening- Vì đâu BaBy Care gặp phải khủng hoảng truyền thông: Tải về Tổng hợp các cuộc khủng hoảng truyền thông:Trên đây là các thông tin tư vấn của Legalzone về phương án quản lý doanh nghiệp hiệu quả. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn và sử dụng dịch vụ.
Bài viết
Bảo hiểm thất nghiệp là một cơ chế quan trọng, giúp hỗ trợ người lao động trong những giai đoạn khó khăn khi họ mất việc làm. Tuy nhiên, để đảm bảo hoạt động hiệu quả và bền vững của quỹ bảo hiểm thất nghiệp, việc xác định mức đóng cũng như hiểu rõ nguồn hình thành của quỹ này là vô cùng quan trọng. Bài viết sau đây sẽ phân tích và giải đáp những thắc mắc liên quan đến mức đóng và nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, giúp người đọc có cái nhìn sâu rộng và đầy đủ hơn về vấn đề này.Bảo hiểm thất nghiệp là gì?Trong bối cảnh kinh tế phức tạp, bảo hiểm thất nghiệp trở thành một giải pháp hỗ trợ quan trọng, giúp giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho người lao động.Bảo hiểm thất nghiệp là một chế độ giúp bù lại một phần thu nhập cho những người mất việc, đồng thời hỗ trợ họ trong việc đào tạo nghề và tìm kiếm cơ hội làm việc mới, dựa trên việc đóng góp vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp (theo khoản 4 Điều 3 Luật Việc làm 2013).Nhờ vào sự hỗ trợ từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp, nhiều người lao động đã tìm ra cách giải quyết vấn đề việc làm, khẳng định vị thế của mình trên thị trường lao động và đóng góp vào sự ổn định và phát triển của xã hội.Mức đóng vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp được xác định như nào?Mức đóng góp và trách nhiệm trong việc đóng góp vào Quỹ Bảo hiểm Thất nghiệp (BHTN) được quy định cụ thể theo Khoản 1 Điều 57 của Luật Việc làm năm 2013. Theo đó:- Mỗi người lao động cần đóng 1% từ tiền lương hàng tháng của mình.- Người sử dụng lao động cũng phải đóng 1% từ quỹ lương hàng tháng dành cho nhân viên đang tham gia BHTN.- Nhà nước cam kết hỗ trợ thêm tối đa 1% từ quỹ lương hàng tháng cho việc đóng góp BHTN, với ngân sách được đảm bảo bởi chính phủ trung ương.Tổng cộng, mức đóng góp vào Quỹ BHTN là 3%, với 1% từ người lao động, 1% từ người sử dụng lao động, và 1% từ sự hỗ trợ của nhà nước.Quỹ BHTN hình thành từ nhiều nguồn khác nhau:- Đóng góp từ người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ từ nhà nước.- Lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư của Quỹ BHTN.- Các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật, bao gồm tiền lãi từ việc trễ hạn đóng góp BHTN và các khoản thu hợp pháp khác.Quỹ BHTN được sử dụng cho các mục đích sau:- Thanh toán trợ cấp thất nghiệp.- Hỗ trợ đào tạo, cập nhật kỹ năng nghề nghiệp để giữ việc làm cho người lao động.- Hỗ trợ học nghề.- Hỗ trợ tư vấn và giới thiệu việc làm.- Chi trả bảo hiểm y tế cho người nhận trợ cấp thất nghiệp.- Chi phí quản lý BHTN theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội.- Đầu tư để bảo toàn và phát triển Quỹ.Phương thức đóng tiền vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp?Cách thức đóng góp vào Quỹ Bảo hiểm Thất nghiệp (BHTN) diễn ra hàng tháng theo các quy định sau:- Người sử dụng lao động cần đóng góp vào BHTN theo tỷ lệ quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 57 của Luật Việc làm 2013. Họ cũng cần trích một phần từ lương của nhân viên theo tỷ lệ quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 57 của cùng một luật, để đóng góp vào Quỹ BHTN.- Sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho Quỹ BHTN tuân theo nguyên tắc đảm bảo số dư quỹ hàng năm ít nhất bằng hai lần tổng chi cho các chế độ BHTN và chi phí quản lý của năm trước. Tuy nhiên, mức hỗ trợ không vượt quá 1% quỹ lương hàng tháng dành cho BHTN của những người đang tham gia. Cách thức chuyển kinh phí như sau:Vào quý IV mỗi năm, Bảo hiểm xã hội Việt Nam sẽ dựa trên dự toán thu-chi BHTN được phê duyệt để xác định kinh phí hỗ trợ cho Quỹ BHTN của năm trước, tuân theo quy định tại Khoản 1 của Điều này. Số kinh phí này sẽ được gửi đến Bộ Tài chính để chuyển vào Quỹ BHTN một lần.Trong vòng 10 ngày làm việc kể từ khi nhận báo cáo quyết toán từ Bảo hiểm xã hội Việt Nam, đã được Hội đồng Quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam chấp thuận, Bộ Tài chính sẽ thẩm định và quyết định kinh phí hỗ trợ cho Quỹ BHTN năm trước. Nếu kinh phí mà Bộ Tài chính đã cấp nhiều hơn số tiền cần hỗ trợ theo quy định tại Khoản 1 của Điều này, Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải trả lại phần chênh lệch cho ngân sách nhà nước. Ngược lại, nếu số tiền cấp ít hơn, Bộ Tài chính sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền để phê duyệt kinh phí hỗ trợ bổ sung trong năm tiếp theo.Kinh phí hỗ trợ Quỹ BHTN đều được bảo đảm bởi ngân sách trung ương, từ nguồn chi đảm bảo xã hội đã được Quốc hội quyết định.Kết luận Mức đóng góp phải được xác định một cách hợp lý để đảm bảo quỹ có đủ kinh phí hoạt động và cùng lúc đó, không tạo áp lực tài chính quá lớn lên người lao động và người sử dụng lao động. Ngoài ra, việc hình thành quỹ từ nhiều nguồn khác nhau cần được quản lý chặt chẽ và minh bạch, điều này đòi hỏi sự phối hợp mật thiết giữa các cơ quan quản lý, người sử dụng lao động, và người lao động. Một hiểu biết đầy đủ và chi tiết về các khía cạnh này sẽ giúp người lao động cảm thấy an tâm hơn với quỹ bảo hiểm thất nghiệp, thúc đẩy sự tham gia tích cực và từ đó góp phần nâng cao chất lượng an sinh xã hội. Nếu có thắc mắc khác liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp, bạn có thể truy cập Thủ tục pháp luật để cập nhật thông tin và hướng dẫn chi tiết. 
Bài viết
Thủ tướng Phạm Minh Chính quyết định nới hạn thực hiện Chỉ thị 16Thủ tướng Phạm Minh Chính quyết định nới hạn thực hiện Chỉ thị 16 ở 19 tỉnh thành phía Nam thêm 14 ngày, yêu cầu "ai ở đâu ở đấy", tuyệt đối không để người dân rời khỏi nơi cư trú sau ngày 31/7...Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, hôm nay, 31/7, Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa có Công điện số 1063 chỉ đạo hoạt động chống dịch.Thủ tướng yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh, thành, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tập trung chỉ đạo thực hiện mạnh mẽ, quyết liệt, thực chất, hiệu quả các biện pháp cụ thể phòng, chống dịch theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng, Ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 đã ban hành trong thời gian qua.Thủ tướng quán triệt, các địa phương đang thực hiện giãn cách theo Chỉ thị số 16 phải thực hiện nghiêm, nhất quán theo phương châm chỉ có thể thực hiện cao hơn, sớm hơn phù hợp theo tình hình thực tiễn tại địa phương.Người dân không rời nơi cư trú sau ngày 31/7Các cơ quan tổ chức tuyên truyền rộng rãi, kiểm soát nghiêm ngặt và thực hiện ngay các biện pháp hỗ trợ cần thiết về đời sống, y tế để người dân an tâm "ai ở đâu ở đấy"; tuyệt đối không để người dân di chuyển khỏi nơi cư trú từ sau ngày 31/7/2021 tới khi hết giãn cách (trừ những người được chính quyền cho phép).Thủ tướng nêu rõ, lãnh đạo các tỉnh, thành chịu trách nhiệm trước Thủ tướng nếu để người dân tự ý di chuyển ra khỏi địa phương mình. Đối với người dân đã rời khỏi tỉnh xuất phát đến địa bàn tỉnh khác thì các tỉnh liên quan phải tổ chức đón, đưa về địa phương đích đến bảo đảm an toàn.Chính quyền tổ chức xét nghiệm, vận chuyển bằng xe ca (có thể bố trí xe tải chở theo xe gắn máy của người dân nếu người dân di chuyển bằng xe gắn máy), thực hiện bàn giao đầy đủ, tổ chức cách ly, giám sát y tế theo đúng quy định, không để dịch bệnh lây lan.Bộ Công an chỉ đạo Công an tỉnh, thành phố tham mưu cho UBND tỉnh và tổ chức đưa đón người dân.Tổ chức tốt hệ thống, mạng lưới chăm sóc, điều trị người bị nhiễm vi rút SARS-CoV-2 theo các tầng điều trị; tập trung và ưu tiên năng lực, nâng cao chất lượng điều trị, đặc biệt là đối với các bệnh nhân diễn tiến nặng, hạn chế tối đa các trường hợp tử vong.Thủ tướng quyết định tiếp tục áp dụng biện pháp giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 thêm 14 ngày (kể từ ngày kết thúc giãn cách xã hội theo Công văn số 969/TTg-KGVX) đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện giãn cách xã hội theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 969 ngày 17/7/2021.Những tỉnh sau một thời gian thực hiện giãn cách xã hội, nếu đã kiểm soát được dịch bệnh có thể nới lỏng giãn cách theo từng khu vực trong nội bộ tỉnh. Đối với khu vực liên tỉnh thì phải có thỏa thuận, thống nhất với các tỉnh liên quan và phải báo cáo Tổ công tác đặc biệt của Chính phủ, Trưởng ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 trước khi quyết định.
Bài viết
Đăng ký bằng cách đi tới Link TTPL.VNNhấp vào tài khoản chọn đăng kýChọn Doanh nghiệpNếu bạn là Doanh nghiệp thường Hãy chọn Doanh nghiệpNếu bạn là công ty luật hãy chọn Công ty LuậtLưu ý: khi bạn chọn sẽ xuất hiện vành vàng ở loại hình bạn chọn, nếu không chọn sẽ gây lỗiĐiền thông tin theo hướng dẫnLưu ý: Email và số điện thoại phải có thực, tránh trường hợp mất tài khoản sau nàyĐăng nhập bằng tài khoản và mật khẩu đã dùngLưu ý: bạn cũng có thể dùng Số điện thoại và mật khẩu để đăng nhậpĐăng nhập vào sử dụng phần mềm quản lý công việcBạn có thể đăng nhập ngay bằng phần Dashboard tuy nhiên nếu muốn dùng tài khoản Pro (đầy đủ quyền) Hãy sử dụng nút mua ( Miễn phí)Hãy mua gói LGZ DIAMOND - Hiện tại đang miễn phí trọn đờiNhư vậy bạn đã tạo được một công ty hoàn chỉnh cho mình, Hãy thêm nhân viên và tiếp tục hoạt động miễn phí.Hotline:Hướng dẫn kỹ thuật: 0888889225Hướng dẫn chung: 0888889366