0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
Danh mục
LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT
avatar
Văn An
237 ngày trước
Bài viết
Hướng dẫn thủ tục đăng ký thành lập viện dưỡng lão tự trị ngoài công lập
Hồ sơ Đăng Ký Thành Lập Viện Dưỡng Lão Ngoài Công LậpĐể thành lập một viện dưỡng lão ngoài công lập, việc chuẩn bị hồ sơ đăng ký là quan trọng và được quy định chi tiết trong Điều 15 của Nghị định 103/2017/NĐ-CP. Dưới đây là những thành phần chính cần có trong hồ sơ:Tờ Khai Đăng Ký:Điền đầy đủ thông tin theo Mẫu số 06, được cung cấp trong Phụ lục theo Nghị định.Phương Án Thành Lập Cơ Sở:Mô tả chi tiết kế hoạch và phương pháp thành lập cơ sở.Dự Thảo Quy Chế Hoạt Động:Chuẩn bị Dự thảo Quy chế hoạt động theo Mẫu số 03b, đính kèm theo Nghị định.Bản Sao Có Chứng Thực Giấy Tờ Về Quyền Sử Dụng Đất:Đối với đất và tài sản liền kề, bao gồm giấy tờ về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, hoặc hợp đồng cho thuê, mượn đất.Phiếu Lý Lịch Tư Pháp:Cung cấp phiếu lý lịch tư pháp của các sáng lập viên.Bản Sao Các Giấy Tờ Cần Thiết:Bản sao thẻ căn cước công dân hoặc giấy chứng minh nhân dân của sáng lập viên.Đối với sáng lập viên nước ngoài, cần hộ chiếu hoặc các giấy tờ chứng thực cá nhân hợp pháp khác.Bản Sao Quyết Định Thành Lập hoặc Tài Liệu Tương Đương:Đối với tổ chức nước ngoài, bản sao quyết định thành lập hoặc tài liệu tương đương cần được hợp pháp hóa lãnh sự.Thủ tục đăng ký thành lập viện dưỡng lão ngoài công lậpThủ tục đăng ký thành lập viện dưỡng lão ngoài công lập theo Nghị định 103/2017/NĐ-CP và sửa đổi theo Nghị định 140/2018/NĐ-CP được thực hiện như sau:Nộp Hồ Sơ Đăng Ký:Tổ chức, cá nhân có thể nộp trực tiếp hoặc gửi qua bưu điện 01 bộ hồ sơ đăng ký theo quy định tại Điều 15 của Nghị định.Quy Trình Đăng Ký Thay Đổi hoặc Cấp Lại:Cơ sở nếu muốn đăng ký thay đổi nội dung hoặc cấp lại giấy chứng nhận đăng ký thành lập cũng nộp 01 bộ hồ sơ theo quy định tại Điều 20 của Nghị định.Thời Hạn Xử Lý:Trong thời hạn 05 ngày làm việc, tính từ ngày đầy đủ hồ sơ, cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập chịu trách nhiệm xem xét và cấp giấy chứng nhận đăng ký.Thông Báo Không Đủ Điều Kiện:Trong trường hợp cơ sở không đủ điều kiện, cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập phải thông báo rõ lý do bằng văn bản cho tổ chức hoặc cá nhân đề nghị.Các Đối Tượng Được Miễn Thủ Tục:Cơ sở được thành lập theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp hoặc tổ chức, hoạt động và quản lý hội, cơ sở trợ giúp xã hội dưới 10 đối tượng khó khăn không phải thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký theo quy định tại Mục 2 Chương III của Nghị định.Điều Kiện và Nội Dung Giấy Chứng Nhận Đăng Ký Doanh NghiệpTheo quy định tại Điều 18 Nghị định 103/2017/NĐ-CP, để đạt được giấy chứng nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp, các điều kiện và nội dung chính sau đây phải được tuân thủ:Điều Kiện Cấp Giấy Chứng Nhận Đăng Ký Thành Lập: a) Tên Đúng Quy Định: - Tên của cơ sở phải tuân thủ đúng quy định tại Điều 5 của Nghị định này. b) Hồ Sơ Đăng Ký Hợp Lệ: - Cơ sở cần có hồ sơ đăng ký thành lập hợp lệ theo quy định tại Điều 15 của Nghị định.Nội Dung Giấy Chứng Nhận Đăng Ký Thành Lập:Giấy chứng nhận đăng ký thành lập cơ sở sẽ có các thông tin chính như sau, theo Mẫu số 07 tại Phụ lục của Nghị định: a) Thông Tin Cơ Sở: - Tên cơ sở, địa chỉ trụ sở, số điện thoại, số fax. b) Thông Tin Sáng Lập Viên: - Họ và tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số thẻ căn cước công dân hoặc giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của các sáng lập viên. c) Loại Hình Cơ Sở: - Xác định loại hình cơ sở. d) Nhiệm Vụ của Cơ Sở: - Cụ thể hóa một hoặc nhiều nhiệm vụ quy định tại Điều 7 của Nghị định. đ) Vốn Điều Lệ và Vốn Đầu Tư: - Thông tin về vốn điều lệ và vốn đầu tư của doanh nghiệp thành lập. e) Thông Tin Đăng Ký Thuế: - Thông tin đăng ký thuế của cơ sở.Ai Có Thẩm Quyền Cấp Giấy Chứng Nhận Đăng Ký Thành Lập Viện Dưỡng Lão Ngoài Công Lập?Theo quy định tại Điều 19 Nghị định 103/2017/NĐ-CP, quy trình cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập viện dưỡng lão ngoài công lập được phân chia như sau:Sở Lao Động - Thương Binh và Xã Hội:Cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập cho cơ sở hoạt động trên phạm vi liên tỉnh hoặc liên huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố, với điều kiện có trụ sở chính đặt tại địa phương đó.Phòng Lao Động - Thương Binh và Xã Hội:Cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập cho cơ sở hoạt động trên phạm vi cấp huyện, với điều kiện có trụ sở chính đặt tại địa phương đó.Như vậy, người đề xuất đăng ký thành lập viện dưỡng lão cần liên hệ với Sở hoặc Phòng Lao Động - Thương Binh và Xã Hội tùy thuộc vào phạm vi hoạt động của cơ sở và địa lý đặt trụ sở chính. Điều này giúp đảm bảo quy trình đăng ký được thực hiện chính xác và theo quy định của pháp luật.Câu hỏi liên quan1. Mô hình nhà dưỡng lão tư nhân là gì?Mô hình nhà dưỡng lão tư nhân là cơ sở cung cấp dịch vụ chăm sóc, hỗ trợ sinh hoạt, y tế và tinh thần cho người cao tuổi, được vận hành bởi các tổ chức, cá nhân hoặc công ty tư nhân. Các mô hình này thường cung cấp một loạt các dịch vụ từ cơ bản đến cao cấp, bao gồm chăm sóc sức khỏe, hoạt động tập thể, giải trí, ăn uống và hỗ trợ cá nhân, với mục tiêu tạo ra một môi trường sống thoải mái, an toàn và tương tác xã hội cho người già.2. Thủ tục thành lập viện dưỡng lão là gì?Thủ tục thành lập viện dưỡng lão thường bao gồm các bước sau:Lập kế hoạch: Xác định mục tiêu, mô hình dịch vụ, và quy mô của viện dưỡng lão.Nghiên cứu thị trường và lập dự án: Phân tích nhu cầu và thị trường, lập kế hoạch chi tiết về tài chính, vị trí, cơ sở vật chất, và dịch vụ.Thu thập các giấy tờ cần thiết: Bao gồm giấy phép đầu tư, đăng ký kinh doanh, giấy phép xây dựng, giấy phép hoạt động cơ sở y tế (nếu có).Nộp hồ sơ và xin cấp phép: Nộp hồ sơ tới cơ quan chức năng có thẩm quyền để xin cấp phép hoạt động.Xây dựng và trang bị cơ sở vật chất: Hoàn thiện cơ sở vật chất và trang thiết bị cần thiết.Tuyển dụng và đào tạo nhân viên: Tuyển chọn và đào tạo đội ngũ nhân viên chăm sóc, y tế và hỗ trợ.Mở cửa và vận hành: Bắt đầu hoạt động và cung cấp dịch vụ chăm sóc cho người cao tuổi.3. Tiêu chuẩn thiết kế viện dưỡng lão là gì?Tiêu chuẩn thiết kế viện dưỡng lão thường bao gồm:An toàn và tiện nghi: Các tiêu chuẩn về an toàn cháy nổ, trang thiết bị y tế, dễ dàng di chuyển cho người già và người khuyết tật.Không gian sống: Cung cấp không gian sống thoải mái, có khu vực riêng tư, không gian cộng đồng, và khu vực hoạt động ngoại khóa.Hệ thống y tế và chăm sóc: Thiết kế phòng khám, khu vực chăm sóc đặc biệt, và trang bị cần thiết cho việc theo dõi và điều trị sức khỏe.Môi trường xanh và thoáng đãng: Khuôn viên cây xanh, không gian mở và thoáng đãng, thích hợp cho hoạt động ngoại khóa và nghỉ ngơi.Thân thiện và linh hoạt: Cấu trúc và nội thất linh hoạt, thân thiện với người già và dễ dàng thích nghi với nhu cầu đặc biệt.4. Dự án xây dựng viện dưỡng lão là gì?Dự án xây dựng viện dưỡng lão là một kế hoạch chi tiết về việc thiết kế, xây dựng và phát triển một cơ sở chăm sóc người cao tuổi. Dự án bao gồm các phần như việc lựa chọn vị trí, thiết kế kiến trúc, ước tính chi phí, phương án tài chính, xin cấp phép, và lập kế hoạch vận hành. Mục tiêu là tạo ra một môi trường sống thoải mái, an toàn và thân thiện cho người cao tuổi, đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh tế và tuân thủ các quy định pháp lý.5. Thiết kế viện dưỡng lão cần lưu ý những gì?Khi thiết kế viện dưỡng lão, cần lưu ý:Sự tiện lợi và an toàn: Đảm bảo dễ dàng di chuyển, tránh trượt ngã, và có hệ thống báo động và giám sát.Không gian sống cá nhân và cộng đồng: Tạo ra không gian riêng tư cho mỗi cư dân, cũng như không gian chung để giao lưu và hoạt động.Chăm sóc y tế: Thiết kế phòng khám, khu vực chăm sóc sức khỏe và trang bị thiết bị y tế cần thiết.Môi trường và cảnh quan: Tạo môi trường xanh, sạch và thoáng đãng, thích hợp cho việc nghỉ ngơi và hoạt động của người già.Linh hoạt và phát triển bền vững: Kiến trúc và nội thất cần linh hoạt để thích ứng với nhu cầu thay đổi và đảm bảo sử dụng bền vững.6. Vận hành viện dưỡng lão cần những gì?Vận hành viện dưỡng lão đòi hỏi:Nhân sự chuyên nghiệp: Tuyển dụng và đào tạo đội ngũ chăm sóc sức khỏe, hỗ trợ sinh hoạt và quản lý.Chăm sóc y tế và sức khỏe: Thiết lập hệ thống chăm sóc y tế, theo dõi sức khỏe và phản ứng nhanh chóng khi có sự cố.Hoạt động và giải trí: Tổ chức các hoạt động giải trí, văn hóa và thể chất phù hợp với nhu cầu và sở thích của người cao tuổi.Quản lý cơ sở vật chất: Bảo trì và cập nhật cơ sở vật chất, đảm bảo môi trường sống sạch sẽ, an toàn và thoải mái.Hỗ trợ tâm lý và tinh thần: Cung cấp dịch vụ tư vấn và hỗ trợ tâm lý cho người cao tuổi và gia đình họ. 
avatar
Nguyễn Mai Phương
367 ngày trước
Bài viết
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam
4.3.  Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt NamThứ nhất, đẩy mạnh truyền thông về NKT, tuyên truyền, phổ biến, chính sách, pháp luật về quyền của NKT.Để hình thành nhận thức đúng về NKT và quyền của NKT thì nhà nước và xã hội cần đẩy mạnh thông tin về NKT, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi, thường xuyên các chính sách, pháp luật về quyền của NKT. Thông qua truyền thông, mọi người hiểu hơn về NKT, quyền lợi của NKT, khả năng của NKT. Để hoạt động truyền thông về NKT đạt hiệu quả cần đa dạng hoá nội dung, hình thức tuyên truyền.Kỳ thị và phân biệt đối xử với NKT vẫn tồn tại phổ biến trong xã hội, nhiều NKT còn tự ti, mặc cảm, khó hoà nhập cộng đồng. Truyền thông sẽ góp phần quan trọng thay đổi nhận thức xã hội, hình thành suy nghĩ tích cực về NKT. Thường xuyên đưa tin về những tấm gương NKT với nghị lực phi thường, vượt qua những khiếm khuyết của cơ thể, sự kỳ thị của xã hội để vươn lên học tập, lao động, khẳng định giá trị bản thân và đóng góp cho xã hội. Từ đó, dần dần sẽ thay đổi tư duy của mỗi người về khả năng và sự đóng góp của NKT và bản thân mỗi NKT sẽ tích cực vươn lên, tự tin làm chủ cuộc sống, khắc phục tâm lý ỷ lại vào gia đình, xã hội và nhà nước.Thường xuyên, liên tục tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền của NKT để nâng cao ý thức, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức, NLĐ và toàn thể xã hội về công tác NKT. Qua đó, mọi người hiểu rằng công tác NKT là thực hiện quyền con người của NKT chứ không phải việc làm từ thiện. Đồng thời, NKT cũng biết được các quyền và nghĩa vụ mà mình được hưởng cũng như phải thực hiện. NKT sẽ chủ động tiếp cận quyền, thụ hưởng quyền và bảo vệ quyền của mình.Bảo đảm quyền của NKT trong lĩnh vực ASXH không phải trách nhiệm của riêng nhà nước mà đây là trách nhiệm của toàn xã hội. Do đó, để nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn xã hội thì các biện pháp truyền thông cần đa dạng, phạm vi tác động từ hẹp đến rộng, mức độ tác độ từ nông đến sâu. Phổ biến nhất, phạm vi tiếp cận rộng rãi nhất là truyền hình, truyền thanh, sách, báo, tờ rơi, khẩu hiệu. Những phương tiện này có thể đưa tin về những tấm gương NKT, xây dựng các tiểu phẩm về NKT, xuất bản các tác phẩm văn hoá về NKT, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về NKT, biểu dương các sáng kiến hữu ích trợ giúp NKT, tuyên truyền chính sách pháp luật về NKT. Phạm vi hẹp hơn nhưng chuyên sâu hơn có thể tổ chức hội thảo, tọa đàm, tập huấn nâng cao nhận thức, tư vấn pháp luật cho gia đình NKT, bản thân NKT, cán bộ viên chức, NSDLĐ, cộng đồng dân cư. Đối với tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật với NKT cần có phương thức phù hợp. Tài liệu tuyên truyền dành cho NKT nhìn cần ở dạng chữ nổi, chương trình dành cho NKT nghe cần có phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu.Thứ hai, tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời hành vi xâm phạm quyền của người khuyết tật.Quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi xâm phạm quyền của NKT trong các lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ, trợ giúp xã hội, bảo hiểm xã hội, việc làm, giáo dục, giao thông, công nghệ thông tin và truyền thông, văn hoá, thể dục thể thao, giải trí và du lịch.Cán bộ làm công tác quản lý nhà nước cần nhanh nhạy phát hiện hành vi vi phạm, nắm chắc các quy định pháp luật để xử lý nhanh chóng, chính xác. Những hành vi xâm hại quyền của NKT nên được xử lý công khai, thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để giáo dục và thay đổi nhận thức, thái độ, thay đổi ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với NKT.Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức của NKT và vì NKT được thành lập và hoạt động hiệu quả.Hội NKT được thành lập và hoạt động hiệu quả sẽ góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật về quyền NKT; tham gia xây dựng chính sách pháp luật về quyền NKT; thúc đẩy, giám sát thực thi chính sách; tạo môi trường giao lưu học hỏi, tạo điều kiện giúp NKT hoà nhập cuộc sống.Ở Việt Nam hiện nay, nhiều tổ chức của NKT được thành lập và hoạt động hiệu quả. Các hội thành viên cấp trung ương có hội người mù Việt Nam; Liên hiệp hội NKT Việt Nam; Hiệp hội Doanh nghiệp Thương binh và NKT Việt Nam; Hiệp hội thể thao của NKT Việt Nam; Hội bảo trợ NKT và trẻ mồ côi Việt Nam; Hội nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam; Hội phục hồi chức năng Việt Nam... Ở địa phương có hội của NKT cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Nhiều câu lạc bộ được thành lập trực thuộc các hội như câu lạc bộ cha mẹ trẻ khuyết tật; câu lạc bộ phụ nữ khuyết tật, câu lạc bộ thanh niên khuyết tật...Nhà nước cần đề cao trách nhiệm và sự chủ động của tổ chức NKT trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ, các phong trào, các cuộc vận động trong NKT. Khi xây dựng pháp luật, chính sách liên quan đến NKT phải thông báo rộng rãi, tổ chức lấy ý kiến đóng góp của đại diện các tổ chức của NKT.Cơ quan quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực lao động cần tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích thành lập và thúc đẩy hoạt động của các tổ chức của NKT và vì NKT. Xây dựng các chính sách, huy động nguồn lực tài chính, nhân lực để hỗ trợ hoạt động của tổ chức NKT. Ngoài ra, cơ quan nhà nước cần tạo cầu nối thúc đẩy quan hệ phối hợp giữa tổ chức NKT trong nước với tổ chức NKT nước ngoài để tăng cường trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ, giúp đỡ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.Theo: Nguyễn Thị Thu Hường Link luận án: Tại đây
avatar
Nguyễn Mai Phương
367 ngày trước
Bài viết
Hoàn thiện về bảo đảm quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam
4.2.1.  Kiến nghị hoàn thiện về bảo đảm quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam4.2.1.1.    Kiến nghị hoàn thiện về bảo đảm quyền của người khuyết tật bằng biện pháp xã hộiThứ nhất, Luật NKT và văn bản hướng dẫn cần sửa đổi, bổ sung một số quy định sau:Một là, Luật NKT cần bổ sung quy định về “nâng cao nhận thức về quyền của người khuyết tật”. Để thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi xã hội về vấn đề khuyết tật, cũng như chống kỳ thị, phân biệt đối xử NKT thì cần có quy định cụ thể về việc nâng cao nhận thức về quyền của NKT. Điều luật này phải thể hiện được phạm vi đối tượng cần nâng cao nhận thức về quyền của NKT và những biện pháp có thể thực hiện để nâng cao nhận thức về quyền của NKT. Bao gồm một số nội dung chính như sau: Nâng cao nhận thức toàn thể xã hội về NKT và quyền của NKT, tăng cường nhận thức về năng lực, thành tích của NKT và đấu tranh với những định kiến tiêu cực về NKT. Các biện pháp cụ thể cần thực hiện gồm: khuyến khích hiểu biết và nhận thức tích cực về NKT; khuyến khích thái độ tôn trọng quyền của NKT.Hai là, văn bản hướng dẫn Luật NKT cần quy định cụ thể về những hình thức hỗ trợ của nhà nước trong việc thu thập, biên soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi Braille dành cho NKT nhìn, tài liệu đọc cho NKT nghe, nói và NKT trí tuệ..Ba là, bổ sung quy định về tạo “điều kiện hợp lý” và “thiết kế phổ dụng”.Luật NKT cần bổ sung quy định về “điều kiện hợp lý”, “thiết kế phổ dụng” để tạo cách hiểu cho các chủ thể có trách nhiệm đảm bảo môi trường tiếp cận với NKT. Điều kiện hợp lý là sự thay đổi hoặc chỉnh sửa không gây ra gánh nặng quá mức cần thiết, để đảm bảo cho NKT được thực hiện quyền trên cơ sở bình đẳng với những người khác. Thiết kế phổ dụng là thiết kế sản phẩm, dịch vụ, môi trường để mọi người đều có thể sử dụng ở mức tối đa mà không cần cải tạo lại hoặc thiết kế chuyên biệt.Bốn là, mở rộng phạm vi cán bộ, nhân viên được đào tạo làm trong lĩnh vực NKT.Luật NKT cần quy định khái quát “tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn làm việc trong lĩnh vực người khuyết tật”. Quy định như vậy sẽ bảo đảm không chỉ đội ngũ bác sỹ, giáo viên mà còn các chủ thể làm việc trong các lĩnh vực khác như trợ giúp xã hội, xây dựng, giao thông, dịch vụ thể dục, thể thao, giải trí, du lịch ... cũng nhận được sự đầu tư từ phía nhà nước để đảm bảo số lượng, chất lượng, có khả năng cung ứng các dịch vụ tiếp cận cho NKT.Thứ hai, văn bản pháp luật về tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam cần sửa đổi, bổ sung để tăng cơ hội cho NKT tiếp cận với các công trình xây dựng.Cần rà soát lại các văn bản Quy chuẩn xây dựng để quy định có sự thống nhất về tên gọi và nội dung. Đổi tên các văn bản về tiêu chuẩn xây dựng, thay thuật ngữ “người tàn tật”  bằng thuật ngữ “người khuyết tật”. Đồng thời, những quy định về quy chuẩn xây dựng tiếp cận với NKT chỉ cần quy định thống nhất trong một văn bản mà không cần đến 5 văn bản  quy định như hiện nay. Một văn bản chứa đựng đầy đủ các quy chuẩn về công trình xây dựng, đường hè phố, nhà ở... tiếp cận với NKT thì sẽ dễ dàng cho các chủ thể trong quá trình áp dụng.Để NKT có thể tiếp cận trọn vẹn với các công trình xây dựng thì cần bổ sung thêm một số quy định vào bộ tiêu chuẩn như quy định các tiêu chuẩn của các khu vui chơi để đảm bảo NKT có thể tiếp cận với các trò chơi; tiêu chuẩn đối với khu giảng dạy, huấn luyện và thi đấu, khu phục vụ vận động viên, khu tập luyện phát triển tố chất thể lực (phòng luyện tập bổ trợ) trong các công trình thể thao.Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 4391:2015 về khách sạn – Xếp hạng cần bổ sung thêm một số tiêu chí để xếp hạng khách hạng từ một sao đến năm sao như quy định các tiêu chí cơ bản như lối vào, cửa, thang máy tiếp cận, tỷ lệ phòng tiếp cận với NKT dùng xe lăn trên tổng số phòng tại khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ...Thứ ba, văn bản pháp luật về giao thông cần sửa đổi, bổ sung để tăng cơ hội tiếp cận giao thông của NKT.Một là, bổ sung quy định riêng về giấy phép lái xe của NKT . Trường hợp NKT sử dụng xe mô tô ba bánh hoặc xe ô tô dùng cho NKT để tập lái và sát hạch thì trên giấy phép lái xe cấp cho NKT phải thể hiện được NKT chỉ được sử dụng phương tiện này để tham gia giao thông mà không được sử dụng phương tiện giao thông khác. Quy định như vậy đảm bảo an toàn giao thông, tránh trường hợp NKT học và sát hạch bằng xe dành cho NKT nhưng khi có bằng lái lại sử dụng phương tiện khác để tham gia giao thông.Hai là, bổ sung quy định về điều kiện xe ô tô tập lái và sát hạch của NKT.Để trung tâm đào tạo và sát hạch lái xe có cơ sở xác định xe NKT sử dụng để học và sát hạch có đảm bảo an toàn hay không thì Nghị định số 138/2018/NĐ-CP và Nghị định số 65/2016/NĐ-CP quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đào tạo lái xe ô tô và dịch vụ sát hạch lái xe cần có quy định cụ thể về tiêu chuẩn xe của NKT được sử dụng để học và thi sát hạch. Đồng thời Thông tư số 85/2014/TT- BGTVT quy định về cải tạo phương tiện giao thông cơ giới đường bộ cần bổ sung thêm quy định về điều kiện việc cải tạo xe cơ giới (bao gồm cả xe mô tô, xe gắn máy, xe ô tô) thành xe dành cho NKT.Ba là, xây dựng bộ tiêu chuẩn về phương tiện giao thông tiếp cận với NKT.Để NKT có thể tiếp cận với nhiều phương tiện giao thông công cộng thì bên cạnh việc quy định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ô tô khách thành phố từ 17 chỗ ngồi trở lên (xe buýt) và tàu hoả thì nhà nước cần ban hành thêm văn bản Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với một số phương tiện giao thông công cộng như taxi, xe khách liên tỉnh, tàu thuỷ, phà... Bộ tiêu chuẩn này sẽ là cơ sở pháp lý để các tổ chức, cá nhân kinh doanh, quản lý phương tiện giao thông công cộng có trách nhiệm cải tạo phương tiện vận tải đảm bảo tiếp cận với NKT.Thứ tư, văn bản quy định về công nghệ thông tin, sản phẩm văn hoá cần sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cơ hội tiếp cận của NKT.Thông tư số 26/2020/TT-BTTT quy định áp dụng tiêu chuẩn, công nghệ hỗ trợ NKT tiếp cận, sử dụng sản phẩm, dịch vụ thông tin và truyền thông cần mở rộng phạm vi kênh chương trình truyền hình tiếp cận với NKT. Không chỉ chương trình thời sự mà còn có chương trình giải trí khác như phim, truyền hình thực thế, game show, du lịch... cũng phải áp dụng công nghệ hỗ trợ phụ đề, ngôn ngữ ký hiệu. Trước mắt, nên quy định đài truyền hình trung ương cần có tối thiểu một chương trình giải trí tiếp cận với NKT nghe và khuyến khích áp dụng đối với đài truyền hình địa phương. Trong tương lai, đài truyền hình trung ương phải có một kênh với đầy đủ các thông tin từ thời sự đến giải trí được áp dụng công nghệ hỗ trợ phụ đề, ngôn ngữ ký hiệu.Theo: Nguyễn Thị Thu Hường Link luận án: Tại đây
avatar
Nguyễn Mai Phương
367 ngày trước
Bài viết
Hoàn thiện quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam
4.1. Kiến nghị hoàn thiện quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam4.1.1.  Kiến nghị hoàn thiện về ghi nhận quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam4.1.1.1.   Kiến nghị hoàn thiện về ghi nhận quyền được bảo vệ thu nhập của người khuyết tậtThứ nhất, Luật NKT cần sửa đổi, bổ sung một số quy định sau:Một là, Khoản 1 Điều 51 Luật NKT năm 2010 sửa đổi theo hướng cho phép NKT nặng và đặc biệt nặng đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng vẫn được hưởng chính sách TCXH hàng tháng. Quy định như vậy sẽ đảm bảo nguyên tắc có đóng có hưởng trong BHXH cũng như đảm bảo nguồn thu nhập cho NKT.Hai là, bổ sung quy định về duy trì việc làm và hỗ trợ NKT tiến bộ trong công việc. Để phù hợp với Công ước số 159 về tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm của NKT năm 1983 và Công ước quốc tế về quyền của NKT thì Luật NKT cần bổ sung quy định về duy trì việc làm và hỗ trợ NKT tiến bộ trong công việc. Không chỉ quy định ghi nhận NKT có quyền có việc làm mà còn có quyền được duy trì việc làm và tiến bộ trong công việc nhằm mục tiêu NKT được hoà nhập và tái hoà nhập xã hội. Chính sách thích ứng nghề nghiệp phải phù hợp với loại khuyết tật và có những biện pháp cụ thể để triển khai thực hiện.Thứ hai, Luật BHXH cần sửa đổi nhằm tạo cơ hội cho NKT được thuận lợi hưởng các chế độ trợ cấp BHXH. Để tránh việc NKT nặng và đặc biệt nặng phải thực hiện thủ tục “Xác định mức độ suy giảm khả năng lao động” để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức thấp hơn thì Luật BHXH cần công nhận NLĐ khuyết tật đặc biệt nặng được hưởng quyền lợi hưu trí như NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; NKT nhẹ được hưởng quyền lợi hưu trí như NLĐ suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 81%.4.1.1.2.  Kiến nghị hoàn thiện về ghi nhận quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của người khuyết tậtThứ nhất, Luật NKT cần sửa đổi, bổ sung một số quy định sau:Một là, bổ sung ghi nhận quyền chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho NKT trong Luật NKT. Quyền được chăm sóc sức khoẻ sinh sản là quyền thiết yếu đối với mỗi con người và trong đó có NKT. Ghi nhận quyền này trong Luật NKT sẽ đảm bảo pháp luật Việt Nam có sự tương thích với CRPD đồng thời tạo cơ sở pháp lý để thực thi quyền chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho NKT. Đi cùng với việc ghi nhận quyền thì Luật NKT cũng cần quy định các biện pháp cụ thể để bảo đảm thực hiện quyền chăm sóc sức khoẻ sinh sản của NKT về giá thành, chất lượng dịch vụ, cơ sở vật chất, nội dung/hình thức các chương trình giới và sức khoẻ sinh sản phù hợp với NKT nam và NKT nữ cũng như phù hợp với từng dạng khuyết tật.Hai là, bổ sung ghi nhận NKT không bị kỳ thị, phân biệt đối xử trong khám bệnh, chữa bệnh. Mặc dù trong Luật NKT và các văn bản pháp luật liên quan đến khám bệnh, chữa bệnh đối với NKT không có quy định nào thể hiện sự bất bình đẳng với NKT nhưng cũng không có quy định nào ghi nhận quyền NKT không bị kỳ thị, phân biệt đối xử trong khám bệnh, chữa bệnh. Bản thân NKT thường có sức khoẻ yếu hơn nên nhu cầu được khám bệnh chữa bệnh thường cao hơn người bình thường. Thực tế còn nhiều rào cản khiến NKT được tiếp cận quyền khám bệnh, chữa bệnh nên việc ghi nhận rõ quyền này trong luật sẽ tạo hành lang pháp lý để có những biện pháp để xoá bỏ sự kỳ thị, phân biệt trong khám bệnh, chữa bệnh đối xử với NKT.Ba là, bổ sung ghi nhận NKT có quyền khám bệnh, chữa bệnh trên cơ sở đồng ý tự nguyện và có hiểu biết. Cần quy định rõ về việc NKT có quyền được biết trước và trong quá trình điều trị bằng thuốc, phẫu thuật và các biện pháp can thiệp lên cơ thể NKT. NKT có quyền được cung cấp đầy đủ thông tin về việc điều trị, thông qua hình thức và ngôn ngữ phù hợp để NKT có thể hiểu. Khi đã có hiểu biết về việc điều trị trên cơ thể mình, NKT có quyền đồng ý hoặc từ chối với những phương pháp điều trị đó. Sự đồng ý điều trị phải đảm bảo NKT hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, nhầm lẫn hay bị xúi giục để tham gia vào quá trình điều trị. Đối với NKT chưa thành niên, NKT tâm thần hoặc những dạng khuyết tật khác dẫn đến không có/hạn chế khả năng nhận thức thì người giám hộ của NKT phải biết và đồng ý về việc khám bệnh, chữa bệnh đối với NKT.Bốn là, làm rõ quy định về việc đưa NKT tâm thần đi chữa trị bắt buộc. Để bảo đảm sự an toàn cho xã hội và bản thân NKT, những NKT mắc bệnh tâm thần ở trạng thái kích động, trầm cảm, có ý tưởng, hành vi tự sát hoặc gây nguy hiểm cho người khác thì bắt buộc chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Hiện nay, Luật NKT chưa quy định về chủ thể có quyền quyết định đưa NKT tâm thần đi chữa bệnh bắt buộc cũng như điều kiện, thủ tục để chấm dứt việc chữa bệnh bắt buộc. Trong trường hợp NKT tâm thần không có khả năng nhận thức thì nên quy định người đại diện theo pháp luật của họ cùng với bác sỹ có trình độ về sức khoẻ tâm thần có quyền yêu cầu toà án nhân dân xem xét, ra quyết định đưa NKT tâm thần đi chữa bệnh bắt buộc hay chấm dứt việc chữa bệnh bắt buộc. Bệnh án phải ghi rõ tên người quyết định đưa bệnh nhân đi chữa bệnh bắt buộc.Năm là, bổ sung quy định về điều kiện của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được áp dụng các biện pháp kìm hãm về thể xác và bắt buộc cách ly đối với NKT tâm thần. Luật NKT cần quy định về những trường hợp, thời hạn cũng như trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được áp dụng các biện pháp kìm hãm về thể xác và bắt buộc cách ly đối với NKT tâm thần.Sáu là, bổ sung quy định NKT có quyền được PHCN thông qua hỗ trợ đồng đẳng. Thông qua những NKT có kiến thức, kinh nghiệm về PHCN sẽ hỗ trợ, hướng dẫn cho những NKT cùng PHCN là một giải pháp rất gần gũi, chi phí hợp lý và hiệu quả. Luật NKT ghi nhận quyền này sẽ tạo cơ sở pháp lý để quy định những giải pháp phát triển, mở rộng mô hình PHCN thông qua hỗ trợ đồng đẳng.Thứ hai, Luật Khám bệnh, chữa bệnh cần bổ sung, sửa đổi như sau:Sửa đổi quy định về ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh cho NKT. Để mở rộng đối tượng NKT được ưu tiên trong khám bệnh, chữa bệnh và thống nhất với Luật NKT thì Luật Khám bệnh, chữa bệnh cần quy định“Ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh đối với trường hợp cấp cứu, trẻ em dưới 6 tuổi, người từ đủ 80 tuổi trở lên, người có công với cách mạng, phụ nữ có thai, NKT đặc biệt nặng, NKT nặng, trẻ em khuyếttật, ngườ i cao tuổi khuyết tâṭ ”. Đồng thời, Luật Khám bệnh, chữa bệnh cũng cần quy định rõ các quyền ưu tiên chung đối với NKT và quyền ưu tiên riêng đối với từng dạng khuyết tật và mức độ khuyết tật. Các quyền ưu tiên trong khám bệnh, chữa bệnh dành cho NKT có thể kể đến như ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh trước người khác; được ưu tiên trong quá trình đón tiếp bệnh nhân; ưu tiên cấp phát các loại thuốc đặc trị riêng; khám sức khoẻ định kỳ 1 – 2 lần/năm...Thứ ba, Luật BHYT cần bổ sung, sửa đổi một số quy định sau:Một là, Luật BHYT cần mở rộng đối tượng được nhà nước đóng hoặc hỗ trợ đóng BHYT có NKT nhẹ. Thực tế thì nhu cầu được cấp BHYT của NKT nhẹ là rất lớn bởi qua khảo sát cho thấy có 82% NKT nhẹ có cuộc sống không ổn định, khi 23% trong số đó không có khả năng lao động và 59% có việc làm bấp bênh. 95% NKT nhẹ chưa có thẻ BHYT đều đánh giá chi phí khám chữa bệnh là “cao và rất cao” so với khả năng kinh tế của họ. Do đó, nhà nước cần hỗ trợ phí đóng BHYT cho NKT nhẹ. Để không tạo gánh nặng cho ngân sách nhà nước thì cần quy định lộ trình nhà nước hỗ trợ đóng quỹ BHYT cho NKT nhẹ. Trước mắt, nên quy định NKT nhẹ được ngân sách nhà nước hỗ trợ đóng BHYT với mức hỗ trợ 30% (bằng mức hỗ trợ cho học sinh, sinh viên). Về sau sẽ quy định nhà nước đóng phí BHYT cho NKT (không phân biệt mức độ khuyết tật).Theo: Nguyễn Thị Thu Hường Link luận án: Tại đây
avatar
Nguyễn Mai Phương
367 ngày trước
Bài viết
Kiến nghị hoàn thiện quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam.
4.1. Những yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả thực thiThứ nhất, đảm bảo phù hợp với định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách an sinh xã hội đối với người khuyết tật.Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến vấn đề ASXH của toàn thể nhân dân. Kể từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001) đến nay, thuật ngữ ASXH đã luôn được Đảng ta đề cập tới trong các Nghị quyết Đại hội. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021- 2030 “... chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”.Đảng ta đặc biệt quan tâm bảo đảm ASXH cho NKT. Các chính sách của Đảng đều nhằm chăm lo, bảo đảm quyền và phát huy vai trò của NKT, ngày càng nâng cao hơn đời sống vật chất, tinh thần của NKT, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội..Đặc biệt, Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI (Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan điểm rõ ràng “Bảo đảm an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. Phấn đấu đến năm 2020, cơ bản bảo đảm ASXH toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân. Để bảo đảm ASXH, Đảng xác định rõ nhiệm vụ bảo đảm về việc làm, thu nhập và giảm nghèo; bảo đảm về BHXH; bảo đảm về trợ  giúp xã hội những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; bảo đảm mức sống tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản. Riêng đối với bảo đảm ASXH của NKT, Đảng đặc biệt lưu tâm tới vấn đề trợ giúp xã hội. Theo đó, cần “nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội, tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước”, “tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội”, “Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội, phát triển mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc người khuyết tật”.Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đối với công tác NKT, Ban chấp hành trung ương Đảng khoá XII ban hành chỉ thị số 39-CT/TW ngày 01/11/2019 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác NKT. Chỉ thị số 39/CT-TW đã chỉ rõ những nguyên nhân của những hạn chế và từ đó đưa ra năm nhiệm vụ cụ thể cần triển khai:Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, các cơ quan, tổ chức và nhân dân trong thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về trợ giúp NKT;Hai là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong thực hiện chính sách, pháp luật về NKT;Ba là, đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động trợ giúp NKT;Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội đối với các tổ chức của NKT;Năm là, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức của NKT.Để việc tổ chức nghiên cứu, quán triệt sâu rộng và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị số 39-CT/TW, tạo chuyển biến rõ rệt về nhận thức, trách nhiệm, hành động của các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân về công tác NKT, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 753/QĐ-TTg ngày 03/06/2020 ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện Chỉ thị số 39-CT/TW. Kế hoạch đưa ra 6 nhiệm vụ cần thực hiện: Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về NKT; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong thực hiện chính sách, pháp luật về NKT đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động trợ giúp NKT; Phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội đối với các tổ chức của NKT; Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức của NKT; Thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, khen thưởng.Chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác NKT là kim chỉ nam cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền của NKT ở Việt Nam. Để pháp luật trở thành công cụ hữu hiệu ghi nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền của NKT thì pháp luật Việt Nam phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng.Thứ hai, đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam trong từng giai đoạn.Quy định pháp luật ASXH của NKT phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ở thời điểm hiện tại và trong tương lai. Bởi kinh tế - xã hội là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của các chính sách ASXH. Nếu các tiêu chuẩn ASXH đặt ra quá cao mà cơ sở kinh tế - xã hội lại thấp sẽ không khả thi, khó thực hiện trên thực tế, nhưng tiêu chuẩn ASXH quá thấp sẽ không đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của NKT.Sự thay đổi về kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7 lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỉ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá). Số liệu sơ bộ cho thấy GDP thực tăng khoảng 7% trong năm 2019, gần với tỉ lệ tăng trưởng năm 2018 và Viêt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực. Năm 2020 với sự ảnh hưởng của dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19) bùng phát mạnh trên phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tăng trưởng GDP năm 2020 đạt thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020 nhưng Việt Nam là một trong ba quốc gia ở châu Á có mức tăng trưởng tích cực trong năm nay; quy mô nền kinh tế nước ta đạt hơn 343 tỷ USD, Việt Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á.Theo: Nguyễn Thị Thu Hường Link luận án: Tại đây
avatar
Nguyễn Mai Phương
367 ngày trước
Bài viết
Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong việc bảo vệ người khuyết tật
3.2.1. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong việc bảo vệ người khuyết tậtThứ nhất, về thực thi quyền được bảo đảm về thu nhậpMặc dù nhà nước có nhiều chính sách để hỗ trợ, tạo việc làm cho NKT nhưng thực tế thì tỷ lệ NKT có việc làm còn thấp. Hiện nay, thống kê chỉ có 31,74% NKT trong độ tuổi lao động có việc làm, tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với người không khuyết tật là 82,38%.Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ NKT có việc làm thấp là nhiều người vẫn có thái độ tiêu cực về việc tuyển dụng NKT. Họ cho rằng NKT không có khả năng hoặc tuyển dụng NKT sẽ tốn nhiều chi phí để cải tạo điều kiện lao động. Trong số những người được hỏi về việc thuê lao động NKT thì 54,8% số người được hỏi cho rằng NSDLĐ sẽ không thuê NKT, 24,4% cho rằng NSDLĐ mong muốn thuê NKT; 1,4% cho rằng NSDLĐ thích thuê NKT hơn người không khuyết tật .NKT có trình độ học vấn thấp cũng là nguyên nhân dẫn đến không có việc làm. Phần lớn NKT, đặc biệt là NKT ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa có trình độ học vấn thấp, tỷ lệ NKT trong độ tuổi lao động biết chữ là 21,93% và được đào tạo nghề là 7,25%. Nhiều khi NKT đáp ứng được yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ nhưng lại gặp phải những rào cản ở nơi làm việc như không có lối vào, thang máy, nhà vệ sinh không tiếp cận với NKT dùng xe lăn, bàn làm việc không phù hợp...Bên cạnh đó, các chính sách vay vốn giải quyết việc làm chưa thực sự hiệu quả. Ngân hàng chính sách có nhiều chương trình tín dụng dành cho đối tượng chính sách xã hội nhưng chưa có nguồn vốn vay riêng dành cho cá nhân NKT. Tỷ lệ NKT được tham gia vay vốn này thường hạn chế. Nguyên nhân là do NKT thiếu thông tin, kiến thức về chính sách ưu đãi của nhà nước. Muốn vay vốn, NKT phải thông qua tổ chức hội/nhóm có tư cách pháp nhân đứng ra bảo lãnh. Nếu NKT không thuộc tổ chức hội/nhóm thì không thể tiếp cận với nguồn vốn vay.Tỷ lệ NKT tham gia BHXH rất thấp, chỉ 8,7% NKT tham gia BHXH bắt buộc, 2,1% tham gia bảo hiểm tự nguyện. Tỷ lệ NKT tham gia BHXH thấp là do tỷ lệ NKT có việc làm thấp hoặc nếu có việc làm thì NKT thường làm công việc giản đơn, theo thời vụ, làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ lẻ, hộ gia đình nên ít NKT được tham gia BHXH. Bên cạnh đó, do thu nhập thấp và hiểu biết hạn chế về quyền lợi khi tham gia BHXH nên NKT chưa có ý thức tham gia BHXH.Thứ hai, về thực thi quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khoẻChất lượng khám, chữa bệnh ban đầu ở trạm y tế cấp xã thấp, điều kiện cơ sở vật, máy móc, thiết bị còn thiếu và chưa đáp ứng được nhu cầu của NKT. Hầu hết các cơ sở y tế cấp xã thiếu người có chuyên môn, kinh nghiệm về khám, chữa bệnh cho NKT. Kết cấu hạ tầng lẫn trang thiết bị phục vụ cho việc khám, chữa bệnh tại các tuyến y tế cấp xã luôn trong tình trạng thiếu trầm trọng. Chỉ 6,5% số trạm y tế cấp xã có đủ số phòng theo chuẩn; 30% còn thiếu trang thiết bị cơ bản theo yêu cầu; hầu hết các trạm đều thiếu các thuốc trong danh mục, kể cả các thuốc cho điều trị các bệnh mãn tính, thông thường.Cơ sở y tế xây dựng chưa đúng tiêu chuẩn tiếp cận với NKT cũng là nguyên khiến NKT gặp nhiều khó khăn trong quá trình khám, chữa bệnh. Chỉ có 16,9% trạm y tế cấp xã có thiết kế phù hợp với tiêu chuẩn tiếp cận với NKT; 41,7% trạm y tế có lối đi, đường dốc dành cho NKT và 22,4% trạm y tế có công trình vệ sinh thiết kế phù hợp cho NKT. Bệnh viện không có đường dành riêng cho xe lăn nên những NKT vận động phải dùng xe lăn đi vào sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không có người hỗ trợ. Nhân viên y tế không có khả năng sử dụng ngôn ngữ ký hiệu, nên gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận thông tin từ các bệnh nhân khuyết tật nghe/nói...Quyền được chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho NKT chưa được thực hiện đầy đủ. Có 76% NKT được hỏi chưa bao giờ đi khám hay tư vấn về sức khoẻ sinh sản. Đặc biệt đối với NKT nam có kiến thức về sức khoẻ sinh sản rất hạn chế. Họ cho rằng, các buổi trao đổi về thông tin sức khoẻ sinh sản chủ yếu mời NKT nữ đến dự. NKT vận động thường được tiếp cận thông tin về sức khoẻ sinh sản tốt hơn NKT nghe/nói, NKT nhìn, NKT chiều cao, NKT trí tuệ. Bên cạnh đó, NKT nghe/nói gặp nhiều khó khăn giao tiếp với bác sỹ trong quá trình chăm sóc sức khoẻ sinh sản, NKT nhìn, NKT vận động gặp khó khăn khi tiếp cận cơ sở y tế.Các cơ sở y tế đều có khoa/phòng PHCN nhưng NKT vẫn gặp nhiều trở ngại khi tiếp cận dịch vụ này. Công tác PHCN bộc lộ nhiều hạn chế như thiếu kinh phí, nhân lực về PHCN còn mỏng, nhất là nhân lực có trình độ cao, chuyên sâu, dịch vụ PHCN không đầy đủ. Theo nghiên cứu đánh giá nhu cầu đào tạo Kỹ thuật PHCN tại Việt Nam năm 2019 của Trường Đại học Y tế Công cộng cho thấy hiện cả nước ước tính thiếu hụt khoảng 10.000 kỹ thuật viên PHCN được đào tạo bài bản.Thứ ba, về thực thi quyền được trợ giúp xã hộiQuyền được trợ giúp xã hội của NKT được pháp luật ghi nhận đầy đủ nhưng thực thi còn nhiều bất cập. Còn tình trạng trợ cấp sai đối tượng, nhiều trường hợp cán bộ cấp xã không chi trả hoặc chi trả không đủ trợ cấp; nhiều địa phương xác định sai hệ số trợ cấp cho NKT. Nhiều cơ sở trợ giúp xã hội xây dựng từ lâu đã xuống cấp, còn thiếu dụng cụ y tế, trang thiết bị cần thiết để PHCN, còn thiếu các dịch vụ phát hiện sớm, can thiệp sớm, trị liệu, trợ giúp và hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng... các cán bộ, nhân viên chưa qua đào tạo nghề công tác xã hội hoặc được đào tạo từ nhiều nghề khác nhau, làm việc không đúng ngành, nghề đào tạo nên tính chuyên nghiệp còn hạn chế.Theo thống kê, đến nay cả nước có khoảng 100.000 gia đình, cá nhân nhận chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội (trong đó có NKT) tại cộng đồng được hưởng TCXH hàng tháng . So với khoảng 01 triệu NKT nặng và đặc biệt nặng ở Việt Nam hiện nay, thì tỷ lệ NKT được nhận chăm sóc nuôi dưỡng tại cộng đồng vẫn chiếm tỷ lệ thấp.Theo: Nguyễn Thị Thu Hường Link luận án: Tại đây
avatar
Nguyễn Mai Phương
367 ngày trước
Bài viết
Thực thi quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam
3.2.  Thực thi quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam3.2.1. Kết quả đạt đượcThứ nhất, về thực thi quyền được bảo đảm về thu nhập Chính sách hỗ trợ NKT vay vốn tự tạo việc làm được thực hiện hiệu quả, góp phần giải quyết việc làm cho NKT. Ngân hàng Chính sách xã hội hỗ trợ cho 2.277 NKT vay vốn để tạo, duy trì và mở rộng việc làm cho khoảng 7.000 NKT. Riêng Hội người mù Việt Nam được giao gần 51 tỷ triển khai tại 51 tỉnh, thành phố cho gần 10.000 hộ người mù, tạo việc làm ổn định cho trên 13.000 lao động là NKT.Chính sách ưu đãi về tín dụng, về thuế, về mặt bằng sản xuất kinh doanh, hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, môi trường làm việc… dành cho các doanh nghiệp có sử dụng từ 30% trở lên lao động là NKT đã phần nào khuyến khích doanh nghiệp nhận NKT vào làm việc. Hiện cả nước có hơn 2.000 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất có từ 30% tổng số lao động trở lên là NKT được hưởng chế độ ưu đãi. Trên 15.000 lao động là NKT đang làm việc tại hơn 400 cơ sở sản xuất kinh doanh của NKT và khoảng trên 16.000 lao động khuyết tật khác đang làm việc trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, hộ gia đình hoặc tự tạo việc làm.Thứ hai, về thực thi quyền được chăm sóc sức khoẻQuyền được chăm sóc sức khoẻ ban đầu lần đầu tiên được ghi nhận trong Luật NKT năm 2010 đã tạo hành lang pháp lý góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ cho NKT. Thực hiện Chương trình phòng ngừa khuyết tật bẩm sinh, sơ sinh và khuyết tật thứ phát đã sàng lọc cho 8.000 trẻ dưới 6 tuổi và cho 25.000 người nhằm phát hiện sớm các vấn đề về sức khỏe, 810.000 bà mẹ mang thai đạt 58% được khám sàng lọc trước sinh, sàng lọc 494.000 trẻ sơ sinh đạt 40% trẻ sinh ra.Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức phổ thông về chăm sóc sức khoẻ, phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật; hướng dẫn phòng bệnh, tự chăm sóc sức khoẻ cho NKT được trạm y tế cấp xã thực hiện tốt. Tại nhiều địa phương, trạm y tế cấp xã đã tổ chức các đợt khám, theo dõi diễn biến sức khỏe của NKT, tích cực theo dõi số lượng NKT trên địa phương, đề ra các biện pháp để giúp cho NKT có sức khỏe ổn định. Có 90,6% trạm y tế cấp xã có các chương trình giáo dục, phổ biến kiến thức về chăm sóc sức khoẻ cho NKT; 88,3% trạm y tế cấp xã có tài liệu theo dõi NKT  trong đó có 18 tỉnh triển khai toàn bộ các huyện, các xã. Năm 2019 đã hỗ trợ cấp dụng cụ trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình, PHCN cho 6.447 NKT.Với mục tiêu thực hiện BHYT toàn dân, đồng thời nhà nước đóng BHYT cho NKT nặng và NKT đặc biệt nặng nên tỷ lệ NKT có BHYT cao hơn so với người không khuyết tật. Cứ 10 NKT thì có khoảng 9 người có BHYT (90,1%), tương tự với người không khuyết tật thì con số này là 8 người (80,1%). Riêng trong năm 2020 đã cấp thẻ BHYT cho 186.816 NKT. Tỷ lệ NKT được khám bệnh là 69,4%; được điều trị là 57,4%; được cung cấp thuốc là 77,2%.Để đạt được kết quả trên một phần là do trong những năm qua, mạng lưới y tế ở Việt Nam được củng cố, phát triển đã đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám bệnh, chữa bệnh, PHCN và tham gia BHYT của NKT. Hiện nay, cả nước có hơn 700 trung tâm y tế huyện, quận, thị xã; hơn 11.100 trạm y tế xã, phường, thị trấn, trong đó có hơn 60% số trạm y tế đã đạt Tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn 2010 - 2020; 100% số xã có trạm y tế hoặc có phòng khám đa khoa khu vực liên xã; 87,5% số trạm y tế xã có bác sĩ làm việc (bao gồm cả bác sĩ làm việc lâu dài và bác sĩ tuyến trên luân phiên về làm việc hai, ba ngày trong tuần) 152... Hệ thống bệnh viện, trung tâm, các cơ sở chuyên khoa và các khoa PHCN tiếp tục được củng cố và phát triển từ Trung ương đến địa phương với 63 Bệnh viện/Trung tâm PHCN, 100% bệnh viện đa khoa tuyến trung ương và tuyến tỉnh có khoa PHCN. Đối với tuyến huyện hầu hết đều có các tổ, khoa PHCN lồng ghép với khoa Nội hoặc Y học cổ truyền. Tuyến xã hiện nay nhiều xã đã có cán bộ được đào tạo kiến thức cơ bản về PHCN từ 3 tháng trở lên, cung cấp được các dịch vụ PHCN đơn giản ngay tại cộng đồng. Đội ngũ cộng tác viên thôn bản về PHCN cũng được chú trọng đào tạo và hướng dẫn luyện tập cho người bệnh, giúp NKT được PHCN và hòa nhập ngay tại cộng đồng. Năm 2019 đã hỗ trợ cấp dụng cụ trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình, PHCN cho 6.447 NKT153.Bên cạnh đó, tổ chức xã hội, tổ chức của/vì NKT tích cực triển khai các hoạt động trợ giúp y tế cho NKT, góp phần không nhỏ trong công tác chăm sóc sức khoẻ của NKT. Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam đã hỗ trợ 6.992 người phẫu thuật thay thủy tinh thể, 349 NKT phẫu thuật chỉnh hình PHCN, 184 người phẫu thuật tim, cấp thẻ BHYT cho 10.387 NKT, khám bệnh và cấp thuốc miễn phí cho 80.000 NKT và trẻ mồ côi. Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam đã khám sàng lọc và phát thuốc miễn phí 648.741 lượt trẻ; tiếp nhận, nuôi dưỡng và chữa trị cho 1.244 trẻ khuyết tật các dạng tật trí tuệ, tự kỷ, Down, bại não, nhìn, nghe nói....Thứ ba, về thực thi quyền được trợ giúp xã hộiTừ nhiều năm qua, Việt Nam thực hiện chính sách ASXH nhằm bảo đảm NKT có mức thu nhập tối thiểu, nhà nước TCXH hàng tháng cho NKT đặc biệt nặng, NKT nặng; NKT trẻ em và hộ gia đình đang trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc NKT đặc biệt nặng, người nhận nuôi NKT đặc biệt nặng. Tính đến tháng 12 năm 2020 cả nước đang thực hiện TCXH hàng tháng cho 1.096.027 NKT.NKT có hoàn cảnh khó khăn được các gia đình, cá nhân nhận về chăm sóc tại cộng đồng hoặc các cơ sở chăm sóc NKT. Khoảng 100.000 gia đình, cá nhân nhận chăm sóc đối tượng bảo trợ xã hội tại cộng đồng được hưởng TCXH hàng tháng tại cộng đồng. Tổng số NKT được nhận nuôi dưỡng trong các cơ sở bảo trợ xã hội ước tính khoảng gần 20.000 người, bao gồm chủ yếu là trẻ em khuyết tật nặng, người già khuyết tật nặng, NKT dạng tâm thần, trí tuệ.Cơ sở vật chất và nguồn nhân lực phục vụ hoạt động trợ giúp NKT đang ngày càng được hoàn thiện và nâng cao. Đến nay ở Việt Nam có 432 cơ sở bảo trợ xã hội (182 cơ sở công lập và 250 cơ sở ngoài công lập), trong đó 67 cơ sở chuyên nuôi dưỡng và chăm sóc NKT. Tính đến năm 2019, cả nước đã có 55 trường cao đẳng, đại học có đào tạo về công tác xã hội, hàng năm đào tạo hệ chính quy cho khoảng4.500 chỉ tiêu cử nhân công tác xã hội, bồi dưỡng nghiệp vụ cho khoảng 10.000 cán bộ, nhân viên chăm sóc người cao tuổi, NKT. Tổ chức hàng trăm khóa đào tạo, tập huấn ngắn hạn nâng cao năng lực cho hàng chục ngàn lượt cán bộ, nhân viên về công tác xã hội đối với người cao tuổi, NKT.Thứ tư, về thực thi quyền được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bảnQuyền được bình đẳng tiếp cận giáo dụcTrong những năm qua, cùng với sự phát triển giáo dục nói chung, giáo dục trẻ khuyết tật đã đạt được những thành quả quan trọng về nhiều mặt. Số lượng học sinh khuyết tật được đi học trong giai đoạn 2012 – 2020 đã tăng gấp khoảng 10 lần so với giai đoạn 2000 – 2010, đồng thời chất lượng học tập của trẻ khuyết tật được nâng cao, trên 45,8% trẻ khuyết tật được xếp loại học lực trung bình trở lên, tỷ lệ lưu ban, bỏ học ở trẻ em khuyết tật đã giảm đáng kể.Các trường thực hiện tốt quy định pháp luật về ưu tiên trong giáo dục với NKT. Có 61,9% các trường cho phép trẻ khuyết tật nhập học ở độ tuổi cao hơn độ tuổi quy định; 54,3% các trường ưu tiên trong tuyển sinh; 63,9% các trường miễn, giảm một số môn mà học sinh khuyết tật không thể đáp ứng; 45,8% các trường thực hiện miễn, giảm học phí; 57,2% các trường miễn, giảm các khoản đóng góp khác (xây dựng trường...); 25,9% các trường cấp học bổng cho học sinh khuyết tật; 47,1% các trường hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập và 12,7% các trường có những hỗ trợ khác cho NKT.Những kết quả nói trên đạt được là nhờ hệ thống cơ sở giáo dục NKT, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên giảng dạy NKT đang được hình thành và phát triển. Hiện nay, hệ thống trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập có ở 20 tỉnh/thành phố (bao gồm 18 trung tâm cấp tỉnh và cấp huyện, 07 trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật, 97 cơ sở giáo dục chuyên biệt); phát triển được mạng lưới giáo viên dạy trẻ khuyết tật ở 63 tỉnh/thành trong cả nước; biên soạn và cung cấp một số giáo trình, tài liệu phục vụ việc học tập của học sinh khuyết tật.Quyền được bình đẳng tiếp cận giao thôngTrong năm 2019, số lượng NKT được giảm giá vé trong lĩnh vực giao thông đường bộ là 41.236 hành khách, trong lĩnh vực giao thông đường sắt là 8.194 hành khách, trong lĩnh vực giao thông đường hàng không thì Vietnam Airlines bán được 35 vé máy bay giảm giá cho NKT với số tiền giảm cho NKT tương đương 9.623.700 VNĐ. NKT đặc biệt nặng, NKT nặng được giảm tối thiểu 25% giá vé khi tham gia giao thông thủy nội địa. Phương tiện giao thông, cơ sở hạ tầng giao thông đang dần được đầu tư, xây dựng nhằm tạo điều kiện tiếp cận với NKT. Có 30% bến xe khách trong tổng số 457 bến xe ở Việt Nam đã có hạ tầng bảo đảm NKT tiếp cận sử dụng. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, có khoảng 4,8% phương tiện xe buýt đủ tiêu chuẩn và đáp ứng cho NKT tiếp cận, ở các địa phương khác còn thấp hơn. Kết cấu hạ tầng đường sắt đã phần nào tiếp cận với NKT. Các ga khách đường sắt lớn ở Việt Nam đều đã được thiết kế có nhà chờ rộng rãi, được trang bị nhiều ghế ngồi cho khách đợi tàu, có hệ thống loa và hệ thống điện tử thông báo số hiệu chuyến tàu, tình hình giờ tàu đến, tàu đi các ga. Trong lĩnh vực hàng không, các hãng hàng không của Việt Nam luôn quan tâm hỗ trợ hành khách là NKT, có những quy định dành riêng cho việc phục vụ hành khách là NKT. Việt Nam đã đầu tư mua sắm trang thiết bị chuyên dụng bao gồm xe nâng phục vụ trên sân đỗ và các loại xe lăn chuyên dụng phục vụ dưới mặt đất và trên máy bay. Phần lớn các nhà ga hành khách của 22 cảng hàng không Việt Nam đều được thiết kế có đường tiếp cận cho khách là NKT sử dụng xe lăn và nhà vệ sinh cho NKT, ngoại trừ một số cảng hàng không địa phương.Theo: Nguyễn Thị Thu Hường Link luận án: Tại đây
avatar
Nguyễn Mai Phương
367 ngày trước
Bài viết
Thực trạng quyền của người khuyết tật được bảo đảm thực hiện trong pháp luật an sinh xã hội Việt Nam
3.2. Thực trạng quyền của người khuyết tật được bảo đảm thực hiện trong pháp luật an sinh xã hội Việt Nam3.2.1. Biện pháp xã hội3.2.1.1.  Nâng cao nhận thức về người khuyết tật và quyền của người khuyết tậtNâng cao nhận thức về NKT và quyền của NKT là một trong những biện pháp nhằm xoá bỏ rào cản về thái độ kỳ thị, phân biệt đối xử với NKT. Theo CRPD thì các quốc gia thành viên phải có biện pháp để “nâng cao nhận thức toàn xã hội, kể cả cấp độ gia đình”(Điểm a Khoản 1 Điều 8), nâng cao nhận thức về NKT cho giáo viên giảng dạy NKT, chuyên gia, nhân viên giáo dục (Khoản 4 Điều 24); “nâng cao nhận thức về quyền con người, nhân phẩm, sự tự lực và nhu cầu của người khuyết tật, thông qua đào tạo và tuyên truyền tiêu chuẩn y đức cho cơ sở y tế công và tư” (Điểm d Điều 25). Như vậy, theo Liên hợp quốc thì tất cả mọi người phải nâng cao nhận thức về NKT và quyền của NKT đặc biệt là gia đình, giáo viên, bác sỹ. Biện pháp này được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 8 Luật NKT năm 2010“thành viên gia đình NKT nâng cao nhận thức về vấn đề khuyết tật”. Thành viên gia đình NKT là những người gần gũi nhất với NKT, họ sống cùng NKT, chăm sóc NKT nên nâng cao hiểu biết cho thành viên gia đình NKT là điều cần thiết, nhưng như vậy là chưa đủ, trách nhiệm này phải thuộc về toàn xã hội.Để nâng cao nhận thức, CRPD dành riêng Điều 8 quy định 4 biện pháp nâng cao nhận thức của toàn xã hội bao gồm: Khởi xướng và duy trì các chiến dịch nâng cao nhận thức, thúc đẩy công nhận kỹ năng, phẩm chất, sự khéo léo, sự đóng góp của NKT, khuyến khích cơ quan truyền thông đưa tin về NKT, tăng cường các chương trình đào tạo nhận thức về NKT và quyền của NKT. Tại Khoản 1 Điều 13 Luật NKT cũng quy định“thông tin truyền thông, giáo dục về vấn đề khuyết tật nhằm... nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ, hành vi về vấn đề khuyết tật, chống kỳ thị, phân biệt đối xử người khuyết tật”. Những biện pháp trong Luật NKT còn quá sơ sài, khó triển khai, đây chỉ là một trong bốn giải pháp được ghi nhận tại CRPD.3.2.1.2.  Bảo đảm môi trường vật chất tiếp cận với NKTThứ nhất, bảo đảm về công trình xây dựng tiếp cận với NKTCông trình xây dựng tiếp cận với NKT sẽ tạo cơ hội cho NKT có thể độc lập, chủ động tham gia vào các hoạt động chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, giao thông, giải trí, du lịch... Để nhà chung cư, trụ sở làm việc và công trình hạ tầng kỹ thuật công cộng, công trình hạ tầng xã hội xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp thì việc phê duyệt thiết kế, xây dựng, nghiệm thu phải tuân thủ hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng để đảm bảo NKT tiếp cận (Khoản 1 Điều 39 Luật NKT 2010).Nhà nước đã ban hành đầy đủ các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng đảm bảo NKT tiếp cận. Tất cả các công trình xây dựng từ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, trường học, trụ sở làm việc, bến tàu, bến xe, các công trình hạ tầng kỹ thuật và tiện ích đô thị, công trình đường và hè phố; khu vui chơi, giải trí; công trình lưu trú; công trình văn hoá, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch... không phân biệt của nhà nước hay tư nhân, công trình xây mới hay cải tạo, nâng cấp đều phải được thiết kế và xây dựng theo đúng quy chuẩn xây dựng để NKT có thể tiếp cận và sử dụng. Ngay từ khâu phê duyệt thiết kế, xây dựng, nghiệm thu công trình phải tuân thủ hệ thống quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xây dựng đảm bảo NKT tiếp cận. Từ đó, đặt ra yêu cầu đối với cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng, kiến trúc sư, kỹ sư xây dựng, chủ sở hữu, quản lý công trình và những người liên quan khác phải biết các thông tin về những tiêu chuẩn này và nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong việc phê duyệt thiết kế, xây dựng, nghiệm thu công trình tiếp cận với NKT. Những công trình không tuân thủ tiêu chuẩn này sẽ được coi là không tiếp cận với NKT và cũng đồng nghĩa với việc đã và đang phân biệt đối xử với NKT.Cho đến thời điểm hiện nay, Quy chuẩn xây dựng được ban hành khá đầy đủ nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế như tên quy chuẩn sử dụng thuật ngữ “người tàn tật”; nội dung trùng lặp nhau như QCXD 10:2014/BXD, TCXDVN 264:2002, TCXDVN 266:2002 đều quy định về quy chuẩn đối với với nhà ở. Một số quy chuẩn chưa hợp lý, làm ảnh hưởng đến quyền tiếp cận công trình của NKT. Phải kể đến TCXDVN 264:2002 mới chỉ quy định điều kiện tiếp cận đến và vào khu vui chơi mà chưa quy định tiêu chuẩn để NKT có thể độc lập tham gia các trò chơi. Tiêu chuẩn xây dựng này cũng mới quy định điều kiện tiếp cận vào công trình thể thao mà vẫn thiếu các tiêu chí đối với khu giảng dạy, huấn luyện và thi đấu, khu phục vụ vận động viên, khu tập luyện phát triển tố chất thể lực (phòng luyện tập bổ trợ). TCVN 10:2014/BXD và TCXDVN 264:2002 chỉ quy định điều kiện tiếp cận khách sạn, nhà nghỉ nhưng chưa quy định tỷ lệ phòng tiếp cận với NKT dùng xe lăn trên tổng số phòng tại khách sạn, nhà nghỉ, nhà trọ. Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 4391:2015 về khách sạn – Xếp hạng đã đưa ra các tiêu chí để xếp hạng khách hạng từ một sao đến năm sao vẫn còn thiếu nhiều tiêu chí cơ bản như lối vào, cửa, thang máy tiếp cận với NKT, có tiêu chí chưa hợp lý như buồng ngủ tiếp cận phải có giường cho NKT dùng xe lăn. Thực tế thì NKT dùng xe lăn gặp khó khăn nhất với tiếp cận khách sạn là nhà vệ sinh, phòng tắm còn giường lại không phải là trở ngại với họ.Nhà chung cư, trụ sở làm việc và công trình hạ tầng kỹ thuật công cộng, công trình hạ tầng xã hội được xây dựng trước ngày 01/01/2011 mà chưa bảo đảm các điều kiện tiếp cận đối với NKT phải được cải tao, nâng cấp để bảo đảm điều kiện tiếp  cận theo lộ trình .  Quy  định  lộ  trình  cải tạo  công trình  như  trên  là  hợp  lý, không tạo ra sức ép cho các chủ công trình, đồng thời cũng phù hợp với nguyên tắc “Điều chỉnh hợp lý” theo CRPD. Tuy nhiên một vấn đề quan trọng mà Luật NKT không đề cập đến là chi phí để cải tạo công trình. Trong khi đó, Điểm f Khoản 1 Điều 4 CRPD quy định“chỉ cần mức cải tạo và giá thành tối thiểu để đáp ứng nhu cầu của người khuyết tật”. Với quy định ngắn gọn như vậy sẽ tạo tâm lý thoải mái cho chủ công trình, họ sẽ tìm ra những giải pháp cải tạo tiết kiệm nhất mà NKT vẫn có thể tiếp cận được.Để tăng cơ hội tiếp cận với cơ sở PHCN, trợ giúp xã hội, nhà nước có chính sách mở rộng mạng lưới cơ sở PHCN và trợ giúp xã hội. Nhằm phát triển mạng lưới PHCN, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 46/2013/TT-BYT quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ sở PHCN trên toàn quốc. Trước đây, việc PHCN cho NKT chủ yếu thực hiện ở cơ sở chỉnh hình PHCN của Nhà nước và đối tượng chủ yếu là người có công với cách mạng. Hiện nay, các cơ sở PHCN được thành lập gồm cả công lập, dân lập… tạo điều kiện thuận lợi để NKT được PHCN. Nhằm củng cố, phát triển mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội công lập và ngoài  công lập cũng như bảo đảm điều kiện tối thiểu tiếp cận đối với NKT thì Bộ trưởng Bộ lao động – Thương binh và xã hội ban hành Quyết định số 1520/QĐ-LĐTBXH ngày 20/10/2015 phê duyệt quy hoạch mạng lưới các cơ sở trợ giúp xã hội giai đoạn 2016-2025. Trong đó đưa ra mục tiêu, giải pháp cụ thể để làm cơ sở thực hiện nhằm ngày càng đảm bảo tốt hơn quyền lợi cho NKT.Thứ hai, bảo đảm về phương tiện giao thông tiếp cận với NKT.Để tham gia giao thông nhanh chóng và thuận lợi thì NKT cũng có quyền được sử dụng phương tiện giao thông cá nhân phù hợp với sức khoẻ và từng dạng tật. Để đảm bảo an toàn cho NKT khi tham gia giao thông thì phương tiện giao thông NKT sử dụng phải đảm bảo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng an toàn kỹ thuật theo QCVN 14:2011/BGTVT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường đối với xe môtô, xe gắn máy. Xe dành cho NKT không chỉ đảm bảo những yêu cầu chung về kỹ thuật mà còn phải đảm bảo các yêu cầu riêng về động cơ, bánh xe, chiều dài, chiều rông, chiều cao; xe phải có ký hiệu xe dùng cho NKT ở vị trí thích hợp để có thể nhân biết dễ dàng...Đối với phương tiện giao thông cá nhân đòi hỏi phải có giấy phép điều khiển thì NKT được học và cấp giấy phép điều khiển đối với phương tiện đó (Khoản 1 Điều 41 Luật NKT 2010). NKT sẽ được cấp giấy phép điều khiển phương tiện khi đủ 18 tuổi trở lên và có đủ sức khoẻ theo quy định pháp luật109. Việc cấp giấy phép lái xe cho NKT đã mở ra một cánh cửa mới cho NKT tiếp cận tham gia giao thông. Đây là quy định rất nhân văn, giúp cho NKT được hoà nhập cộng đồng, tuy nhiên quy định này còn hai điểm chưa hợp lý:Một là, Điều 16 Thông tư 12/2017/TT-BGTVT Quy định về đào tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ thì NKT có thể được cấp giấy phép lái xe hạng A1 và hạng B1. Giấy phép lái xe hạng A1 được cấp cho NKT điều khiển xe mô tô ba bánh dành cho NKT và xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh từ 50cm3 đến dưới 175cm3 . Giấy phép lái xe hạng B1 số tự động cấp cho người không hành nghề lái xe điều khiển ô tô dùng cho NKT; ô tô số tự động chở người đến 9 chỗ ngồi, kể cả chỗ ngồi cho người lái xe; ô tô tải, kể cả ô tô tải chuyên dùng số tự động có trọng tải thiết kế dưới 3.500 kg. Như vậy, khi NKT không thể điều khiển xe mô tô, xe ô tô thông thường mà sử dụng xe mô tô ba bánh, xe ô tô dành cho NKT để tập lái và sát hạch. Khi đủ điều kiện và được cấp giấy phép lái xe hạng A1 hoặc B1 thì khi tham gia giao thông NKT vẫn có quyền sử dụng những loại xe thông thường khác. Nếu NKT học lái và sát hạch bằng xe dành cho NKT và sau khi được cấp bằng lái lại sử dụng phương tiện khác thì như vậy sẽ rất nguy hiểm cho xã hội và cho chính NKT. Do đó, nhà nước cần có quy định rõ về giấy phép lái xe của NKT khi thi sát hạch bằng xe mô tô ba bánh và xe ô tô dành cho NKT.Hai là, trường hợp NKT không đủ điều kiện điều khiển xe tập lái hạng B1 số tự động của cơ sở đào tạo và trung tâm sát hạch thì NKT có thể sử dụng ô tô của NKT để làm xe tập lái và sát hạch. Ô tô của NKT thường được cải tạo để phù hợp với nhu cầu sử dụng của từng dạng tật (khuyết tật chân hay khuyết tật tay...). Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, không có văn bản quy định về điều kiện xe của NKT được sử dụng để học lái và thi sát hạch. Nghị định số 65/2016/NĐ-CP quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đào tạo lái xe ô tô và dịch vụ sát hạch lái xe đã quy định về điều kiện của xe tập lái tại các Điểm đ, e, i và k Khoản 2 Điều 6 nhưng Điều 2 Nghị định số 138/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 65/2016/NĐ- CP đã bãi bỏ những điều kiện này. Bên cạnh đó, Thông tư số 85/2014/TT-BGTVT về cải tạo phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (ô tô) cũng không có các quy định cụ thể, đặc thù về cải tạo xe cơ giới dành cho lái xe là NKT. Sự thiếu sót này đã gây lúng túng cho cơ sở đào tạo và sát hạch lái xe khi phải quyết định xe của NKT có đủ an toàn để dùng làm xe tập lái và sát hạch hay không.NKT có thể tham gia giao thông bằng phương tiện giao thông công cộng như xe buýt, ô tô chở khách tuyến cố định, tàu bay chở khách, tàu hỏa chở khách (gồm cả phương tiện đường sắt đô thị), tàu thủy chở khách, phà chở khách110. Để NKT có thể tiếp cận được với các phương tiện này thì Luật Người khuyết tật năm 2010, Nghị định số 28/2012/NĐ-CP, Thông tư số 39/2012/TT-BGTVT đã quy định “phương tiện giao thông tiếp cận”, “giao thông tiếp cận”. Phương tiện giao thông tiếp cận là các phương tiện giao thông công cộng đáp ứng các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về giao thông tiếp cận để NKT tiếp cận, sử dụng (Khoản 4 Điều 2 Thông tư số 39/2012/TT-BGTVT). Quy định về giao thông tiếp cận thể hiện tư tưởng rất mới, rất tiến bộ của các nhà làm luật Việt Nam, phù hợp với xu hướng trên thế giới.Để các phương tiện giao thông công cộng tiếp cận với NKT, nhà nước đã ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về ô tô khách thành phố và phương tiện giao thông đường sắt. Đối với phương tiện giao thông khác (taxi, xe khách liên tỉnh, tàu thuỷ, phà...) thì chưa có văn bản quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia, do đó, các tổ chức, cá nhân kinh doanh, quản lý phương tiện giao thông công cộng không có cơ sở pháp lý để cải tạo phương tiện tiếp cận với NKT.Thứ ba, bảo đảm về công nghệ thông tin, truyền thông, sản phẩm văn hoá tiếp cận với NKT.Để NKT tiếp cận công nghệ thông tin Nhà nước đã ban hành một số tiêu chuẩn quốc gia về công nghệ thông tin và truyền thông tiếp cận cho NKT112. Những tiêu chuẩn này sẽ là thước đo cho nhà cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin và truyền thông để NKT có thể tiếp cận.Để có nhiều tác phẩm ở dạng dễ tiếp cận mà không vướng vào trở ngại quyền tác giả thì tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao trong trường hợp “Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị”113. Liên quan đến vấn đề này, Hiệp ước Marakkesh (thông qua ngày 27/6/2013 tại Marrakesh, Marốc) đã ghi nhận các quốc gia phê chuẩn phải đưa ra những giới hạn và ngoại lệ đối với quy định bản quyền nhằm cho phép sao chép, phân phối các tác phẩm đã xuất bản, sản xuất chúng bằng các định dạng được thiết kế phù hợp cho người khiếm thị và người không đọc được chữ in bình thường, đồng thời, cho phép trao đổi các tác phẩm đó giữa các nước với nhau thông qua các tổ chức phục vụ những người thụ hưởng nói trên. Cho đến thời điểm hiện nay, có 31 quốc gia trên thế giới phê chuẩn hiệp ước Marakkesh, tuy nhiên, Việt Nam chưa phê chuẩn hiệp ước này. Trong tương lai, nếu Việt Nam phê chuẩn Hiệp ước Marakkesh sẽ rất ý nghĩa bởi đây sẽ là lời cam kết mạnh mẽ của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế trong việc bảo đảm quyền tiếp cận văn hoá đọc của NKT, đồng thời, cũng giúp NKT Việt Nam có thêm cơ hội chia sẻ và đón nhận tài liệu của các tổ chức, cá nhân trên thế giới.Để NKT nghe, nhìn tiếp cận với văn hoá, thông tin thì họ có thể tiếp cận thông qua sách báo chữ nổi hoặc băng sách nói. Việc xuất bản các ấn phẩm chữ nổi rất đắt do phát sinh thêm chi phí cho người dịch tác phẩm sang chữ nổi, máy in chuyên biệt, giấy in dày, dai; chi phí vận chuyển, bảo quản. Do đó, nhà nước hỗ trợ việc thu thập, biên soạn và xuất bản tài liệu in chữ nổi Braille dành cho NKT nhìn, tài liệu đọc dành cho NKT nghe, nói và NKT trí tuệ (Khoản 3 Điều 43 Luật NKT 2010). Tuy nhiên, hỗ trợ bằng hình thức nào thì chưa có quy định cụ thể.Truyền thanh và truyền hình cũng là một nguồn cung cấp thông tin cho NKT. Tuy nhiên, đối với NKT nghe sẽ không thể tiếp cận thông tin qua truyền thanh nhưng có thể tiếp cận thông tin qua truyền hình nếu truyền hình áp dụng công nghệ hỗ trợ (như phụ đề tiếng Việt, ngôn ngữ ký hiệu). Để NKT nghe có thể tiếp cận thông tin qua truyền hình thì Khoản 1 Điều 4 Thông tư số 26/2020/TT-BTTT quy định áp dụng tiêu chuẩn, công nghệ hỗ trợ NKT tiếp cận, sử dụng sản phẩm, dịch vụ thông tin và truyền thông đã quy định“Cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động phát thanh, truyền hình cung cấp kênh chương trình truyền hình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu của quốc gia có trách nhiệm áp dụng tiêu chuẩn, công nghệ hỗ trợ người khuyết tật nghe tiếp cận chương trình thời sự chính trị tổng hợp hàng ngày trên kênh”. Như vậy, so với Thông tư số 28/2009/TT-BTTT thì nhà nước đã mở rộng phạm vi chủ thể có trách nhiệm áp dụng tiêu chuẩn công nghệ hỗ trợ NKT tiếp cận chương trình truyền hình, bao gồm tất cả các đài truyền hình có kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu của quốc gia, không phân biệt đài truyền trung ương và địa phương như trước đây. Tuy nhiên, việc áp dụng công nghệ hỗ trợ NKT nghe chỉ bắt buộc đối với chương trình thời sự chính trị tổng hợp hàng ngày. Thực tế, ngoài chương trình thời sự tổng hợp, còn nhiều chương trình khác rất hấp dẫn và có tính giải trí cao như phim, truyền hình thực tế, game show, thể dục thể thao, du lịch... thì chưa có quy định bắt buộc đài truyền hình áp dụng công nghệ hỗ trợ để người NKT nghe tiếp cận. Do đó, quyền được thưởng thức văn hoá, thể dục thể thao, giải trí và du lịch qua truyền hình của NKT cũng bị hạn chế rất nhiều.Để tăng cường cơ hội tiếp cận với thông tin, tri thức cho NKT nhìn và NKT nghe/nói thì chữ nổi Braille và ngôn ngữ ký hiệu được dùng thống nhất trong toàn quốc. Thông tư số 15/2019/TT-BGDĐT ban hành Quy định chuẩn quốc gia về chữ nổi Braille cho NKT và Thông tư số 17/2020/TT-BGDĐT ban hành quy chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu. Bộ chuẩn quốc gia về chữ nổi Braille là căn cứ thống nhất để in sách, báo chữ nổi... Bộ Chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu sẽ là căn cứ thống nhất để các cơ sở giáo dục sử dụng trong quá trình giảng dạy, xây dựng học liệu trong giáo dục, cũng như truyền tải thông tin giải trí bằng ngôn ngữ ký hiệu, từ đó tạo cơ hội cho học tập, giải trí, tiếp cận thông tin của NKT.3.2.1.3.  Bảo đảm chất lượng, số lượng cán bộ, nhân viên làm việc trong lĩnh vực an sinh xã hội có người khuyết tật tham gia.Nhà nước đặc biệt quan tâm phát triển đội ngũ bác sỹ, y tế, giáo viên giảng dạy NKT. Nhà nước hỗ trợ kinh phí theo dự án cho cơ quan, tổ chức đào tạo chuyên gia, kỹ thuật viên về chỉnh hình, PHCN; nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục tham gia giáo dục NKT, nhân viên hỗ trợ giáo dục NKT được đào tạo, bồi dưỡng cập nhật về chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng đáp ứng nhu cầu giáo dục NKT116. Luật NKT mới chỉ đề cập đến đào tạo, nâng cao trình độ cho cán bộ, nhân viên làm việc trong lĩnh vực y tế và giáo dục. Phạm vi chủ thể mà Luật NKT đề cập còn quá hẹp so với Điểm I Khoản 1 Điều 4 CRPD “tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn làm việc trong lĩnh vực người khuyết tật”. Do đó, để tương thích với CRPD thì Luật NKT cần mở rộng phạm vi chủ thể được nhà nước phát triển đội ngũ nhằm đảm bảo đủ số lượng và chất lượng cung ứng các dịch vụ cho NKT.Để đảm bảo số lượng và chất lượng giáo viên giảng dạy cho NKT thì Liên hợp quốc yêu cầu các quốc gia thành viên“phải tiến hành những biện pháp thích hợp để tuyển dụng giáo viên, trong đó có giáo viên khuyết tật, có trình độ về ngôn ngữ ký hiệu và/hoặc chữ Braille” (Khoản 4 Điều 24 CRPD). Để giáo viên giảng dạy cho NKT yên tâm công tác và thu hút nhiều người lựa chọn công việc này thì nhà nước đã cho họ hưởng các chế độ phụ cấp và chính sách ưu đãi (Khoản 2 Điều 29 Luật NKT)117. Tuy nhiên, trong pháp luật Việt Nam hiện nay, chưa có chính sách riêng về việc tuyển dụng cho giáo viên là NKT có trình độ về ngôn ngữ ký hiệu và/hoặc chữ Braille.Theo: Nguyễn Thị Thu Hường Link luận án: Tại đây
avatar
Nguyễn Mai Phương
367 ngày trước
Bài viết
Thực trạng quyền của người khuyết tật được ghi nhận trong pháp luật an sinh xã hội Việt Nam
3.1. Thực trạng quyền của người khuyết tật được ghi nhận trong pháp luật an sinh xã hội Việt Nam3.1.1. Quyền được bảo vệ thu nhập3.1.1.1.  Quyền được tự do, bình đẳng và bảo vệ việc làmQuyền được tự do, bình đẳng và bảo vệ việc làm của NKT được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 35 Hiến pháp năm 2013 “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc”. Luật NKT năm 2010 quy định NKT được bảo đảm thực hiện quyền được tạo việc làm phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật (Điểm d Khoản 1 Điều 4).Tháng 3 năm 2019 Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã ký văn kiện phê chuẩn Việt Nam gia nhập Công ước số 159 của ILO về tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm cho NKT (Công ước số 159). Đây được coi là bước tiến quan trọng trong việc thúc đẩy quyền được tạo việc làm cho NKT. Theo đó, các quốc gia thành viên phải có những biện pháp để tái thích ứng nghề nghiệp và việc làm cho NKT, có nghĩa là NKT có thể tìm được và duy trì được một việc làm thích hợp, có thể tiến bộ được về mặt nghề nghiệp và dễ dàng hoà nhập và tái hoà nhập xã hội. Tại điểm a Khoản 1 Điều 27 CRPD cũng ghi nhận cấm phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật trong mọi vấn đề liên quan đến việc làm như tuyển dụng, thăng tiến nghề nghiệp. Trong Luật NKT mới chỉ tập trung vào các giải pháp giải quyết việc làm cho NKT nhưng chưa đề cập đến duy trì việc làm và hỗ trợ NKT tiến bộ trong công việc. Điều này đã ảnh hưởng nhiều đến quyền được bảo vệ thu nhập của NKT.3.1.1.2.  Quyền được tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệpNKT có quyền bình đẳng tham gia BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp59. NKT sẽ được hưởng 5 chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất khi tham gia BHXH bắt buộc và NKT được hưởng 2 chế độ hưu trí và tử tuất khi tham gia BHXH tự nguyện. Dựa trên nguyên tắc có đóng có hưởng nên các quy định về đối tượng hưởng, điều kiện  hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng các chế độ BHXH đối với NKT không có sự khác biệt nhiều so với người không khuyết tật.NKT đặc biệt nặng và NKT nặng không được coi là điều kiện để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức thấp hơn. Luật BHXH quy định NLĐ đóng BHXH đủ 20 năm trở lên; bị suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên hoặc 81% trở lên và đáp ứng điều kiện về độ tuổi và tính chất công việc sẽ được hưởng lương hưu hàng tháng với mức thấp hơn. Như vậy, NKT nặng hoặc đặc biệt nặng nếu không chờ đến lúc đủ tuổi theo quy định để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng với mức đầy đủ thì có thể hưởng chế độ tiền hưu trí hàng tháng với mức thấp hơn nhưng họ phải thực hiện thêm thủ tục giám định suy giảm khả năng lao động. Quy định này không cần thiết, bởi NKT nặng và NKT đặc biệt nặng là những người không thể thực hiện được một số hoặc tất cả hoạt động phục vụ nhu cầu cá nhân hàng ngày và cần có người theo dõi, chăm sóc và trợ giúp.Khoản 1 Điều 51 Luật NKT năm 2010 quy định NKT đang hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng thì không được hưởng chính sách TCXH hàng tháng. Quy định này là không hợp lý bởi đây là hai nguồn tài chính độc lập nhau. Chế độ trợ cấp BHXH hàng tháng (bao gồm trợ cấp hưu trí hàng tháng và trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng) được hưởng trên nguyên tắc có đóng, có hưởng. Còn chế độ TCXH hàng tháng là sự bảo trợ của nhà nước đối với những NKT nặng và đặc biệt nặng. Để đảm bảo thu nhập của NKT cũng như khuyến khích NKT nặng và đặc biệt nặng tham gia quan hệ lao động, tham gia BHXH thì không nên hạn chế việc hưởng đồng thời trợ cấp BHXH hàng tháng và TCXH hàng tháng.3.1.2. Quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏeBảo vệ và chăm sóc sức khỏe đối với NKT được hiểu trong mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại giữa các yếu tố môi trường bên ngoài như thức ăn, nước uống, điều kiện vệ sinh… với các yếu tố môi trường bên trong như di truyền, gen, tế bào… giữa các hoạt động đề phòng sự phát sinh ra bệnh tật, phát hiện sớm bệnh tật... đến việc điều trị kịp thời và phục hồi sức khỏe cho NKT . Đây được coi là mô hình chăm sóc sức khỏe NKT theo quan điểm hiện đại, không chỉ tập trung vào chữa trị bệnh mà còn đề cao vai trò của phòng bệnh. Tham gia vào công tác chăm sóc sức khoẻ cho NKT không chỉ có cơ quan y tế mà còn có sự tham gia của gia đình NKT, tổ chức đoàn thể và cả cộng đồng xã hội.  Trong pháp luật Việt Nam, quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của NKT được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 58 Hiến pháp 2013 “Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân...”; trong Luật NKT năm 2010; Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, Luật Bảo hiểm y tế năm 2008 sửa đổi năm 2014... cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành.Quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ của NKT trong pháp luật an sinh xã hội Việt Nam bao gồm quyền được chăm sóc sức khoẻ ban đầu; quyền được khám bệnh, chữa bệnh; quyền được phục hồi chức năng (PHCN); quyền tham gia bảo hiểm y tế (BHYT).3.1.2.1.  Quyền được chăm sóc sức khoẻ ban đầuChăm sóc sức khỏe ban đầu có ý nghĩa quan trọng đối với sức khoẻ của mọi người trong đó có NKT, thể hiện quan điểm y học hiện đại “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Do đó, sau khi tuyên ngôn Alma – Ata về chăm sóc sức khoẻ ban đầu ra đời, ngành y tế Việt Nam đẩy mạnh công tác xây dựng tuyến y tế cơ sở (trạm y tế cấp xã) để chăm sóc sức khỏe toàn dân.NKT được chăm sóc sức khỏe ban đầu tại trạm y tế cấp xã nơi mình cư trú (Khoản 1 Điều 21 Luật NKT). Chăm sóc sức khỏe ban đầu nhằm mục đích phòng ngừa khuyết tật xảy ra bằng việc hạn chế hoặc loại bỏ các yếu tố có hại cho sức khoẻ từ thức ăn, nước uống, môi trường... hay phát hiện điều trị bệnh kịp thời để hạn chế trở thành khuyết tật.NKT có một số quyền chăm sóc sức khỏe ban đầu như: Quyền được dự phòng khuyết tật (gồm quyền được tiêm chủng vắc xin phòng bệnh; được phòng chống bệnh; được hướng dẫn vệ sinh môi trường, phòng chống tai nạn thương thích; được đảm bảo an toàn thực phẩm); Quyền được khám bệnh, chữa bệnh, kết hợp ứng dụng y học cổ truyền trong phòng bệnh và chữa bệnh (được sơ cứu, cấp cứu ban đầu; được khám bệnh, chữa bệnh, PHCN tại trạm y tế cấp xã; khám bệnh, chữa bệnh bằng các phương pháp dùng thuốc và các phương pháp không dùng thuốc...); Quyền được chăm sóc sức khỏe sinh sản; Quyền được cung ứng thuốc thiết yếu; Quyền được quản lý sức khoẻ; Quyền được giáo dục về sức khỏe (cung cấp các thông tin liên quan đến bệnh, dịch; tiêm chủng; quyền được tuyên truyền, tư vấn chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ...).NKT có quyền được tư vấn biện pháp phòng ngừa và phát hiện sớm khuyết tật; xác định khuyết tật bẩm sinh đối với trẻ em sơ sinh để kịp thời có biện pháp điều trị và chỉnh hình, PHCN phù hợp (Khoản 3 Điều 23 Luật NKT năm 2010). Quy định này hoàn toàn phù hợp với Điểm b Điều 25 CRPD“Cung cấp những dịch vụ y tế đặc biệt mà người khuyết tật cần do họ bị khuyết tật, như phát hiện sớm và can thiệp nếu cần và những dịch vụ nhằm giảm thiểu và ngăn ngừa khuyết tật tăng thêm, kể cả cho trẻ em và người lớn”.NKT được trạm y tế cấp xã lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức khoẻ (điểm b khoản 1 Điều 21 Luật NKT 2010). Trạm y tế cấp xã phải có danh sách những NKT, được phân loại theo các nhóm NKT (vận động, nghe nói, nhìn, thiểu năng trí tuệ, tâm thần, động kinh, mất cảm giác, khuyết tật khác), có các thông tin quản lý cần có, như đã được PHCN hay chưa, ở đâu, hình thức, mức độ và kết quả, họ có được sử dụng các dụng cụ trợ giúp không (dụng cụ tập, nạng, nẹp, xe lăn...); nếu có sự thay đổi (chỗ ở, tiến triển bệnh tật, các đợt PHCN...). Hiện nay, quản lý và chăm sóc sức khỏe NKT tại cộng đồng là nhiệm vụ bắt buộc của trạm y tế cấp xã và là một trong những tiêu chí để đánh giá chất lượng trạm y tế cấp xã theo Quyết định số 4667/QĐ-BYT ngày 07/11/2014 về việc ban hành tiêu chí quốc gia về y tế xã giai đoạn đến 2020.Bên cạnh đó, sức khoẻ của NKT còn được quản lý trên hệ thống thông tin về sức khoẻ và PHCN của NKT được quản lý thống nhất trên toàn quốc. Theo Quyết định 3815/QĐ-BYT ngày 21/08/2017 về việc triển khai hệ thống thông tin quản lý sức khoẻ, PHCN NKT (Quyết định 3815/QĐ-BYT) thì mỗi NKT được cấp một mã số duy nhất và được quản lý thông tin về sức khoẻ và PHCN trên hệ thống được truy cập tại địa chỉ: http://nkt.qlbv.vn/nkt2.NKT có quyền được chăm sóc sức khỏe sinh sản. Điểm a Điều 25 CRPD ghi nhận quyền của NKT được chăm sóc và chương trình y tế cùng loại, cùng chất lượng, cùng tiêu chuẩn miễn phí hoặc giá thành vừa phải như đối với những người khác, trong đó có chương trình giới và sức khỏe sinh sản. NKT nam và NKT nữ ở những dạng khuyết tật khác nhau sẽ có nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản khác nhau. Nhưng trong Luật NKT năm 2010 và các văn bản khác trong pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho NKT.Khám bệnh là việc hỏi bệnh, khai thác tiền sử bệnh, thăm khám thực thể, khi cần thiết thì chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng, thăm dò chức năng để chẩn đoán và chỉ định phương pháp điều trị phù hợp đã được công nhận. Chữa bệnh là việc sử dụng phương pháp chuyên môn kỹ thuật đã được công nhận và thuốc đã được phép lưu hành để cấp cứu, điều trị, chăm sóc, PHCN cho người bệnh.NKT không bị kỳ thị, phân biệt đối xử trong khám bệnh, chữa bệnh. Quyền này được ghi nhận Điều 25 CRPD quy định “NKT có quyền hưởng tiêu chuẩn y tế cao nhất đã đạt được mà không có sự phân biệt nào trên cơ sở khuyết tật” nhưng lại không được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam. Điều 9 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 ghi nhận người bệnh không bị kỳ thị, phân biệt đối xử; được tôn trọng về tuổi tác, giới tính, dân tộc, tín ngưỡng; không bị phân biệt giàu nghèo, địa vị xã hội nhưng tuyệt nhiên không đề cập đến tôn trọng yếu tố khuyết tật. Trong Luật NKT năm 2010 cũng không có điều luật nào ghi nhận trực tiếp quyền không bị kỳ thị, phân biệt đối xử trong khám bệnh, chữa bệnh. Việc không ghi nhận quyền này trong pháp luật Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến việc đảm bảo cơ hội bình đẳng trong khám bệnh, chữa bệnh cho NKT.Theo: Nguyễn Thị Thu Hường Link luận án: Tại đây
avatar
Nguyễn Mai Phương
367 ngày trước
Bài viết
Biện pháp bảo đảm quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hội
2.2.  Biện pháp bảo đảm quyền của người khuyết tật trong pháp luật an sinh xã hộiQuyền của NKT trong pháp luật ASXH được ghi nhận đầy đủ trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Để những quyền đó trở thành quyền thực tế thì cần có biện pháp thích hợp để thực hiện quyền.Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học - NXB Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học năm 2003 thì “biện pháp” là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể; “bảo đảm” làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết. Qua đó, có thể hiểu biện pháp bảo đảm là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể được thực hiện một cách chắc chắn.Liên hợp quốc yêu cầu các quốc gia thành viên phải cam kết bảo đảm và thúc đẩy việc biến các quyền và tự do cơ bản của con người thành hiện thực đối với NKT mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. Khoản 1 Điều 4 CRPD ghi nhận nhiều biện pháp để hiện thực hoá quyền của NKT. Bao gồm việc thông qua biện pháp lập pháp và biện pháp hành pháp hoặc các biện pháp khác để thi hành các quyền của NKT. Biện pháp lập pháp, cần sửa đổi hoặc hủy bỏ các luật, quy định, tập quán và thông lệ hiện hành có tính chất phân biệt đối xử đối với NKT. Trong tất cả các chính sách và chương trình cần cân nhắc việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của NKT. Biện pháp hành pháp, phải bảo đảm mọi thể chế và cơ quan công quyền hành xử phù hợp với Công ước. Để thực thi hiệu quả quyền của NKT, các quốc gia có thể thực hiện những biện pháp khác. Các quốc gia phải sử dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết tật; tiến hành hoặc khuyến khích nghiên cứu và phát triển hàng hoá, dịch vụ trang bị và tiện ích thiết kế phổ dụng; khuyến khích nghiên cứu và phát triển các công nghệ mới, thúc đẩy việc phổ biến và sử dụng công nghệ này trong đó có công nghệ thông tin liên lạc, phương tiện và thiết bị hỗ trợ di chuyển, các công nghệ trợ giúp phù hợp với NKT, ưu tiên các công nghệ có giá thành vừa phải; Cung cấp thông tin dễ tiếp cận cho NKT; tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn làm việc trong lĩnh vực NKT.Từ cách hiểu về biện pháp bảo đảm và quan điểm của Liên hợp quốc về trách nhiệm của các quốc gia trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền của NKT thì biện pháp bảo đảm quyền của NKT được hiểu là cách thức thích hợp, hiệu quả được thực hiện bởi nhà nước và xã hội để quyền của NKT được thực hiện trên thực tế. Các rào cản và thách thức mà NKT phải đối mặt rất đa dạng nên để quyền của NKT được thực hiện trên thực tế thì các biện pháp bảo đảm quyền của NKT cũng phải đa dạng hoá với sự tham gia của nhiều chủ thể. Liên hợp quốc không đặt ra những biện pháp cứng nhắc để buộc các quốc gia phải thực hiện mà để các quốc gia tự đưa ra những biện pháp sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước mình. Trong đó, nhà nước có trách nhiệm chính bảo đảm quyền của NKT, bên cạnh sự chung tay của cả cộng đồng xã hội.Biện pháp bảo đảm quyền của NKT được phân loại như sau:Thứ nhất, căn cứ vào cách thức bảo đảm quyền của NKT có biện pháp lập pháp và biện pháp hành pháp. Biện pháp lập pháp là việc ghi nhận quyền, bảo đảm quyền trong pháp luật quốc gia; biện pháp hành pháp là việc thực thi, bảo đảm quyền của NKT thông qua các chủ thể có thẩm quyền.Thứ hai, căn cứ vào cách thức thực hiện quyền của NKT có biện pháp bảo vệ quyền và biện pháp thúc đẩy quyền của NKT. Biện pháp bảo vệ quyền là việc áp dụng chế tài đối với hành vi xâm phạm quyền của NKT; biện pháp thúc đẩy quyền của NKT rất đa dạng bao gồm tất cả những biện pháp nhằm xoá bỏ phân biệt đối xử với NKT, tạo môi trường tiếp cận đối với NKT nhằm mục đích NKT được hoà nhập cộng đồng.Thứ ba, căn cứ vào nội dung của các biện pháp bảo đảm quyền của NKT có biện pháp xã hội, biện pháp kinh tế và biện pháp pháp lý. Biện pháp xã hội, biện pháp kinh tế và biện pháp pháp lý bao quát cả biện pháp lập pháp, biện pháp hành pháp và biện pháp bảo vệ quyền, biện pháp thúc đẩy quyền của NKT. Chính vì vậy, đây là những biện pháp bảo đảm quyền của NKT phổ biến nhất và được nhiều học giả tán thành.2.1.1. Biện pháp xã hộiBiện pháp xã hội được hiểu là những biện pháp tác động đến ý thức và môi trường xã hội nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi để NKT thực hiện quyền.Thứ nhất, nâng cao nhận thức về NKT và quyền của NKT.Hiểu sai, hiểu không đầy đủ về NKT và quyền của NKT là một trong những rào cản khiến NKT gặp khó khăn khi tiếp cận quyền. Để hướng đến mục tiêu NKT được bình đẳng tiếp cận quyền thì cần phải xoá bỏ rào cản nhận thức tiêu cực về NKT. Thông qua biện pháp nâng cao nhận thức về NKT và quyền của NKT sẽ giúp gia đình của NKT, bạn bè, hàng xóm, đồng nghiệp, cộng đồng xã hội hình thành thái độ tôn trọng, cảm thông, chia sẻ và ghi nhận năng lực, sự đóng góp của NKT.Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp có hiểu biết toàn diện về quyền NKT đặc biệt là quyền NKT liên quan đến lĩnh vực mình quản lý. Cơ quan, đơn vị sẽ ban hành văn bản, chính sách bình đẳng với NKT và thúc đẩy quyền của NKT.Cán bộ, viên chức, người lao động làm việc ở trường học, bệnh viện, bến tàu, rạp chiếu phim... nơi có NKT đến tham gia có thái độ tôn trọng NKT, thực hiện đúng pháp luật về NKT và có cách cư xử phù hợp với từng dạng tật.Hội/nhóm của NKT và vì NKT khi được trang bị những kiến thức về quyền của NKT sẽ nâng cao trách nhiệm hơn nữa trong hoạt động vì NKT.Nhiều NKT vẫn còn tâm lý mặc cảm, tự ti nên họ thường tự tách mình ra khỏi cộng đồng. Để NKT thêm tự tin, tích cực, chủ động tham gia vào các hoạt động của cuộc sống thì cần giúp họ hiểu được giá trị của bản thân, từ đó, họ sẽ tìm cách để vươn lên trong cuộc sống. Khi NKT có hiểu biết về quyền của mình thì họ sẽ có ý thức thực hiện quyền và biết cách bảo vệ quyền khi bị xâm phạm.Biện pháp nâng cao nhận thức về NKT và quyền của NKT có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức cụ thể như nhà nước ghi nhận trong luật, thực hiện các hoạt động tuyên truyền, vận động rộng rãi trên các phương tiện truyền thông, báo chí, hội thảo, chương trình đào tạo, thông qua các hoạt động hội của NKT... Nội dung tuyên truyền bao gồm quy định về quyền NKT được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế, khu vực và quốc gia; nêu tấm gương NKT học tốt, làm kinh tế giỏi...Thứ hai, bảo đảm về cơ sở vật chất tiếp cận với NKT.NKT có những khiếm khuyết cơ thể khiến cho họ không thể thực hiện quyền của mình giống như người bình thường. Đối với NKT nghe, họ sẽ không nghe bằng tai mà nghe bằng mắt; NKT nhìn, họ không nhìn bằng mắt mà nhìn bằng các xúc giác; NKT nói, họ không nói bằng miệng mà nói bằng tay; NKT vận động không đi lại bằng chân mà bằng xe lăn... Điều đó có nghĩa rằng NKT có thể thực hiện các quyền cơ bản nhất của một con người như nghe, nói, nhìn, đi lại... nếu như họ được cấp những công cụ, phương tiện để họ sử dụng nhằm thay thế cho những phần cơ thể bị mất, chức năng cơ thể bị giảm sút.NKT có thể thực hiện quyền con người khác bao gồm học tập, lao động, vui chơi, giải trí, di chuyển... nếu họ được trang bị các phương tiện phù hợp. NKT nhìn có thể học tập nếu có sách chữ nổi, bài giảng bằng âm thanh; NKT vận động có thể di chuyển nếu có xe lăn, chân tay giả; NKT nghe có thể tiếp cận thông tin nếu có máy trợ thính hoặc truyền hình hỗ trợ người phiên dịch ngôn ngữ ký hiệu/phụ đề...Theo: Nguyễn Thị Thu Hường Link luận án: Tại đây
Bài viết được xem nhiều nhất
Bài viết
(mới)Những mẫu bản kiểm điểm đảng viên dành cho cán bộ, giáo viên, sinh viên,.. luôn được bạn đọc chú ý. Đây là thời điểm để mọi người nhìn nhận lại những gì mình đã và chưa làm được. Qua đó cho mình thêm động lực để phấn đấu hơn nữa. Hãy cùng nhau theo dõi ngay trong bài viết mẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân của Legalzone - hệ thống thủ tục pháp luậtMẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân Bản kiểm điểm Đảng viên sẽ gồm có các phần chính sau:Ưu điểm, kết quả đạt được về tư tưởng chính trị;Phẩm chất đạo đức, lối sống;Y thức tổ chức kỷ luật;Tác phong, lề lối làm việc;Về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao;Về việc thực hiện cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hằng năm.Cụ thể: Hạn chế, khuyết điểm đảng viên về tư tưởng chính trị; phẩm chất đạo đức, lối sống; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong, lề lối làm việc; về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.Hạn chế khuyết điểm đảng viên về việc thực hiện cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hằng năm và nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm.Kết quả khắc phục những ưu khuyết điểm của đảng viên đã được cấp có thẩm quyền kết luận hoặc được chỉ ra ở các kỳ kiểm điểm trước.Tại phần này cần kiểm điểm rõ:Từng ưu khuyết điểm đảng viên (đã được khắc phục; đang khắc phục, mức độ khắc phục; chưa được khắc phục)Những khó khăn, vướng mắc (nếu có)Trách nhiệm của cá nhân.Giải trình, nhận xét ưu khuyết điểm của đảng viên những vấn đề được gợi ý kiểm điểm (nếu có).Giải trình từng vấn đề được gợi ý kiểm điểm, nêu nguyên nhân.Xác định trách nhiệm của cá nhân đối với từng vấn đề được gợi ý kiểm điểm.Làm rõ trách nhiệm của cá nhân đối với những ưu điểm khuyết điểm của đảng viên (nếu có).Phương hướng, biện pháp khắc phục những ưu khuyết điểm của đảng viên. Tự nhận mức xếp loại chất lượng.Legalzone cung cấp cho bạn đọc 02 mẫu bản tự kiểm kiểm cá nhân tham khảo sau đây:Mẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhânBẢN KIỂM ĐIỂM CÁ NHÂNHọ và tên: ………………… Sinh ngày: …………………………………Ngày vào Đảng: ……………… Chính thức ngày ………………………… Chức vụ Đảng: …………………………………………………………..Chức vụ chính quyền(đoàn thể): ………………………………………….Đơn vị công tác: ………………………………………………………Hiện đang sinh hoạt tại chi bộ: ………………………………………..I. Ưu điểm, kết quả công tác 1. Về tư tưởng chính trị– Là một Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi luôn kiên định đối với đường lối của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.– Chấp hành nghiêm túc quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực để bảo vệ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.– Luôn có ý thức tuyên truyền, vận động người thân, gia đình và quần chúng nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.– Xác định ý thức tích cực, tự giác tự học, tự nâng cao kiến thức về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác qua các lớp tập huấn, các lớp bồi dưỡng, nghiên cứu tài liệu, tham khảo đồng nghiệp…– Bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch nghiên cứu, học tập, phấn đấu, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng thực hiện cuộc vận động“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo” của bản thân.Trong quá trình công tác, bản thân luôn nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.2. Về phẩm chất đạo đức, lối sống.– Bản thân tôi luôn có ý thức thực hành tiết kiệm, đấu tranh phòng, chống lãng phí, tham nhũng, quan liêu.- Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác trong ngành. Luôn có ý thức giữ gìn tư cách, đạo đức tính tiên phong của người đảng viên trong tác chuyên môn.- Không vi phạm tiêu chuẩn đảng viên và những điều Đảng viên không được làm theo quy định số 19-QĐ/TW ngày 03/01/2002 của Bộ Chính trị.– Bản thân tôi luôn thực hiện tự phê bình và phê bình trung thực và thẳng thắn, giữ gìn đoàn kết trong Đảng trên cơ sở cương lĩnh và điều lệ Đảng, phát huy quyền làm chủ và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động chỉ đạo chuyên môn và luôn luôn xây dựng tốt khối đoàn kết nội bộ.-  Trong cuộc sống thường ngày sinh hoạt với địa phương, tôi đã thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, được nhân dân nơi cư trú tin tưởng, tham gia tích cực mọi hoạt động ở nới cư trú.3. Về thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao:– Bản thân luôn thực hiện đúng qui chế chuyên môn, đảm bảo tính khoa học.– Làm việc có trách nhiệm cao, cố gắng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. – Luôn có tinh thần tìm tòi, học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.– Luôn phối kết hợp tốt với các đồng nghiệp, với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. -Trong công tác xây dựng Đảng, đoàn thể tôi luôn có ý thức tuyên truyền, tham gia xây dựng chi bộ, các đoàn thể trong cơ quan trong sạch, vững mạnh.4. Về tổ chức kỷ luật:– Bản thân tôi luôn thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, có ý thức tổ chức kỉ luật cao, chấp hành sự phân công điều động, luân chuyển của tổ chức.- Bản thân luôn vận động gia đình chấp hành nghiêm túc chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các luật và nghị định của Nhà nước về phòng chống ma tuý, chống tiêu cực ……– Bản thân tôi luôn thực hiện tốt chế độ sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí theo quy định.- Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chi bộ, quán triệt sâu sắc các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Nhà nước và ngành đề ra.– Tham gia đầy đủ các buổi hội họp, học nghị quyết do chi bộ và Đảng bộ tổ chức; đóng Đảng phí đầy đủ, kịp thời.– Thực hiện tốt quy chế, nội quy của tổ chức Đảng cũng như của cơ quan đơn vị, có tinh thần gương mẫu chấp hành và lãnh đạo thực hiện tốt quy chế, quy định, nội quy của cơ quan, đơn vị và nơi cư trú- Ý thức lắng nghe, tiếp thu và tự sửa chữa khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình, thực hiện tốt chế độ sinh hoạt Đảng.– Thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, Đảng uỷ cơ sở; có tinh thần tham gia xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền.- Luôn có trách nhiệm cao với công việc được giao; thái độ phục vụ nhân dân tốt; có ý thức đấu tranh với những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, hách dịch, gây phiền hà nhân dân.II. Khuyết điểm, hạn chế và nguyên nhân– Chỉ đạo hoạt động chuyên môn của nhà trường và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn giảng dạy kết quả chưa cao– Đôi khi còn chưa linh hoạt, trong giải quyết công việc với đồng nghiệp, với học sinh– Tuy có ý thức trong công tác tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt nhưng vẫn còn chưa mạnh dạn.– Đôi lúc chưa chủ động trong tổ chức thực hiện một số hoạt động. Trong công việc đôi lúc còn chưa mạnh dạn, thẳng thắn góp ý cho đồng nghiệp– Chưa cương quyết trong xử lí vi phạm, làm việc còn mang tính cả nểIII. Phương hướng và biện pháp khắc phục, sửa chữa yếu kém– Tuyệt đối chấp hành các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.- Thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ trong Đảng và cơ quan.– Không ngừng tu dưỡng đạo đức, tự học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị,chuyên môn nghiệp vụ, mạnh dạn hơn nữa trong việc tham mưu đề xuất các giải pháp nhằm làm tốt hơn công tác quản lý, nhiệm vụ chính trị được giao.– Tiếp tục đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, luôn có ý thức tự phê bình và phê bình, tránh tư tưởng nể nang, nâng cao vai trò tiên phong của người đảng viên.Biện pháp khắc phục:– Trong thời gian tới sẽ phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm trên để bản thân được hoàn thiện hơn.– Tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng những hành động và việc làm cụ thể trong thực hiện công việc và nhiệm vụ được giaoXem thêm: Thủ tục thành lập trung tâm ngoại ngữ tại Hà NộiLink dowload các biểu mẫu miễn phíBẢN TỰ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁ NHÂNBẢN TỰ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁ NHÂN 2BẢN TỰ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁN BỘTải ngay mẫu Bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân tại phần ảnh tại bài viết hoặc tại phần bình luận của bài viết bạn nhé IV. Tự nhận mức xếp loại chất lượng Đảng viên, cán bộ, công chức:Mức 2: Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.Người viết bản kiểm điểmMẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân số 2ĐẢNG BỘ Xà.......CHI BỘ TRƯỜNG .........***ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ........, ngày...tháng...năm 2019BẢN KIỂM ĐIỂM CÁ NHÂNHọ và tên: ............. .............. Sinh ngày: ........... ................ ........... ............Ngày vào Đảng: ............... .............. Chính thức ngày .............. .............. Chức vụ Đảng: ........... ............ ............... .............. ................ ................. Chức vụ chính quyền(đoàn thể): .............. ................. .................. ............ Đơn vị công tác: ............ ............... ................ ................... ................. Hiện đang sinh hoạt tại chi bộ: .................... .................... .................... Ưu điểm, kết quả công tácVề tư tưởng chính trị- Là một Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi luôn kiên định đối với đường lối của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.- Chấp hành nghiêm túc quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực để bảo vệ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.- Luôn có ý thức tuyên truyền, vận động người thân, gia đình và quần chúng nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.- Xác định ý thức tích cực, tự giác tự học, tự nâng cao kiến thức về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác qua các lớp tập huấn, các lớp bồi dưỡng, nghiên cứu tài liệu, tham khảo đồng nghiệp...- Bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch nghiên cứu, học tập, phấn đấu, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", cuộc vận động "Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo" của bản thân. Trong quá trình công tác, bản thân luôn nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.Về phẩm chất đạo đức, lối sống.- Bản thân tôi luôn có ý thức thực hành tiết kiệm, đấu tranh phòng, chống lãng phí, tham nhũng, quan liêu.Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác trong ngành.Luôn có ý thức giữ gìn tư cách, đạo đức tính tiên phong của người đảng viên trong tác chuyên môn.Không vi phạm tiêu chuẩn đảng viên và những điều Đảng viên không được làm theo quy định số 19-QĐ/TW ngày 03/01/2002 của Bộ Chính trị.- Bản thân tôi luôn thực hiện tự phê bình và phê bình trung thực và thẳng thắn, giữ gìn đoàn kết trong Đảng trên cơ sở cương lĩnh và điều lệ Đảng, phát huy quyền làm chủ và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động chỉ đạo chuyên môn và luôn luôn xây dựng tốt khối đoàn kết nội bộ. Trong cuộc sống thường ngày sinh hoạt với địa phương, tôi đã thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, được nhân dân nơi cư trú tin tưởng, tham gia tích cực mọi hoạt động ở nới cư trú.Về thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao:- Bản thân luôn thực hiện đúng qui chế chuyên môn, đảm bảo tính khoa học.- Làm việc có trách nhiệm cao, cố gắng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao- Luôn có tinh thần tìm tòi, học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.- Luôn phối kết hợp tốt với các đồng nghiệp, với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao-Trong công tác xây dựng Đảng, đoàn thể tôi luôn có ý thức tuyên truyền, tham gia xây dựng chi bộ, các đoàn thể trong cơ quan trong sạch, vững mạnh.>>Tham khảo bài viết: Bộ luật Dân sự 2015: Điểm nổi bật và ý nghĩa trong bối cảnh pháp luật hiện đạiVề tổ chức kỷ luật:- Bản thân tôi luôn thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, có ý thức tổ chức kỉ luật cao, chấp hành sự phân công điều động, luân chuyển của tổ chức. Bản thân luôn vận động gia đình chấp hành nghiêm túc chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các luật và nghị định của Nhà nước về phòng chống ma tuý, chống tiêu cực ......- Tham gia đầy đủ các buổi hội họp, học nghị quyết do chi bộ và Đảng bộ tổ chức; đóng Đảng phí đầy đủ, kịp thời.- Thực hiện tốt quy chế, nội quy của tổ chức Đảng cũng như của cơ quan đơn vị, có tinh thần gương mẫu chấp hành và lãnh đạo thực hiện tốt quy chế, quy định, nội quy của cơ quan, đơn vị và nơi cư trú; ý thức lắng nghe, tiếp thu và tự sửa chữa khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình, thực hiện tốt chế độ sinh hoạt Đảng.- Luôn có thái độ cầu thị trong việc nhận và sửa chữa khắc phục khuyết điểm.- Thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, Đảng uỷ cơ sở; có tinh thần tham gia xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền.- Luôn có trách nhiệm cao với công việc được giao; thái độ phục vụ nhân dân tốt; có ý thức đấu tranh với những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, hách dịch, gây phiền hà nhân dân.Khuyết điểm, hạn chế và nguyên nhân- Chỉ đạo hoạt động chuyên môn của nhà trường và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn giảng dạy kết quả chưa cao. - Chưa dành thời gian thích hợp để nghiên cứu, tìm hiểu sâu về Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết, quy định của Đảng; pháp luật, chính sách của Nhà nước.- Trách nhiệm cá nhân trong việc phối kết hợp với các đoàn thể khác trong trường có lúc chưa đạt hiệu quả cao nhất.- Đôi lúc chưa chủ động trong tổ chức thực hiện một số hoạt động. Trong công việc đôi lúc còn chưa mạnh dạn, thẳng thắn góp ý cho đồng nghiệp- Chưa cương quyết trong xử lí vi phạm, làm việc còn nể nang tình cảm trong công tác phê bình và tự phê bình.III. Phương hướng và biện pháp khắc phục, sửa chữa yếu kém- Tuyệt đối chấp hành các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.- Thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ trong Đảng và cơ quan.- Không ngừng tu dưỡng đạo đức, tự học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ- Mạnh dạn hơn nữa trong việc tham mưu đề xuất các giải pháp nhằm làm tốt hơn công tác quản lý, nhiệm vụ chính trị được giao.- Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống- Luôn có ý thức tự phê bình và phê bình, nâng cao vai trò tiên phong của người đảng viên.Biện pháp khắc phục:- Trong thời gian tới sẽ phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm trên để bản thân được hoàn thiện hơn.- Tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng những hành động và việc làm cụ thể trong thực hiện công việc và nhiệm vụ được giao. Tự nhận mức xếp loại chất lượng Đảng viên, cán bộ, công chức:Mức 2: Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.     NGƯỜI TỰ KIỂM ĐIỂM(Ký, ghi họ tên) ĐÁNH GIÁ PHÂN LOẠI CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊNNhận xét, đánh giá của chi ủy:........... ............ ............. ................ .............. .................. ................ ...............Chi bộ phân loại chất lượng:........... ............ ............. ................ .............. .................. ................ ..........................., ngày...tháng...năm....T.M CHI ỦYBí thưĐảng ủy (chi ủy cơ sở) phân loại chất lượng:........... ............ ............. ................ .............. .................. ................ ................................., ngày...tháng...năm...     T.M ĐẢNG ỦYTrên đây là một số thông tin về mẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân bạn đọc tham khảo. Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và hỗ trợ. Hoặc bạn có thể tra cứu các thủ tục qua trang Thủ tục pháp luật của chúng tôi. 
Bài viết
Khi nào người tiến hành tố tụng dân sự phải bị thay đổi ?Quy định về việc thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự được xác định trong các trường hợp sau đây:Người tiến hành tố tụng là người cùng là bị hại, đương sự, người đại diện, người thân thích của bị hại, đương sự hoặc của bị can, bị cáo: Trong tình huống này, người tiến hành tố tụng cần từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi để đảm bảo tính công bằng và tránh xung đột lợi ích.Người tiến hành tố tụng đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó: Nếu người tiến hành tố tụng đã có sự tham gia khác trong vụ án, quy định này yêu cầu họ từ chối hoặc bị thay đổi để tránh xung đột và đảm bảo tính khách quan.Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ: Nếu có bất kỳ căn cứ nào cho việc người tiến hành tố tụng có thể không thực hiện nhiệm vụ một cách vô tư và công bằng, họ cũng cần từ chối hoặc bị thay đổi.Quy định này nhằm đảm bảo tính khách quan và công bằng trong quá trình tố tụng dân sự.(Điều 49, 51, 52, 53, 54 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)Người tiến hành tố tụng dân sự có vai trò gì?Người tiến hành tố tụng dân sự đóng một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính công bằng và công lý trong hệ thống pháp luật. Trách nhiệm của họ được quy định trong Điều 13 của Bộ luật Tố tụng dân sự và bao gồm các điểm sau:Tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân: Người tiến hành tố tụng phải đảm bảo tính tôn trọng và công bằng đối với tất cả các cá nhân, không phân biệt địa vị xã hội hay tài sản, và phải chấp nhận sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của họ.Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình: Người tiến hành tố tụng phải tuân thủ quy định của pháp luật và đảm bảo tính hợp pháp và công bằng trong việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của họ. Trong trường hợp vi phạm pháp luật, họ có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.Giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác, và bí mật đời tư của các đương sự: Người tiến hành tố tụng phải tuân thủ quy định về bảo mật thông tin nhà nước, công tác, và đời tư của các đương sự theo quy định của pháp luật.Bồi thường thiệt hại nếu có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, tổ chức: Trường hợp người tiến hành tố tụng dân sự có hành vi vi phạm pháp luật và gây thiệt hại cho người khác, họ phải bồi thường cho người bị thiệt hại và có trách nhiệm bồi hoàn cho Toà án theo quy định của pháp luật.Những trách nhiệm này nhằm đảm bảo tính công bằng và tuân thủ luật pháp trong hệ thống pháp luật công bằng và công lý.(Điều 13 Bộ luật Tố tụng dân sự)Thủ tục thay đổi người tiến hành tố tụng dân sựQuá trình thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự trong hệ thống pháp luật được quy định cụ thể bởi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và bao gồm các quy định sau:Trường hợp chung thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự: Người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong các tình huống sau đây:Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự.Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ việc đó.Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.Trường hợp thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân: Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong các tình huống sau đây:Thuộc một trong những trường hợp chung thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự.Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau; trong trường hợp này, chỉ có một người được tiến hành tố tụng.Họ đã tham gia giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ việc dân sự đó và đã ra bản án sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, quyết định giải quyết việc dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, trừ trường hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao thì vẫn được tham gia giải quyết vụ việc đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.Trường hợp thay đổi Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên: Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong các tình huống sau đây:Thuộc một trong những trường hợp chung thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự.Họ đã là người tiến hành tố tụng trong vụ việc đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.Là người thân thích với một trong những người tiến hành tố tụng khác trong vụ việc đó.(Điều 52, 53, 54 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)Ai có thẩm quyền thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự?Trong quá trình tố tụng, việc thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự được quy định cụ thể về thẩm quyền của các cơ quan và tổ chức như sau:Thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra: Điều tra viên và Cán bộ điều tra phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong các trường hợp sau đây:Trường hợp quy định tại Điều 49 của Bộ luật Tố tụng hình sự.Đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thẩm tra viên hoặc Thư ký Tòa án.Quyết định thay đổi Điều tra viên, Cán bộ điều tra do Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra quyết định.Thay đổi Kiểm sát viên: Việc thay đổi người tiến hành tố tụng là Kiểm sát viên trước khi mở phiên tòa do Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp được phân công giải quyết vụ án quyết định. Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.Thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm: Việc thay đổi người tiến hành tố tụng là Thẩm phán, Hội thẩm trước khi mở phiên tòa do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án được phân công giải quyết vụ án quyết định. Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án Tòa án thì do Chánh án Tòa án trên một cấp quyết định.Thay đổi Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên: Việc thay đổi người tiến hành tố tụng là Thư ký Tòa án trước khi mở phiên tòa do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án được phân công giải quyết vụ án quyết định. Việc thay đổi Thư ký Tòa án tại phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định.(Điều 51, 52, 53, 54 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015)Câu hỏi thường gặpAi được coi là người tiến hành tố tụng?Người tiến hành tố tụng dân sự là cá nhân hoặc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự, hoặc kiểm sát việc tuân thủ luật pháp trong quá trình tố tụng dân sự.Phải là công chức mới có thể trở thành người tiến hành tố tụng hay không?Phần lớn người tiến hành tố tụng là các công chức nhà nước. Tuy nhiên, hội thẩm nhân dân có thể không phải là công chức nhà nước. Các công chức này đại diện cho các cơ quan thực hiện nhiệm vụ giải quyết vụ việc dân sự và đảm bảo tính công bằng trong quá trình tố tụng.Nhiệm vụ và quyền hạn của thẩm tra viên là gì?Thẩm tra viên có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:Thẩm tra hồ sơ vụ việc dân sự sau khi bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Việc này thường được tiến hành theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.Kết luận và báo cáo kết quả thẩm tra, đồng thời đề xuất phương án giải quyết vụ việc dân sự cho chánh án của tòa án.Thu thập tài liệu và chứng cứ có liên quan đến vụ việc dân sự.Hỗ trợ thẩm phán trong việc thực hiện các hoạt động tố tụng để giải quyết vụ việc dân sự.Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.Thông qua việc thẩm tra, thẩm tra viên đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo tính công bằng và tuân thủ luật pháp trong quá trình tố tụng dân sự.Trường hợp nào phải thay đổi người tiến hành tố tụng dân sự?Người tiến hành tố tụng dân sự phải bị thay đổi trong các trường hợp sau đây:Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự.Họ đã tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ án đó.Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không đảm bảo tính vô tư trong khi làm nhiệm vụ.Thời điểm thay đổi người tiến hành tố tụng ?Thẩm quyền và thủ tục thay đổi người tiến hành tố tụng diễn ra ở hai thời điểm chính:Trước phiên tòa: Thay đổi người tiến hành tố tụng thường được quyết định và thực hiện trước khi diễn ra phiên tòa.Tại phiên tòa: Có trường hợp việc thay đổi người tiến hành tố tụng diễn ra tại phiên tòa do các vấn đề mới nảy sinh hoặc yêu cầu của các bên tham gia vụ án.Viện trưởng Viện kiểm sát bị thay đổi thì ai có quyền quyết định ?Nếu người bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát, thì quyền quyết định việc thay đổi này thuộc về Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên, người đứng đầu cấp trên của Viện kiểm sát bị thay đổi. Việc này đảm bảo tính độc lập và công bằng trong việc xem xét và thực hiện thay đổi người tiến hành tố tụng
Bài viết
[MỚI]Địa điểm kinh doanh phải bao gồm tên doanh nghiệpTừ 2021, tên địa điểm kinh doanh phải bao gồm cả tên doanh nghiệp. Đây là nội dung mới được Quốc hội đề cập đến tại Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14. Quy định mới về tên địa điểm kinh doanhCụ thể, Điều 40 Luật Doanh nghiệp 2020 nêu rõ:Tên chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh phải bao gồm tên doanh nghiệp kèm theo cụm từ “Chi nhánh” đối với chi nhánh, cụm từ “Văn phòng đại diện” đối với văn phòng đại diện, cụm từ “Địa điểm kinh doanh” đối với địa điểm kinh doanh.Hiện nay, Luật Doanh nghiệp năm 2014 không yêu cầu với địa điểm kinh doanh mà chỉ quy định tên chi nhánh, văn phòng đại diện phải mang tên doanh nghiệp kèm cụm từ “chi nhánh” với chi nhánh, cụm từ “văn phòng đại diện” với văn phòng đại diện.  Quy định mới về tên địa điểm kinh doanhNgoài ra, Điều 41 Luật 2020 cũng có quy định cụ thể với tên chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh gồm:– Phải được viết bằng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt, các chữ cái F, J, Z, W, chữ số và các ký hiệu;– Phải được viết hoặc gắn tại trụ sở chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh. Trong đó, tên chi nhánh, văn phòng đại diện được in hoặc viết với khổ chữ nhỏ hơn tên tiếng Việt của doanh nghiệp trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu… do chi nhánh, văn phòng đại diện phát hành.Hồ sơ thành lập địa điểm kinh doanh* Thành phần hồ sơTheo Quyết định 1523/QĐ-BKHĐT, hồ sơ thành lập địa điểm kinh doanh bao gồm:– Thông báo lập địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp theo mẫu tại Phụ lục II-11 Nghị định 122/2020/NĐ-CP.– Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động theo Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư hoặc các giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương chưa thực hiện bổ sung, cập nhật thông tin đăng ký doanh nghiệp để được cấp đăng ký doanh nghiệp thay thế nội dung đăng ký kinh doanh trong Giấp phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương thì ngoài các giấy tờ nêu trên, doanh nghiệp phải nộp kèm theo:+ Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đầu tư;+ Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đăng ký thuế;+ Giấy đề nghị bổ sung, cập nhật thông tin đăng ký hoạt động đối với địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động theo giấy chứng nhận đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.Lưu ý: Trường hợp không phải Chủ sở hữu hoặc Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trực tiếp đến nộp hồ sơ: người được ủy quyền phải nộp văn bản uỷ quyền kèm bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân:– Đối với công dân Việt Nam: Thẻ căn cước công dân hoặc Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu Việt Nam còn hiệu lực.– Đối với người nước ngoài: Hộ chiếu nước ngoài hoặc giấy tờ có giá trị thay thế còn hiệu lực.* Số lượng hồ sơ: 01 bộTrình tự thủ tục lập địa điểm kinh doanhBước 1: Nộp hồ sơCó 02 cách thức để nộp hồ sơ, cụ thể:Cách 1: Nộp hồ sơ trực tiếp tại bộ phận một cửa Phòng Đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đặt địa điểm kinh doanh hoặc chi nhánh.Cách 2: Đăng ký qua mạng tại Cổng thông tin Quốc gia về đăng ký doanh nghiệp bằng chữ ký số công cộng hoặc sử dụng tài khoản đăng ký kinh doanh . Đối với Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh phải đăng ký qua mạng.Bước 2: Tiếp nhận và giải quyết hồ sơBước 3: Nhận kết quả* Thời hạn giải quyết: 03 ngày làm việc* Lệ phí giải quyết:– 50.000 đồng/lần đối với hồ sơ nộp trực tiếp tại bộ phận một cửa Phòng Đăng ký kinh doanh.– Miễn lệ phí đối với hồ sơ đăng ký qua mạng điện tử.Trên đây là bài viết tham khảo về một số quy định mới về hộ kinh doanh từ năm 2021. Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và hỗ trợ.
Bài viết
KHỦNG HOẢNG TRUYỀN THÔNG - ẢNH HƯỞNG – BÀI HỌC XỬ LÝ  KHỦNG HOẢNG Khủng hoảng truyền thông có thể xảy ra với các thương hiệu bất kỳ lúc nào nhất là trong thời đại mạng xã hội đang bùng nổ. Việc kiểm soát khủng hoảng cho các thương hiệu cần có những chiến lược xử lý và phương pháp giải quyết nhanh chóng. Đặc biệt để lấy lại niềm tin của khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải có động thái rõ ràng và tích cực. Bởi vậy, khủng hoảng truyền thông luôn là “bóng đen” đối với các doanh nghiệp. Vậy khủng khoảng truyền thông là gì? Nó được hình thành như thế nào ? Có ảnh hưởng ra sao ?Bài viết dưới đây là một nghiên cứu bao gồm các ví dụ cụ thể, file dowload tình huống tại cuối bài, phân tích và giải pháp chi tiết về Khủng hoảng truyền thôngKhủng hoảng truyền thông là gì?Khủng hoảng truyền thông là cụm từ tiếng Việt được dịch ra từ chữ crisis. Định nghĩa chung, khủng hoảng truyền thông là những sự kiện xảy ra ngoài tầm kiểm soát của công ty khi có thông tin bất lợi về công ty hay sản phẩm. Sự bất lợi này đe dọa đến việc tiêu thụ sản phẩm hoặc làm giảm uy tín của công ty.Theo định nghĩa giáo khoa, “khủng hoảng truyền thông là bất kỳ một sự kiện ngoài ý muốn nào mang mối đe dọa nghiêm trọng đến uy tín của công ty hoặc niềm tin của các bên liên quan. Sự kiện có thể là một hành động vi phạm lòng tin, một sự thay đổi trong môi trường cạnh tranh, cáo buộc bởi các nhân viên hoặc những người khác, một nghị định đột ngột của chính phủ, lỗ hổng trong sản phẩm, hoặc bất kỳ tác động tiêu cực nào khác” hay nói một cách đơn giản, “khủng hoảng là bất kỳ một sự kiện nào có khả năng ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh của công ty đối với công chúng của nó”.Ba yếu tố chung cho một cuộc khủng hoảng: Mối đe dọa đối với tổ chứcYếu tố bất ngờThời gian quyết định ngắnVenette  lập luận rằng “khủng hoảng là một quá trình biến đổi trong đó hệ thống cũ không còn có thể được duy trì”. Do đó, yếu tố thứ tư của khủng hoảng là sự cần thiết phải thay đổi. Nếu không cần thay đổi, sự kiện có thể được mô tả chính xác hơn là sự cố hoặc sự cố.Các loại khủng hoảng truyền thôngBất kỳ một sự việc nào cũng có mối quan hệ biện chứng giữa “nguyên nhân – kết quả”. Đúng vậy, các cuộc khủng hoảng truyền thông không tự nhiên sinh ra mà nó có thể xuất phát từ các xung đột chính, cơ bản như:Xung đột lợi ích: Một nhóm các cá nhân hoặc nhóm có mâu thuẫn với các tập đoàn về những lợi ích nhất định từ đó dẫn đến các hoạt động chống phá để mang lợi ích về phe mình. Các hoạt động chủ yếu của xung đột này là tẩy chay. Xung đột này, trên thị trường khốc liệt hiện nay thì thường xuyên xảy ra.Cạnh tranh không công bằng: Công ty hoặc tổ chức đối thủ có các động thái vượt ngoài khuôn khổ pháp luật nhằm chống phá, bôi nhọ, hạ nhục danh tiếng của công ty kia. Tuy các hoạt động này đã được giới hạn nhưng vẫn còn đó mà cụ thể là hành động bắt nạt trên mạng.“Một con sâu làm rầu nồi canh”: Một cá nhân đại diện trong công ty, tổ chức có hành vi phạm tội, gây rúng động trong cộng đồng, khiến cộng đồng mất niềm tin và quay lưng với tổ chức. Trường hợp này cũng rất hay xảy ra ví dụ như vụ việc của Agribank.Khủng hoảng liên đới: Đối tác của công ty mình bị vướng vào vòng lao lý, từ đấy có một số tin đồn thất thiệt trên mạng xã hội nhắm vào làm bôi nhọ danh tiếng công ty khi đánh đồng công ty với những việc làm sai trái của đối tác.Khủng hoảng tự sinh: Các hoạt động truyền thông, sản phẩm hay dịch vụ vô tình có những lỗi hoặc phốt dẫn đến sự bất bình và lan truyền rộng rãi. Đây là lý do thường xuyên và phổ biến trong các doanh nghiệp. Ví dụ: vụ chai nước có ruồi của công ty Tân Hiệp Phát.Khủng hoảng chồng khủng hoảng: Là khi công ty, tổ chức xử lý truyền thông không khéo, không có thái độ thành khẩn sửa chữa lỗi lầm dẫn đến sự phẫn nộ sâu sắc hơn từ cộng đồng. Khủng hoảng này thường xảy ra khi công ty không có một chiến lược giải quyết khủng hoảng quy củ, cẩn thận.Và kết quả của những loại xung đột cộng thêm nhiều gia vị của truyền thông đã tạo nên những cuộc khủng hoảng truyền thông. Khủng hoảng truyền thông vừa là cơ hội, cũng vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp. Căn cứ vào mức độ ảnh hưởng, tính chất của cuộc khủng hoảng, có thể chia thành các loại khủng hoảng truyền thông như sau:Khủng hoảng âm ỉLà những khủng hoảng hay vấn đề một nhóm người đã có với công ty, tổ chức nhưng những vấn đề này quá nhỏ hoặc nó chưa đủ sức lan truyền rộng ra cộng đồng. Nhưng càng về lâu về dài, những vấn đề lớn dần và phát sinh khủng hoảng rộng lớn. Khi khủng hoảng phát sinh, doanh nghiệp rất khó giải quyết vì sự chậm trễ trong thay đổi không mang lại giá trị tích cực đến khách hàng. Khi phát sinh các nguy cơ âm ỉ, doanh nghiệp nên có sự đánh giá suy xét từ đó chặn đứng các nguy cơ có thể có.Khủng hoảng bất chợtLà những khủng hoảng bất chợt xuất hiện mà không có cảnh báo hay dự đoán như một chai nước bị kém chất lượng hay nhân viên phạm tội, những khủng hoảng này lỗi không hoàn toàn do công ty và cách giải quyết nên là thành thật xin lỗi, giải quyết hậu quả bằng tất cả khả năng.Khủng hoảng đa kênhKhủng hoảng đa kênh (Omni-channel) chứa nhiều khả năng gây hại nhất vì nó thu hút sự chú ý của nhiều kênh truyền thông. Nếu một thương hiệu đang đối phó với một tình huống cực đoan, chẳng hạn như cáo buộc quấy rối nơi làm việc, thu hồi sản phẩm hoặc các hành vi không phù hợp tại công ty, thì nó có thể phải đón nhận phản hồi tiêu cực trên phương tiện truyền thông xã hội và trên các phương tiện truyền thông truyền thống.Chuẩn bị đối phó bằng cách có một kế hoạch quản lý khủng hoảng mạnh mẽ thường xuyên được áp dụng và cập nhật. Trong những tình huống như thế này, một phản ứng nhanh chóng và xác thực có thể tạo ra sự khác biệt lớn. Đảm bảo rằng tất cả các tin nhắn được đăng không chỉ trên trang web của công ty mà còn trên bất kỳ kênh xã hội nào đang nhận được phản hồi tiêu cực. Và mặc dù tính nhất quán trong thông điệp của công ty là chìa khóa, từ ngữ nên được chau chuốt để thể hiện thái độ chân thành.Với các mức độ, phương thức khủng hoảng khác nhau như vậy, thì liệu khủng hoảng truyền thông  tất cả đều là xấu, hay nó chính là một bàn đạp thể hiện sự đẳng cấp, khốn khéo của con người và là cơ hội cho các doanh nghiệp chuyển mình, vươn lên?Ảnh hưởng của khủng hoảng truyền thôngNền kinh tế phát triển càng năng động, quyền con người được đề cao, sức mạnh truyền thông ngày càng lớn, tất cả đều có 2 mặt: tích cực và tiêu cực.  Khủng hoảng truyền thông là bất kì một chuyện xấu gì xảy đến với doanh nghiệp hoặc tổ chức được lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội truyền thông, làm ảnh hưởng đến danh tiếng từ đó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động, kinh doanh của các đối tượng bị khủng hoảng tác động đến.Khủng hoảng truyền thông thường kéo theo các cảm xúc tiêu cực không cần thiết mà hệ quả mang lại rất nặng nề:Làm lu mờ phán đoán chính xác.Tổn hại đến các đối tác của tổ chức bị khủng hoảng.Có tính lan truyền cao.Tính chính trực và danh tiếng của công ty cũng sẽ bị ảnh hưởng rõ nét phụ thuộc vào hành động của họ. Việc giải quyết kịp thời các khủng hoảng truyền thông là một bài toán khó của mọi ban ngành tổ chức. Khi gặp phải khủng hoảng, các cấp lãnh đạo, phòng ban nên có sự đối thoại nhanh chóng, rõ ràng để từ đó có thể giải quyết hiệu quả khủng hoảng, đặc biệt là khủng hoảng truyền thông xã hội. Các ngành nghề dễ bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng có thể kể đến thương mại điện tử, mạng xã hội, ngành thời trang,..Ví dụ, Những năm vừa qua, đã không ít các thương hiệu thiết sót trong việc xử lý khủng hoảng truyền thông. Như sự việc đáng tiếc của hãng Boeing để xảy ra hai vụ tai nạn nghiêm trọng đối với máy bay 737 Max 8 mới của mình, hãng phải chấp nhận mất doanh thu và thu nhập trên mỗi cổ phần đã giảm hơn 40% so với năm 2018. Hay trường hợp của Taco Bell xử trí khi nhân viên làm ảnh hưởng xấu đến thương hiệu trên Facebook…Khủng hoảng truyền thông là điều mà mọi doanh nghiệp đều không muốn xảy ra. Trong việc xử lý khủng hoảng, sẽ không có một quy trình chuẩn nào cả. Vì trong quá trình diễn ra khủng hoảng, sự việc biến đổi không ngừng. Nên cái doanh nghiệp cần chính là sự chuẩn bị. Và áp dụng linh hoạt các nguyên tắc xử lý khủng hoảng truyền thông. Sao cho phù hợp với từng tình huống, diễn biến tình hình bấy giờ.Tuy nhiên, cũng không thể nói hoàn toàn, khủng hoảng truyền thông đều có tác động xấu. Bởi lẽ, khủng hoảng cũng có thể là chất xúc tác có tác dụng kích thích tính năng động sáng tạo, huy động tối đa tiềm lực trí tuệ của con người, cộng đồng và xã hội. Chỉ cần, kịp thời đưa ra nhưng giải pháp, chiến lược phù hợp để xử lý thì tất cả có thể biến thành cơ hội hành động kêu gọi một cách thông minh, thì đương nhiên sẽ biến “nguy thành an” biến “ khó khăn thành cơ hội”. Điển hình như: KFC Xử lý khủng hoảng truyền thông tốt có thể giúp bạn biến bê bối thành một chiến lược độc đáo và thu về những phản hồi tích cực.Như vậy, thực tế đã chứng minh, có nhiều doanh nghiệp đã thật sự thất bại, điêu đứng trên bờ vực phá sản,…vì khủng khoảng truyền thông, nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp trở mình trên đường đua một cách ngoại mục.Các giải pháp xử lý khủng hoảng truyền thông THƯỜNG THẤYNhanh chóng đánh giá vấn đề gây khủng hoảngĐiều đầu tiên khi có những dấu hiệu khủng hoảng truyền thông là lập tức chúng ta phải tiếp cận và đánh giá vấn đề trong thời gian ngắn nhất. Trong đó, đặt ra các câu hỏi là một cách hiệu quả để nhìn nhận vấn đề một cách trực quan nhất.Vấn đề này có ảnh hưởng đến uy tín và danh tiếng của tổ chức, doanh nghiệp? Nó có ảnh hưởng đến bộ máy cấp cao hay không? Mức độ nghiêm trọng của vấn đề truyền thông nằm mà doanh nghiệp bạn đang gặp phải nằm ở khoảng nào ?Phản hồi với các đối tác, khách hàngThực tế, tốc độ phản hồi khách thực sự rất quan trọng khi khủng hoảng truyền thông xảy ra. Sự im lặng và thụ động sẽ biến mọi tình huống trở nên tệ hại hơn và nhận được nhiều sự giận dữ hơn.Hãy luôn trong tư thế sẵn sàng nhận các phàn nàn từ phía các đối tác, khách hàng và phản hồi ngay lập tức. Nếu bạn chưa thể có câu trả lời ngay, hãy ước tính một khoảng thời gian về phía khách hàng để họ cảm nhận rằng chúng ta thực sự quan tâm đến vấn đề họ đang mắc phải.Có thái độ tích cực và trung thựcChúng ta không nên che giấu và không rõ ràng với truyền thông, mạng xã hội khi có khủng hoảng truyền thông xảy ra.Lên tiếng trên mạng xã hội, đưa ra thông cáo, lời xin lỗi trình bày rõ ràng vấn đề chúng ta đang mắc phải và đưa ra phương hướng giải quyết chính là phương pháp để trấn an khách hàng, đối tác đồng thời nhận được sự thông cảm của dư luận.Như CMO Will McInnes của Brandwatch từng nói: “Chiến dịch có thể sẽ sai. Các thông điệp được kiểm tra trong nhóm sẽ không hiệu quả.Nhân viên sẽ không hành động đúng. Nhưng người tiêu dùng sẽ chấp nhận lỗi lầm khi nhận được những phản hồi phù hợp.”Xây dựng quy trình bài bản đề phòng khủng hoảng truyền thôngNgười ta vẫn thường nói: “Phòng bệnh hơn chữa bệnh.” Cách tốt nhất để xử lý khủng hoảng truyền thông là tiêu diệt triệt để những lối mòn có thể dẫn đến khủng hoảng truyền thông trước khi nó xảy ra. Có những cách để ngăn chặn khủng hoảng truyền thông như:Xây dựng một đội ngũ thiết kế và quản lý web chuyên nghiệp để đăng tải và cập nhập thông tin kịp thờiKiểm soát chặt chẽ những thông tin phát tán trên mạng xã hội.Cẩn thận kiểm tra tất cả những sản phẩm truyền thông (viral videos, photos…) trước khi tạo chiến dịch truyền thông.Không nên quảng cáo quá xa vời thực tế, lố lăng về chất lượng doanh nghiệp.Có rất nhiều phương pháp xử lý khủng hoảng truyền thông, sự lựa chọn phương pháp giải quyết phù hợp là rất quan trọng nó quyết định đến sự thành bại.VÍ DỤ Khủng hoảng truyền thông của United Airlines: Bài học về quản lý khủng hoảng và giữ uy tín"Mở đầu: Trong lịch sử của ngành hàng không, khủng hoảng truyền thông của United Airlines vào năm 2017 là một ví dụ điển hình về cách một sự cố có thể gây tổn hại lớn đến hình ảnh của một công ty. Bài viết này sẽ phân tích nguyên nhân, quá trình và kết quả của sự cố này, cũng như bài học quan trọng về quản lý khủng hoảng truyền thông.Nguyên nhân: Sự cố bắt đầu khi một video ghi lại cảnh một hành khách bị kéo ra khỏi máy bay của United Airlines trở nên viral trên mạng xã hội. Hành khách này đã mua vé và ngồi xuống ghế của mình, nhưng sau đó đã bị yêu cầu rời khỏi máy bay do quá tải. Khi người đàn ông này từ chối, anh ta đã bị lực lượng an ninh kéo ra khỏi máy bay một cách bạo lực.Quá trình: Sau khi video này trở nên phổ biến trên mạng xã hội, United Airlines đã phải đối mặt với sự chỉ trích gay gắt từ cộng đồng trực tuyến và truyền thông. Ban đầu, CEO của United Airlines đã phát hành một tuyên bố bào chữa cho hành động của nhân viên an ninh và không xin lỗi trực tiếp đến hành khách bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, sau khi gặp phản ứng tiêu cực từ cộng đồng, CEO đã phát hành một tuyên bố xin lỗi và hứa sẽ không bao giờ để sự cố tương tự xảy ra lại.Kết quả: United Airlines đã phải trả giá đắt cho khủng hoảng truyền thông này. Giá cổ phiếu của hãng đã giảm sút, và hãng đã mất đi sự tin tưởng của khách hàng. Tuy nhiên, sau khi xin lỗi và thực hiện các biện pháp cải thiện, hãng đã dần khôi phục lại uy tín của mình.Bài học: Khủng hoảng truyền thông này cho thấy sự quan trọng của việc xử lý tình huống một cách nhân văn và tôn trọng quyền lợi của khách hàng. Ngoài ra, việc phản hồi nhanh chóng và chân thành cũng rất quan trọng trong việc giảm thiểu thiệt hại cho hình ảnh của doanh nghiệp. Cuối cùng, việc xây dựng một kế hoạch truyền thông khẩn cấp và đào tạo nhân viên về cách xử lý khủng hoảng truyền thông cũng rất quan trọng.Kỹ năng quan trọng trong việc xử lý khủng hoảng truyền thông: Bí quyết giữ vững uy tín doanh nghiệp - GIẢI PHÁP TƯ VẤN THỰC TẾ chỉ có tại TTPL.VNKhủng hoảng truyền thông có thể xảy ra bất ngờ và gây ra những thiệt hại lớn đối với hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp. Để đối phó hiệu quả với những tình huống khó khăn này, doanh nghiệp cần có các chiến lược xử lý khủng hoảng truyền thông hiệu quả. Dưới đây là bốn chiến lược quan trọng mà mọi doanh nghiệp nên áp dụng.Xây dựng chiến lược CHI TIẾT xử lý khủng hoảng: Để đối phó với khủng hoảng truyền thông, doanh nghiệp cần có một chiến lược xử lý khủng hoảng rõ ràng. Việc này cần sự giúp sức của nhiều hệ thống, xây dựng chi tiết chiến lược là không thể thiếu.Điều này bao gồm việc xác định trước các bước cần thực hiện, lựa chọn kênh truyền thông và xác định thông điệp cần truyền đạt.Xây dựng kế hoạch seeding mạng xã hội: Seeding là việc sử dụng các tài khoản mạng xã hội để truyền đạt thông điệp của doanh nghiệp đến cộng đồng trực tuyến. Doanh nghiệp cần xây dựng một kế hoạch seeding hiệu quả để đảm bảo thông điệp của mình được truyền đạt đến đối tượng mục tiêu một cách hiệu quả.Xây dựng hệ thống báo chí và trang mạng cùng ngành: Doanh nghiệp cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với báo chí và trang mạng cùng ngành. Điều này giúp doanh nghiệp có thể truyền đạt thông điệp của mình đến cộng đồng một cách nhanh chóng và hiệu quả.Xây dựng một kế hoạch truyền thông khẩn cấp: Một kế hoạch truyền thông khẩn cấp giúp doanh nghiệp xác định trước các bước cần thực hiện khi xảy ra khủng hoảng. Kế hoạch này nên bao gồm việc xác định người phát ngôn, lựa chọn kênh truyền thông, và xác định thông điệp cần truyền đạt. Điều này giúp doanh nghiệp phản hồi nhanh chóng và kiểm soát tình hình.Tạo ra một đội ngũ quản lý khủng hoảng truyền thông: Đội ngũ này nên bao gồm các chuyên gia truyền thông, quan hệ công chúng và quản lý khủng hoảng. Họ sẽ chịu trách nhiệm giám sát tình hình, đưa ra quyết định và thực hiện các chiến lược xử lý khủng hoảng truyền thông.Sử dụng các kênh truyền thông khác nhau để truyền đạt thông điệp của bạn: Trong thời đại số hóa, việc sử dụng đa kênh truyền thông là cần thiết. Doanh nghiệp nên sử dụng cả truyền thông truyền thống và truyền thông số để truyền đạt thông điệp của mình. Điều này giúp doanh nghiệp tiếp cận được nhiều đối tượng khác nhau và truyền đạt thông điệp một cách hiệu quả.Theo dõi và đánh giá hiệu quả của các chiến lược xử lý khủng hoảng truyền thông: Sau khi áp dụng các chiến lược, doanh nghiệp nên theo dõi và đánh giá hiệu quả của chúng. Điều này giúp doanh nghiệp biết được những gì đã làm đúng và những gì cần cải thiện trong tương lai.Kết luận: Khủng hoảng truyền thông là một thách thức lớn đối với mọi doanh nghiệp. Tuy nhiên, với các chiến lược xử lý khủng hoảng truyền thông hiệu quả, doanh nghiệp có thể giữ vững uy tín và tiếp tục phát triển mạnh mẽ.CẦN HƯỚNG DẪN CHI TIẾT XỬ LÝ, HÃY ẤN VÀO BÌNH LUẬN BÀI VIẾT NHÉTài liệu về khủng hoảng truyền thôngDưới đây là một số tài liệu cần biết về khủng hỏang truyền thông của các thương hiệu lớn và phương thức xử lý, bài học rút ra rất hữu ích: Ngày thứ 2 đen tối và cơn ác mộng của người làm truyền thông: Tải về05 ví dụ về khủng hoảng truyền thông và bài học rút ra: Tải về10 bài học điển hình về xử lý khủng hoảng truyền thông: Tải vềCơ chế lan truyền của khủng hoảng truyền thông: Tải vềDomino-s Pizza- Dội nước dập tắt khủng hoảng truyền thông, thay vì im lặng chờ chết: Tải vềKhi nhân viên làm xấu hình ảnh thương hiệu trên facebook đừng xử trí như Taco Bell: Tải vềNestle và Bài học xử lý khủng hoảng trên mạng xã hội: Tải vềSocial Listening- khủng hoảng truyền thông của Agribank ảnh hưởng như thế nào ? Tải vềSocial Listening- Vì đâu BaBy Care gặp phải khủng hoảng truyền thông: Tải về Tổng hợp các cuộc khủng hoảng truyền thông:Trên đây là các thông tin tư vấn của Legalzone về phương án quản lý doanh nghiệp hiệu quả. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn và sử dụng dịch vụ.
Bài viết
Trong bối cảnh tài chính cá nhân ngày càng phổ biến, các tổ chức tín dụng chơi một vai trò quan trọng trong việc cung cấp tiền mặt và dịch vụ tài chính cho người dân. Trong số những tổ chức này, FE Credit là một cái tên được nhiều người biết đến, đặc biệt trong lĩnh vực đòi nợ. Họ thực hiện một loạt biện pháp để đảm bảo khách hàng tuân thủ thỏa thuận và trả nợ đúng hạn. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu cách FE Credit thực hiện quy trình đòi nợ và những điều quy định liên quan.1. Fe credit được hiểu là gì?Fe Credit bắt đầu hoạt động vào năm 2015 sau khi trước đó là một phần của VPBank, một trong những Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng. Tuy nhiên, từ năm 2015 trở đi, FE Credit đã hoạt động độc lập dưới tư cách là Công ty TNHH Tài chính FE Credit.Kể từ đó, FE Credit đã phục vụ hơn 10 triệu người dân thông qua mạng lưới gồm hơn 13,000 điểm bán hàng và hơn 17,500 nhân viên, cùng với hơn 9,000 đối tác. Chủ yếu, FE Credit chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính tiêu dùng như vay tiền mặt, thẻ tín dụng, vay mua xe máy và vay mua điện thoại di động.Chúng ta đã quen thuộc với FE Credit qua các chương trình mua sắm trả góp 0% tại các đại lý bán hàng điện máy và xe hơi trên toàn quốc. Đây là một phương thức nhanh chóng và tiện lợi để đáp ứng nhu cầu vay tiền của những người cần tài chính gấp.2. Fe credit đòi nợ hiện nay như thế nào?Để thu hồi khoản nợ từ những người vay tiền không tuân thủ hoặc cố ý không trả nợ, nhân viên đội ngũ đòi nợ của FE Credit thực hiện các phương thức sau:Nhắn tin đòi nợ: Đây là một trong những phương thức phổ biến để đòi nợ. Ban đầu, tin nhắn từ nhân viên đòi nợ sẽ mang tính nhẹ nhàng và lịch sự, nhưng nếu không nhận được phản hồi hoặc thanh toán, tin nhắn sẽ trở nên cứng rắn. Ban đầu, sẽ có nhắn tin qua điện thoại.Liên hệ qua mạng xã hội: Trong trường hợp người vay không phản hồi tin nhắn hoặc cuộc gọi, bộ phận đòi nợ có thể thực hiện liên hệ thông qua mạng xã hội.Cuộc gọi điện thoại đòi nợ: FE Credit sử dụng nhiều số điện thoại khác nhau, do đó, khó nhận biết cuộc gọi từ họ. Một số người có thể cố gắng chặn cuộc gọi từ FE, nhưng không thể chặn được tất cả.Tăng cường áp lực: Nếu người vay tiếp tục không trả tiền, nhân viên đòi nợ sẽ tăng cường áp lực theo từng cấp độ. FE Credit có thể thậm chí đưa vụ việc ra tòa án nếu người vay không hợp tác.Liên quan đến người thân: Khách hàng sẽ cung cấp danh sách bạn bè và người thân cho FE Credit, bao gồm tên, số điện thoại và tài khoản mạng xã hội, để FE Credit nhắc nhở người vay trả nợ. Đây là một hình thức đòi nợ khiến cho cả người vay và người thân cảm thấy không thoải mái, vì nó tiết lộ thông tin cá nhân về tình trạng nợ của người vay.Vậy nếu bạn không trả hoặc cố ý không trả nợ, FE Credit sẽ thực hiện các biện pháp đòi nợ như nhắn tin, cuộc gọi điện thoại, và thậm chí làm phiền người thân. Mức độ của các biện pháp này sẽ phụ thuộc vào mức độ hợp tác của người vay.3. Quy trình fe credit đòi nợ như thế nào? Quy trình đòi nợ của FE Credit tuân theo một chuỗi bước như sau:Nhắc nhở trước hạn: Trước khi hạn trả nợ hoặc kỳ trả góp đến gần, nhân viên của FE Credit sẽ liên hệ với khách hàng. Họ sẽ thông báo địa điểm và ngày tháng thanh toán nếu khách hàng phản hồi.Liên tục nhắc nhở: Nếu khách hàng không tuân thủ thời hạn trả nợ, nhân viên sẽ tiếp tục gọi điện thoại và nhắn tin nhắc nhở. Nếu khách hàng không phản hồi hoặc ngắt kết nối, FE Credit sẽ tăng cường áp lực thông qua các cuộc gọi từ những người khác với mức độ đòi nợ tăng dần.Đòi nợ qua mạng xã hội: FE Credit sẽ tiếp tục đòi nợ trên các mạng xã hội như Facebook và Zalo nếu cuộc gọi điện thoại không đạt được. Các thông điệp có thể trở nên khó chịu và đe dọa kiện ra tòa.Liên hệ với bạn bè hoặc người thân: Trong một nỗ lực cuối cùng, FE Credit có thể liên hệ với danh sách bạn bè hoặc người thân được cung cấp bởi khách hàng. Tuy nhiên, phương pháp này thường gây xung đột và mất mát mối quan hệ.Gửi giấy báo nợ: Nếu không có sự hợp tác từ khách hàng, FE Credit sẽ gửi giấy báo nợ đến địa chỉ được ghi trong hợp đồng vay.Tố tụng tại tòa: Trong những trường hợp với số nợ lớn, FE Credit có thể đưa vụ việc ra tòa để giải quyết và đòi nợ một cách hợp pháp.Vậy, quy trình đòi nợ sẽ tăng dần theo mức độ trì hoãn trả nợ của người vay, và FE Credit sẽ áp dụng biện pháp đòi nợ tương ứng cho đến khi nợ được thanh toán hoàn toàn.4. Fe Credit đòi nợ làm phiền liên tục cần phải làm gì?Theo quy định tại Khoản 7 Điều 1 Thông tư 18/2019/TT-NHNN, các biện pháp đôn đốc và thu hồi nợ phải tuân theo nguyên tắc phù hợp với đặc thù của khách hàng, các quy định của pháp luật, và chỉ có thể được áp dụng sau khi có yêu cầu từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bảo mật thông tin của khách hàng phải được tuân theo quy định của pháp luật. Do đó, không được áp dụng các biện pháp như sau:Đe dọa khách hàng: Không được sử dụng các biện pháp đe dọa đối với khách hàng, trong đó số lần nhắc nợ tối đa là 05 lần trong một ngày, nhưng phải tuân theo khoảng thời gian từ 7 giờ sáng đến 21 giờ tối.Thu hồi nợ đối với tổ chức, cá nhân không có nghĩa vụ trả nợ: Không được áp dụng các biện pháp đòi nợ, gửi thông tin về việc thu hồi nợ của khách hàng đối với tổ chức hoặc cá nhân không có nghĩa vụ trả nợ.Căn cứ vào quy định tại Điểm g Khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, việc sử dụng thông tin số để đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, hoặc vu khống uy tín của người khác có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng.Vậy nếu trong trường hợp FE Credit đòi nợ nhiều lần mà không có nghĩa vụ trả nợ từ phía khách hàng hoặc không có quan hệ gì với người vay, người bị làm phiền có thể liên hệ với doanh nghiệp viễn thông mà họ là khách hàng hoặc gửi đơn khiếu nại cho Sở Thông tin và Truyền thông địa phương để yêu cầu giải quyết.Kết luận:FE Credit là một trong những tổ chức tài chính quan trọng tại Việt Nam, và việc họ đòi nợ là một phần quan trọng của hoạt động kinh doanh của họ. Tuy nhiên, quá trình đòi nợ phải tuân theo quy định của pháp luật và phải được thực hiện một cách công bằng và đúng luật. Khách hàng cũng cần hiểu rằng trách nhiệm trong việc trả nợ là rất quan trọng, và việc hợp tác với FE Credit có thể giúp tránh được những tình huống không mong muốn. 
Bài viết
Bảo hiểm thất nghiệp là một cơ chế quan trọng, giúp hỗ trợ người lao động trong những giai đoạn khó khăn khi họ mất việc làm. Tuy nhiên, để đảm bảo hoạt động hiệu quả và bền vững của quỹ bảo hiểm thất nghiệp, việc xác định mức đóng cũng như hiểu rõ nguồn hình thành của quỹ này là vô cùng quan trọng. Bài viết sau đây sẽ phân tích và giải đáp những thắc mắc liên quan đến mức đóng và nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, giúp người đọc có cái nhìn sâu rộng và đầy đủ hơn về vấn đề này.Bảo hiểm thất nghiệp là gì?Trong bối cảnh kinh tế phức tạp, bảo hiểm thất nghiệp trở thành một giải pháp hỗ trợ quan trọng, giúp giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho người lao động.Bảo hiểm thất nghiệp là một chế độ giúp bù lại một phần thu nhập cho những người mất việc, đồng thời hỗ trợ họ trong việc đào tạo nghề và tìm kiếm cơ hội làm việc mới, dựa trên việc đóng góp vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp (theo khoản 4 Điều 3 Luật Việc làm 2013).Nhờ vào sự hỗ trợ từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp, nhiều người lao động đã tìm ra cách giải quyết vấn đề việc làm, khẳng định vị thế của mình trên thị trường lao động và đóng góp vào sự ổn định và phát triển của xã hội.Mức đóng vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp được xác định như nào?Mức đóng góp và trách nhiệm trong việc đóng góp vào Quỹ Bảo hiểm Thất nghiệp (BHTN) được quy định cụ thể theo Khoản 1 Điều 57 của Luật Việc làm năm 2013. Theo đó:- Mỗi người lao động cần đóng 1% từ tiền lương hàng tháng của mình.- Người sử dụng lao động cũng phải đóng 1% từ quỹ lương hàng tháng dành cho nhân viên đang tham gia BHTN.- Nhà nước cam kết hỗ trợ thêm tối đa 1% từ quỹ lương hàng tháng cho việc đóng góp BHTN, với ngân sách được đảm bảo bởi chính phủ trung ương.Tổng cộng, mức đóng góp vào Quỹ BHTN là 3%, với 1% từ người lao động, 1% từ người sử dụng lao động, và 1% từ sự hỗ trợ của nhà nước.Quỹ BHTN hình thành từ nhiều nguồn khác nhau:- Đóng góp từ người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ từ nhà nước.- Lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư của Quỹ BHTN.- Các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật, bao gồm tiền lãi từ việc trễ hạn đóng góp BHTN và các khoản thu hợp pháp khác.Quỹ BHTN được sử dụng cho các mục đích sau:- Thanh toán trợ cấp thất nghiệp.- Hỗ trợ đào tạo, cập nhật kỹ năng nghề nghiệp để giữ việc làm cho người lao động.- Hỗ trợ học nghề.- Hỗ trợ tư vấn và giới thiệu việc làm.- Chi trả bảo hiểm y tế cho người nhận trợ cấp thất nghiệp.- Chi phí quản lý BHTN theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội.- Đầu tư để bảo toàn và phát triển Quỹ.Phương thức đóng tiền vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp?Cách thức đóng góp vào Quỹ Bảo hiểm Thất nghiệp (BHTN) diễn ra hàng tháng theo các quy định sau:- Người sử dụng lao động cần đóng góp vào BHTN theo tỷ lệ quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 57 của Luật Việc làm 2013. Họ cũng cần trích một phần từ lương của nhân viên theo tỷ lệ quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 57 của cùng một luật, để đóng góp vào Quỹ BHTN.- Sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho Quỹ BHTN tuân theo nguyên tắc đảm bảo số dư quỹ hàng năm ít nhất bằng hai lần tổng chi cho các chế độ BHTN và chi phí quản lý của năm trước. Tuy nhiên, mức hỗ trợ không vượt quá 1% quỹ lương hàng tháng dành cho BHTN của những người đang tham gia. Cách thức chuyển kinh phí như sau:Vào quý IV mỗi năm, Bảo hiểm xã hội Việt Nam sẽ dựa trên dự toán thu-chi BHTN được phê duyệt để xác định kinh phí hỗ trợ cho Quỹ BHTN của năm trước, tuân theo quy định tại Khoản 1 của Điều này. Số kinh phí này sẽ được gửi đến Bộ Tài chính để chuyển vào Quỹ BHTN một lần.Trong vòng 10 ngày làm việc kể từ khi nhận báo cáo quyết toán từ Bảo hiểm xã hội Việt Nam, đã được Hội đồng Quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam chấp thuận, Bộ Tài chính sẽ thẩm định và quyết định kinh phí hỗ trợ cho Quỹ BHTN năm trước. Nếu kinh phí mà Bộ Tài chính đã cấp nhiều hơn số tiền cần hỗ trợ theo quy định tại Khoản 1 của Điều này, Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải trả lại phần chênh lệch cho ngân sách nhà nước. Ngược lại, nếu số tiền cấp ít hơn, Bộ Tài chính sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền để phê duyệt kinh phí hỗ trợ bổ sung trong năm tiếp theo.Kinh phí hỗ trợ Quỹ BHTN đều được bảo đảm bởi ngân sách trung ương, từ nguồn chi đảm bảo xã hội đã được Quốc hội quyết định.Kết luận Mức đóng góp phải được xác định một cách hợp lý để đảm bảo quỹ có đủ kinh phí hoạt động và cùng lúc đó, không tạo áp lực tài chính quá lớn lên người lao động và người sử dụng lao động. Ngoài ra, việc hình thành quỹ từ nhiều nguồn khác nhau cần được quản lý chặt chẽ và minh bạch, điều này đòi hỏi sự phối hợp mật thiết giữa các cơ quan quản lý, người sử dụng lao động, và người lao động. Một hiểu biết đầy đủ và chi tiết về các khía cạnh này sẽ giúp người lao động cảm thấy an tâm hơn với quỹ bảo hiểm thất nghiệp, thúc đẩy sự tham gia tích cực và từ đó góp phần nâng cao chất lượng an sinh xã hội. Nếu có thắc mắc khác liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp, bạn có thể truy cập Thủ tục pháp luật để cập nhật thông tin và hướng dẫn chi tiết. 
Bài viết
Phương pháp thực hiện việc thông báo về việc cập nhật danh mục hàng hóa kinh doanh đa cấpCó thể thực hiện thông qua hình thức trực tiếp, online hoặc sử dụng dịch vụ bưu điện.Thành phần và số lượng của hồ sơ:Tài liệu thông báo về việc cập nhật thông tin hàng hóa kinh doanh theo mô hình đa cấp, chi tiết về các thay đổi;Một bản cập nhật của danh mục hàng hóa kinh doanh theo mô hình đa cấp. Tổng số hồ sơ cần nộp: Một bộ.Thời gian xử lý: Khi đã nhận hồ sơ, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có 15 ngày làm việc để giải quyết, trừ khi họ yêu cầu sửa chữa hoặc bổ sung thêm.Đối tượng cần thực hiện thủ tục này: Các doanh nghiệp muốn cập nhật thông tin trong danh mục hàng hóa kinh doanh theo mô hình đa cấp.Cơ quan chịu trách nhiệm xử lý thủ tục: Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là cơ quan phụ trách việc này.Quy trình thực hiện thủ tục thông báo cập nhật danh mục hàng hóa kinh doanh đa cấpNộp văn bản thông báo: Doanh nghiệp phải tự nộp văn bản thông báo thay đổi thông tin danh mục hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp. Trong văn bản này, doanh nghiệp cần rõ ràng nêu rõ các nội dung thay đổi và kèm theo một bản danh mục hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp đã thay đổi. Văn bản này phải được nộp tại Văn phòng Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, địa chỉ tầng 5, 25 Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội.Tiếp nhận hồ sơ và kiểm tra tính hợp lệ: Văn phòng Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia sẽ tiếp nhận văn bản thông báo thay đổi và kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ.Sửa đổi và bổ sung: Trong trường hợp cần cung cấp thêm thông tin hoặc sửa đổi, bổ sung đối với văn bản thông báo của doanh nghiệp, theo quy định tại khoản 3 Điều 12 Nghị định 40/2018/NĐ-CP, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia sẽ thông báo cho doanh nghiệp trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ. Thời hạn để sửa đổi và bổ sung là 10 ngày làm việc.Trả lại hồ sơ: Trong trường hợp doanh nghiệp không cung cấp thông tin, sửa đổi, bổ sung hồ sơ đúng thời hạn hoặc hồ sơ không đáp ứng quy định, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia sẽ thông báo trả lại hồ sơ cho doanh nghiệp bằng văn bản, đồng thời nêu rõ lý do trả lại.Áp dụng danh mục hàng hóa kinh doanh đa cấp: Doanh nghiệp được phép áp dụng danh mục hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp nếu Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia không yêu cầu điều gì đối với văn bản thông báo trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ.Thông báo cho Sở Công Thương: Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có trách nhiệm thông báo cho các Sở Công Thương trên toàn quốc về việc doanh nghiệp đã thông báo thay đổi danh mục hàng hóa kinh doanh đa cấp thông qua một trong các hình thức sau đây: gửi qua dịch vụ bưu chính, thư điện tử hoặc sử dụng hệ thống công nghệ thông tin quản lý bán hàng đa cấp của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia.Câu hỏi liên quanCâu hỏi: Tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo là vi phạm pháp luật, điều gì có thể xảy ra cho doanh nghiệp trong tình huống này?Trả lời: Tiếp tục kinh doanh trước thời hạn đã thông báo là vi phạm pháp luật và có thể dẫn đến xử phạt hành chính hoặc các hậu quả pháp lý khác, bao gồm cả giới hạn quyền hoạt động kinh doanh hoặc hủy đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp.Câu hỏi: Thủ tục giải Thể công ty với cơ quan thuế bao gồm những bước chính gì và yêu cầu cụ thể nào?Trả lời: Thủ tục giải thể công ty với cơ quan thuế bao gồm các bước như thông báo giải thể, thanh toán các khoản thuế còn nợ, nộp hồ sơ giải thể và các văn bản liên quan. Yêu cầu cụ thể có thể thay đổi tùy theo quy định của từng quốc gia hoặc khu vực.Câu hỏi: Làm thế nào để nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp qua mạng và quy trình như thế nào?Trả lời: Để nộp hồ sơ giải thể doanh nghiệp qua mạng, doanh nghiệp cần truy cập vào hệ thống trực tuyến của cơ quan thuế hoặc cơ quan chức năng tương ứng và tuân theo hướng dẫn trên trang web. Quy trình cụ thể có thể khác nhau tùy theo địa phương và quy định pháp luật.Câu hỏi: Nơi nào có sẵn mẫu thông báo giải thể doanh nghiệp và doanh nghiệp cần tuân theo quy định gì khi sử dụng mẫu này?Trả lời: Mẫu thông báo giải thể doanh nghiệp thường được cung cấp bởi cơ quan chức năng hoặc cơ quan thuế trong quốc gia hoặc khu vực cụ thể. Doanh nghiệp cần tìm kiếm mẫu này trên trang web của cơ quan chức năng hoặc cơ quan thuế và điền đầy đủ thông tin theo quy định của mẫu. Thông thường, mẫu này sẽ yêu cầu cung cấp thông tin về tên công ty, địa chỉ, lý do giải thể, và các thông tin liên quan khác.Câu hỏi: Thủ tục giải thể công ty TNHH bao gồm những bước cụ thể nào và có quyền và nghĩa vụ gì đối với doanh nghiệp?Trả lời: Thủ tục giải thể công ty TNHH bao gồm các bước như thông báo giải thể cho cơ quan chức năng, nộp hồ sơ giải thể, thanh toán các khoản nợ còn lại, và tiến hành các thủ tục pháp lý liên quan. Doanh nghiệp có quyền và nghĩa vụ phải tuân theo quy định của pháp luật trong việc giải thể và đảm bảo rằng tất cả các bước được thực hiện đúng quy trình.Câu hỏi: Làm thế nào để tra cứu thông tin về doanh nghiệp đã giải thể và có sẵn thông tin trực tuyến cho mục đích này không?Trả lời: Tra cứu thông tin về doanh nghiệp đã giải thể thường có sẵn trên trang web của cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc cơ quan chức năng tương ứng. Doanh nghiệp có thể truy cập trang web này, nhập thông tin cần tra cứu như tên công ty hoặc mã số doanh nghiệp để tìm kiếm thông tin liên quan đến giải thể của công ty đó.