0888889366
Tra cứu thông tin hợp đồng
Danh mục
LUẬT HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
avatar
Lã Thị Ái Vi
233 ngày trước
Bài viết
Cách thức thực hiện thủ tục đình chỉ hoạt động Đảng như thế nào?
Năm 2021, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Quy định số 22-QĐ/TW, trong đó đã đưa ra các quy định chi tiết và cụ thể về việc đình chỉ hoạt động Đảng đối với các Đảng viên vi phạm kỷ luật.Trường hợp nào sẽ bị đình chỉ sinh hoạt Đảng?"Sinh hoạt đảng" là việc gắn kết về trách nhiệm chính trị và tình đồng chí của người đảng viên để thực hiện lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, trong tình huống nhiều Đảng viên vi phạm kỷ luật, việc đình chỉ sinh hoạt Đảng trở thành sự cần thiết. Chi tiết này dựa trên Điều 28 của Quy định số 22-QĐ/TW năm 2021, quy định các trường hợp bị đình chỉ sinh hoạt Đảng như sau:Điều 28. Trường hợp bị đình chỉ sinh hoạt đảngViệc đình chỉ sinh hoạt Đảng của đảng viên, đình chỉ sinh hoạt cấp ủy của cấp ủy viên, đình chỉ hoạt động của tổ chức Đảng có mục đích ngăn chặn hành vi gây trở ngại cho việc xem xét, kết luận của tổ chức Đảng có thẩm quyền hoặc làm cho vi phạm trở nên nghiêm trọng hơn.Đảng viên, cấp ủy viên có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng và có hành vi cố ý gây trở ngại cho hoạt động của cấp ủy và công tác kiểm tra của Đảng hoặc bị cơ quan pháp luật có thẩm quyền ra quyết định truy tố, tạm giam thì phải đình chỉ sinh hoạt Đảng; cấp ủy viên bị đình chỉ sinh hoạt Đảng đương nhiên sẽ bị đình chỉ cấp ủy; cấp ủy viên bị khởi tố thì phải đình chỉ sinh hoạt cấp ủy nhưng vẫn được tiếp tục sinh hoạt Đảng.Tổ chức Đảng có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng và có hành vi cụ thể cố ý gây trở ngại cho hoạt động của tổ chức Đảng, cho công tác lãnh đạo và kiểm tra của Đảng thì sẽ bị đình chỉ hoạt động."Theo các quy định trên, việc đình chỉ sinh hoạt Đảng xảy ra khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng kỷ luật Đảng và có hành vi cố ý gây trở ngại cho hoạt động của cấp ủy và công tác kiểm tra của Đảng hoặc bị cơ quan pháp luật có thẩm quyền ra quyết định truy tố, tạm giam.Thẩm quyền đình chỉ sinh hoạt ĐảngThẩm quyền đình chỉ sinh hoạt Đảng đối với tổ chức ĐảngQuyền đình chỉ hoạt động của một tổ chức Đảng thuộc thẩm quyền của tổ chức Đảng có thẩm quyền giải tán tổ chức đó.Trong trường hợp tổ chức Đảng cấp dưới không đề nghị hoặc từ chối đình chỉ, khi có căn cứ đủ, tổ chức Đảng cấp trên có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ sinh hoạt Đảng của đảng viên, cấp ủy viên hoặc đình chỉ hoạt động của tổ chức Đảng. Quyết định này được thông báo cho đảng viên, cấp ủy viên bị đình chỉ sinh hoạt, tổ chức Đảng bị đình chỉ hoạt động và các tổ chức Đảng liên quan để thực hiện.Thẩm quyền đình chỉ sinh hoạt Đảng đối với đảng viênQuyền đình chỉ sinh hoạt Đảng của đảng viên thuộc thẩm quyền của tổ chức Đảng có thẩm quyền khai trừ đối với đảng viên đó.Ủy ban kiểm tra từ cấp huyện, quận và tương đương trở lên có thẩm quyền quyết định đình chỉ sinh hoạt Đảng của cấp ủy viên cấp dưới trực tiếp và đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy cùng cấp quản lý (ở Trung ương là Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý), ngoại trừ cấp ủy viên cùng cấp khi bị tạm giam, truy tố; Ủy ban kiểm tra quyết định đình chỉ sinh hoạt cấp ủy viên cấp dưới trực tiếp khi bị khởi tố.Thẩm quyền đình chỉ sinh hoạt Đảng đối với cấp ủy viênQuyền đình chỉ sinh hoạt cấp ủy của cấp ủy viên thuộc thẩm quyền cách chức cấp ủy viên đó của tổ chức Đảng có thẩm quyền.Đình chỉ sinh hoạt Đảng hoặc đình chỉ sinh hoạt cấp ủy của cấp ủy viên được quyết định dựa trên đề nghị của chi bộ hoặc cấp ủy cùng cấp, và quyết định được đưa ra bởi cấp ủy cấp trên trực tiếp.Nếu đảng viên tham gia nhiều cấp ủy, khi phát hiện đảng viên có dấu hiệu vi phạm, cấp ủy có thẩm quyền cách chức hoặc khai trừ đảng viên, sẽ ra quyết định tương ứng.Thủ tục đình chỉ sinh hoạt Đảng và quy định thực hiệnVới mục đích chính trị đặc biệt đã được đề ra, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát triển thành một tổ chức chính trị đặc biệt, là một lực lượng chính trị đặc biệt. Điều này rõ ràng thể hiện trong hệ thống tổ chức chặt chẽ, tuân thủ kỷ luật, hình thành bởi nguyên tắc quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Việc đình chỉ sinh hoạt Đảng sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật như sau:Theo Điều 30 Quy định 22-QĐ/TW năm 2021, thủ tục đình chỉ sinh hoạt Đảng được quy định như sau:Điều 30. Thủ tục đình chỉ sinh hoạt ĐảngTrong các trường hợp đặc biệt, khi vụ việc đang trong giai đoạn điều tra, kiểm tra, thanh tra hoặc kiểm toán và phát hiện đảng viên có dấu hiệu liên quan đến trách nhiệm cá nhân hoặc có các dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng. Trường hợp đứng tại vị trí chức vụ sẽ gây trở ngại cho việc xem xét, kết luận, tổ chức Đảng có thẩm quyền quyết định đình chỉ sinh hoạt Đảng, hoặc đình chỉ sinh hoạt cấp ủy, hoặc đình chỉ chức vụ trong Đảng của đảng viên đó; đồng thời, giao trách nhiệm cho ban cán sự Đảng, đảng đoàn hoặc cấp ủy quản lý đảng viên đó chỉ đạo tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc hoặc tổ chức chính trị-xã hội có thẩm quyền quyết định đình chỉ chức vụ đối với chính quyền, đoàn thể.Sau khi điều tra, kiểm tra, thanh tra hoặc kiểm toán kết thúc và phát hiện đảng viên vi phạm pháp luật, sẽ tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật. Đồng thời, phải xem xét, thực hiện các biện pháp kỷ luật đảng. Nếu đảng viên không vi phạm hoặc vi phạm không đến mức cách chức, chức vụ đình chỉ sẽ được khôi phục hoặc bố trí công tác khác.Khi tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc hoặc tổ chức chính trị-xã hội đình chỉ chức vụ chính quyền, đoàn thể đối với đảng viên, thủ trưởng hoặc cấp ủy, tổ chức Đảng trong cơ quan của đảng viên đó phải kịp thời thông báo (chậm nhất là 5 ngày) cho Ủy ban kiểm tra cùng cấp để đề nghị tổ chức Đảng có thẩm quyền xem xét, quyết định việc đình chỉ sinh hoạt Đảng, hoặc đình chỉ sinh hoạt cấp ủy, hoặc đình chỉ chức vụ về đảng mà đảng viên đó đang đảm nhiệm.Trong thời gian đảng viên bị đình chỉ sinh hoạt Đảng, hoặc đình chỉ sinh hoạt cấp ủy; cấp ủy viên bị đình chỉ sinh hoạt cấp ủy, hoặc tổ chức Đảng bị đình chỉ hoạt động, phải nghiêm túc tuân thủ các yêu cầu của tổ chức Đảng có thẩm quyền (báo cáo tình hình, kiểm điểm về vi phạm, thực hiện nhiệm vụ đã được giao,…); đồng thời, được phép đề đạt ý kiến cá nhân nhưng không được lợi dụng danh nghĩa tổ chức Đảng, hoặc danh nghĩa cấp ủy viên, hoặc danh nghĩa chức vụ đã bị đình chỉ để thực hiện các công việc.Ủy ban kiểm tra cấp ủy có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện đình chỉ sinh hoạt Đảng, đình chỉ sinh hoạt cấp ủy hoặc đình chỉ hoạt động của tổ chức Đảng thuộc phạm vi quản lý của cấp ủy cùng cấp; hỗ trợ cấp ủy thực hiện các thủ tục đình chỉ sinh hoạt Đảng, đình chỉ sinh hoạt cấp ủy hoặc đình chỉ hoạt động của tổ chức Đảng theo đúng quy định.Câu hỏi liên quanCâu hỏi: Quy định 22 về đình chỉ sinh hoạt đảng là gì?Trả lời: Quy định 22 là một điểm quan trọng trong Quy định số 22-QĐ/TW năm 2021 do Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành. Nó chi tiết hóa quy trình và điều kiện để đình chỉ sinh hoạt Đảng đối với các Đảng viên vi phạm kỷ luật.Câu hỏi: Quy trình đình chỉ sinh hoạt Đảng như thế nào?Trả lời: Quy trình đình chỉ sinh hoạt Đảng bao gồm việc xem xét, điều tra và quyết định về việc đình chỉ sinh hoạt Đảng cho các Đảng viên vi phạm kỷ luật. Cụ thể, quy trình này thường bắt đầu bằng việc Ủy ban kiểm tra cấp ủy kiểm tra, xác minh thông tin về vi phạm, sau đó Ủy ban kiểm tra cùng cấp đề xuất việc đình chỉ sinh hoạt Đảng nếu vi phạm nghiêm trọng.Câu hỏi: Mẫu quyết định đình chỉ sinh hoạt Đảng như thế nào?Trả lời: Mẫu quyết định đình chỉ sinh hoạt Đảng thường bao gồm thông tin cụ thể về Đảng viên bị đình chỉ, lý do đình chỉ, thời hạn và các biện pháp kỷ luật cụ thể được áp dụng trong giai đoạn đình chỉ.Câu hỏi: Đình chỉ sinh hoạt Đảng có áp dụng khi Đảng viên bị khởi tố không?Trả lời: Đúng, theo Quy định 22, nếu Đảng viên bị khởi tố, có thể áp dụng việc đình chỉ sinh hoạt Đảng trong trường hợp vi phạm nghiêm trọng. Quyết định đình chỉ có thể do Ủy ban kiểm tra cấp ủy hoặc tổ chức Đảng có thẩm quyền quyết định.Câu hỏi: Thời hạn đình chỉ sinh hoạt Đảng được xác định như thế nào?Trả lời: Thời hạn đình chỉ sinh hoạt Đảng thường dựa trên tính chất vi phạm và điều kiện cụ thể của từng trường hợp. Nó có thể kéo dài từ khi vi phạm bắt đầu cho đến khi kết thúc quá trình xem xét, điều tra hoặc xử lý theo pháp luật.Câu hỏi: Ai có thẩm quyền đình chỉ sinh hoạt Đảng?Trả lời: Thẩm quyền đình chỉ sinh hoạt Đảng có thể thuộc về Ủy ban kiểm tra cấp ủy, tổ chức Đảng có thẩm quyền quyết định tại cấp tương ứng. Cấp ủy trực tiếp quản lý cấp dưới có thể có thẩm quyền đình chỉ sinh hoạt Đảng cấp ủy viên cấp dưới và các Đảng viên đang đảm nhiệm chức vụ tại cấp ủy trực thuộc.Câu hỏi: Đảng viên bị khởi tố có bị đình chỉ sinh hoạt Đảng không?Trả lời: Có, theo Quy định 22, nếu Đảng viên bị khởi tố và vi phạm việc cố ý gây trở ngại cho hoạt động của cấp ủy và công tác kiểm tra của Đảng, thì có thể áp dụng việc đình chỉ sinh hoạt Đảng. Tùy thuộc vào tính chất của vi phạm, quyết định có thể do Ủy ban kiểm tra cấp ủy hoặc tổ chức Đảng có thẩm quyền quyết định. 
avatar
Lã Thị Ái Vi
247 ngày trước
Bài viết
Thực trạng thực hiện chức năng giám sát của Ủy ban Tư pháp
3.2. Thực trạng thực hiện chức năng giám sát của Ủy ban Tư pháp Đánh giá về thực trạng này, ngoài các thông tin, số liệu được thu thập, tổng hợp từ các tài liệu, báo cáo, công trình nghiên cứu... đã được công bố, nghiên cứu sinh đã tiến hành khảo sát và tổng hợp kết quả chi tiết như thể hiện tại Phụ lục số 9. 3.2.1. Kết quả đạt được Thực hiện các quy định của pháp luật, ngay sau khi được thành lập, UBTP đã “luôn xác định giám sát là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung lực lượng, thời gian, tâm huyết để tổ chức thực hiện”, cụ thể:  3.2.1.1. Việc thực hiện các nội dung chức năng giám sát Thứ nhất, công tác giám sát hoạt động của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong thực hiện luật, nghị quyết của QH, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH thuộc lĩnh vực phụ trách đã được UBTP tiến hành khá toàn diện trên các nội dung, từ công tác triển khai thi hành luật, nghị quyết của QH, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH đến việc chấp hành pháp luật trong công tác của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trên các lĩnh vực. Cụ thể, hằng năm, thông qua phương thức thẩm tra báo cáo của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, UBTP đã xem xét, đánh giá toàn diện về các mặt công tác như: công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm; công tác phát hiện, khám phá, chống vi phạm pháp luật và tội phạm; công tác điều tra, xử lý tội phạm của CQĐT các cấp; công tác thực hành quyền công tố và kiểm soát các HĐTP của VKSND; công tác giải quyết, xét xử các loại án của TAND; công tác giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của TAND; công tác thi hành án; một số công tác khác của các CQTP (như tổ chức, cán bộ; cơ sở vật chất; kinh phí hoạt động…); công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của VKSND và TAND các cấp; về công tác PCTN… Bên cạnh đó, trong bối cảnh nguồn lực có hạn, UBTP đã xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình giám sát của Ủy ban với nội dung trọng tâm, trọng điểm, chú trọng đến những vấn đề bức xúc, nổi cộm trong thực tiễn HĐTP và PCTN để tiến hành giám sát chuyên sâu. Ví dụ: thực hiện giám sát đối với HĐTP, các CQTP, trong nhiệm kỳ QH khóa XII, UBTP đã tổ chức giám sát các chuyên đề về “thực hiện Nghị quyết của QH tăng thẩm quyền xét xử cho các TAND cấp huyện theo quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật TTHS và Điều 33 của Bộ luật TTDS; việc chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án hình sự; việc chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án dân sự”. Trong nhiệm kỳ QH khóa XIII, UBTP đã giám sát chuyên đề về các nội dung như: “Việc tổ chức thực hiện pháp luật hình sự, TTHS của các CQĐT, VKSND và TAND; việc đổi mới tổ chức, hoạt động của các CQTP theo Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị; việc chấp hành pháp luật trong việc xử lý tội phạm về tham nhũng, chức vụ; về “Tình hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, TTHS và việc bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động TTHS theo quy định của pháp luật”...”. Trong giám sát công tác PCTN, UBTP đã “chủ trì giúp UBTVQH giám sát 01 chuyên đề về việc tổ chức thực hiện công tác đấu tranh PCTN; việc PHXLTN của các cơ quan có thẩm quyền trong công tác đấu tranh PCTN”; giám sát chuyên đề về “Việc chấp hành pháp luật trong việc xử lý tội phạm về tham nhũng, chức vụ”; tổ chức giải trình về “Việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng thuộc trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước. Trong giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, UBTP đã tổ chức giám sát chuyên đề về “Việc chấp hành pháp luật đối với việc giải quyết đơn đề nghị xét lại bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của TAND, VKSND”; đã tăng cường công tác tiếp nhận, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo của công dân, cơ quan, tổ chức… Hoạt động giám sát các vụ án cụ thể được đổi mới một cách căn bản, “có sự phối hợp chặt chẽ giữa UBTP với TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng; đã tổ chức nghiên cứu kỹ trước hồ sơ vụ án và tổ chức làm việc, đối thoại trực tiếp giữa Thường trực UBTP với lãnh đạo các cơ quan hữu quan, qua đó hầu hết các vụ việc mà Ủy ban nêu ra đều đạt được sự đồng thuận, tiếp thu giải quyết, hợp tác xử lý”; đối với một số vụ việc phức tạp, còn nhiều quan điểm khác nhau, UBTP đã thành lập Đoàn để tiến hành giám sát theo đúng quy định pháp luật. Thứ hai, hoạt động giám sát việc ban hành VBQPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, TANDTC, VKSNDTC, KTNN thuộc lĩnh vực của Ủy ban phụ trách cũng được UBTP quan tâm, từng bước chủ động hơn. “Kết quả giám sát đã chỉ ra một số hạn chế trong công tác ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật, nhiều văn bản ban hành chậm gây khó khăn cho các cơ quan áp dụng và thực thi pháp luật; một số quy định có nội dung chưa phù hợp, thống nhất với quy định của pháp luật, có trường hợp chưa đúng thẩm quyền ban hành; một số quy định thiếu khả thi, không thể thực hiện được trên thực tế hoặc gây vướng mắc cần phải sửa đổi... Qua giám sát, UBTP đã làm rõ trách nhiệm, kịp thời đề nghị chấn chỉnh, khắc phục, góp phần nâng cao chất lượng và bảo đảm tính pháp chế trong việc ban hành VBQPPL của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Ví dụ: trong nhiệm kỳ QH khóa XII, “UBTP đã phát hiện 28 VBQPPL quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách vẫn chưa được ban hành kịp thời để thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của QH, UBTVQH”; đã kiến nghị TANDTC ban hành Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 để hướng dẫn chính xác hơn về Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật hình sự trong đó có mức tiền áp dụng định tội đánh bạc... Thứ ba, hoạt động giám sát việc thực hiện các yêu cầu, kiến nghị sau giám sát đã được UBTP quan tâm. Khi thẩm tra các báo cáo công tác của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC hằng năm, UBTP đều rà soát các yêu cầu, kiến nghị đã được nêu ra trong báo cáo thẩm tra các năm trước để làm căn cứ đánh giá kết quả thực hiện của các cơ quan hữu quan. Ví dụ: khi thẩm tra các báo cáo của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC năm 2009, UBTP đã nhận định: “Đáng lưu ý là theo Báo cáo của Chính phủ hiện vẫn còn X đối tượng bị truy nã, trong đó có Y đối tượng nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm; so với năm 2008 tăng Z đối tượng.... Đây là vấn đề nghiêm trọng, đe dọa đến tình hình trật tự, an toàn xã hội, gây lo lắng trong nhân dân, cần đặc biệt được quan tâm giải quyết. Tồn tại, hạn chế nêu trên đã được nêu trong Báo cáo thẩm tra của UBTP năm 2008 nhưng đến nay việc khắc phục đạt hiệu quả chưa cao”. Nhận định này tiếp tục được nêu ra trong báo cáo thẩm tra các báo cáo của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC năm 2010: “Công tác bắt, vận động đối tượng truy nã ra đầu thú hiệu quả chưa cao, số đối tượng nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm tăng so với năm 2009 đã gây lo lắng trong cộng đồng dân cư, là nguyên nhân tiềm ẩn gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Những hạn chế trên đây đã tồn tại nhiều năm...”.Theo Cao Mạnh LinhLink: Tại đây 
avatar
Lã Thị Ái Vi
247 ngày trước
Bài viết
Khái niệm chức năng giám sát của Ủy ban Tư pháp
2.2.2.1. Khái niệm chức năng giám sát của Ủy ban Tư pháp Về khái niệm, theo từ điển, “chức năng của một cơ quan là những phương diện, loại hoạt động cơ bản để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình” hay “chức năng là phương diện hoạt động chủ yếu của một thiết chế (cơ quan, tổ chức)”. Khi tiếp cận theo khoa học tổ chức nhà nước, chức năng được hiểu là “những phương diện hoạt động chủ yếu của tổ chức và nó được cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, quyền hạn (bao gồm cả nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu)”.Hoặc có ý kiến cho rằng, “khi nói đến chức năng của một cơ quan, tổ chức là nói đến các mặt hoạt động, các phương thức hoạt động; cách thức tác động của một cơ quan, tổ chức lên các quan hệ xã hội nhằm đạt được mục đích của cơ quan, tổ chức đó. ” Khi nói đến chức năng của cơ quan nhà nước, có ý kiến cho rằng nó là “hoạt động chủ yếu, thường xuyên, có tính ổn định tương đối của riêng cơ quan đó nhằm thực hiện chức năng chung của cả bộ máy nhà nước”. Ý kiến khác phân tích cụ thể hơn khi cho rằng chức năng của cơ quan nhà nước “thể hiện lĩnh vực hoạt động chủ yếu của cơ quan nhà nước đó, nói cách khác đó là “địa hạt công việc nhà nước” mà cơ quan nhà nước đó phụ trách và chịu trách nhiệm thực hiện hiệu quả; để bảo đảm thực hiện tốt chức năng được giao, cơ quan nhà nước được quy định những nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng”. Như vậy, về cơ bản các quan điểm đều thống nhất rằng, chức năng của một cơ quan, tổ chức là những phương diện, loại hoạt động cơ bản, chủ yếu của cơ quan, tổ chức đó. Chức năng là phương tiện thể hiện trực tiếp và đầy đủ nhất bản chất, vị trí, vai trò, nhiệm vụ chiến lược, mục tiêu lâu dài của cơ quan, tổ chức trong từng giai đoạn, thời kỳ lịch sử nhất định. Chức năng của cơ quan, tổ chức được thực hiện bằng những hình thức và phương pháp nhất định; nội dung những hình thức và phương pháp ấy bắt nguồn và trực tiếp thể hiện bản chất cũng như mục tiêu của cơ quan, tổ chức. Vì vậy, cần tránh nhầm lẫn giữa chức năng và các hoạt động cụ thể của cơ quan, tổ chức. Trên thực tế, chức năng luôn gắn với hoạt động của cơ quan, tổ chức nhưng nó là “một phương diện hoạt động”, chứ không đồng nhất với hoạt động cụ thể của cơ quan tổ chức hay hoạt động cụ thể của từng bộ phận cấu thành của cơ quan, tổ chức đó và ngược lại. Các hoạt động cụ thể của cơ quan, tổ chức trong các lĩnh vực khác nhau chỉ là phương thức thể hiện giá trị, vai trò, công dụng của cơ quan, tổ chức, hay nói một cách khác, thông qua các hoạt động của cơ quan, tổ chức mà chức năng của cơ quan, tổ chức đó mới được thể hiện. Đồng thời, giữa chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức có mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời. Chức năng của cơ quan, tổ chức được hình thành và cụ thể hóa trên cơ sở các nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức. Trong mối quan hệ với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn là yếu tố quyết định đến số lượng, nội dung, vị trí các chức năng và các hình thức, phương pháp thực hiện chức năng. Theo đó, các hoạt động cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cũng đồng thời chính là các hoạt động để thực hiện chức năng của cơ quan, tổ chức. Mặt khác, theo quy định của Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ” (Khoản 1 Điều 8). Do vậy, cần khẳng định nguyên tắc, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước phải do pháp luật quy định. Tương tự các Ủy ban khác của QH, với vị trí, vai trò là cơ quan của QH, nhằm giúp QH thực hiện tốt chức năng của mình, UBTP cũng có các chức năng thẩm tra, giám sát và kiến nghị về các vấn đề thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách. Các chức năng của UBTP được hình thành trên cơ sở các quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban trong Hiến pháp, pháp luật thể hiện trong các lĩnh vực nghiên cứu, thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án, báo cáo khác; giám sát và kiến nghị về những vấn đề quan trọng của Nhà nước thuộc phạm vi hoạt động của Ủy ban. Trong ba chức năng cơ bản của UBTP, chức năng giám sát có thể coi là chức năng chủ chốt nhất, phản ánh vị trí, vai trò khác biệt của UBTP trong quá trình tham gia thực hiện chức năng giám sát của QH so với các Ủy ban khác. Nội dung chức năng giám sát, đối tượng, lĩnh vực giám sát của UBTP được nhận diện qua những quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban trong hoạt động giám sát. Tham khảo kinh nghiệm một số nước, căn cứ quy định của pháp luật, UBTP của QH/NV thường tập trung vào việc giám sát các lĩnh vực như: việc thực thi các đạo luật có liên quan đến lĩnh vực tư pháp (như: Phi-lip-pin, Mỹ, Canada, Đan Mạch, Thụy Điển, Nam Phi...); việc thực hiện các chương trình, mục tiêu chính sách về tư pháp (như: Canada, Anh…); các vấn đề có liên quan đến hành chính của Tòa án (như: Phi-lip-pin, Anh...); các vấn đề liên quan đến thủ tục tư pháp của Tòa án và các cơ quan thực thi pháp luật (như: Mỹ, Thụy Điển...); việc sử dụng ngân sách và đánh giá hoạt động hàng năm của cơ quan hành pháp trong lĩnh vực tư pháp (như: Úc, Newzeland, Thụy Điển); giám sát công tác PCTN (như Nam Phi; Newzeland)… Đối tượng giám sát của UBTP của QH/NV chủ yếu là Tòa án tối cao, Văn phòng Công tố viên, Cơ quan an ninh quốc gia và các cơ quan chịu trách nhiệm thực thi pháp luật thuộc Chính phủ khác. Tuy nhiên, đối với Tòa án, UBTP của QH/NV cơ bản chỉ giám sát về công tác quản lý hành chính tại Tòa án các cấp hoặc giám sát thông qua thẩm tra việc thực hiện quy trình bổ nhiệm, bãi nhiệm chức danh Thẩm phán. Ví dụ: UBTP của Hạ viện Mỹ có thẩm quyền giám sát các vấn đề liên quan đến thủ tục tư pháp của các Toà án liên bang, các cơ quan hành chính thực thi pháp luật như Bộ Tư pháp, Cục An ninh Nội địa; UBTP của QH Anh có thẩm quyền giám sát việc chi tiêu, điều hành và chính sách của các cơ quan trực thuộc Chính phủ liên quan; giám sát các hoạt động hành chính toà án; các nội dung như việc bổ nhiệm hoặc các vụ việc đơn lẻ không nằm trong thẩm quyền giám sát của Uỷ ban133; UBTP Hạ viện Phi-lip-pin có thẩm quyền giám sát hoạt động hành chính của hệ thống tư pháp, Toà án, việc thực thi luật, hỗ trợ pháp lý, các nhà tù và trại cải tạo, quản chế, thủ tục tố tụng, việc đăng ký quyền sử dụng đất, di dân, trục xuất, nhập tịch, và định nghĩa về tội phạm và các vi phạm khác mà pháp luật điều chỉnh và hình phạt của các hành vi đó.Về hậu quả pháp lý, trên cơ sở kết quả giám sát, UBTP của QH/NV cung cấp các báo cáo, ý kiến nghiên cứu, đánh giá, điều tra và đề xuất các nội dung, giải pháp tới QH/NV. Các báo cáo, ý kiến của UBTP được QH/NV sử dụng để cân nhắc, đánh giá hoạt động của Tòa án, các cơ quan trực thuộc Chính phủ có hoạt động liên quan đến lĩnh vực tư pháp hoặc các cá nhân cụ thể chịu trách nhiệm. Ngoài ra, kết quả giám sát của các UBTP có thể dẫn tới các quyết định của QH/NV về việc bổ nhiệm, bãi nhiệm hoặc thanh tra các cá nhân chịu trách nhiệm. Hậu quả pháp lý khác có thể là quyết định phủ quyết của QH/NV đối với các chính sách và quyết định của các cơ quan Chính phủ; quyết định phủ quyết có thể vô hiệu hoá hành động của nhánh hành pháp hoặc yêu cầu Chính phủ điều chỉnh chính sách, cơ chế điều hành, và quản lý. Ví dụ: tại Mỹ, UBTP có thể tổ chức điều tra và báo cáo kết quả điều tra sẽ được sử dụng trong các hoạt động giám sát của NV đối với các lĩnh vực có liên quan đến tư pháp bao gồm việc buộc các quan chức phải rời khỏi cương vị; tại Phi-lip-pin, UBTP của Hạ viện có quyền phủ quyết, quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các điều ước quốc tế liên quan đến lĩnh vực tư pháp, phê duyệt hoặc hủy bỏ việc bổ nhiệm các chức danh tại các cơ quan thuộc Chính phủ; tại Anh, sau khi tổ chức phiên điều trần, UBTP của QH sẽ có báo cáo chuyển QH để phục vụ cho việc thảo luận, hướng tới thiết lập luật mới hoặc điều chỉnh các luật hiện hành... Đối với UBTP của QH Việt Nam, theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, UBTP có những nhiệm vụ, quyền hạn sau: Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của QH, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH về hình sự, TTHS, TTDS, TTHC, thi hành án, bổ trợ tư pháp, PCTN, tổ chức bộ máy của CQTP; giám sát hoạt động của Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp; giám sát việc PHXLTN (khoản 4 Điều 71);Giám sát văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, TANDTC, VKSNDTC thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách (khoản 5 Điều 71);Giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước, công tác PCTN, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách (khoản 6 Điều 79);Theo quy định của Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND năm 2015, UBTP còn có nhiệm vụ, quyền hạn giúp QH, UBTVQH thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của QH, UBTVQH (điểm c khoản 1 Điều 4). Ngoài ra, đối tượng, lĩnh vực giám sát của UBTP còn được quy định trong nhiều đạo luật khác như Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật PCTN... Như vậy, căn cứ quy định của luật, có thể thấy đối tượng, lĩnh vực giám sát và hậu quả pháp lý của hoạt động giám sát của UBTP được xác định như sau: Thứ nhất, căn cứ quy định của pháp luật, lĩnh vực giám sát của UBTP bao gồm hai lĩnh vực đặc thù đó là: Việc thực hiện pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, bổ trợ tư pháp, tức các HĐTP. Việc thực hiện pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong công tác PHXLTN. Ngoài hai lĩnh vực đặc thù trên, UBTP còn được giao nhiệm vụ, quyền hạn: Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của QH, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH về hình sự, TTHS, TTDS, TTHC, thi hành án, bổ trợ tư pháp, PCTN, tổ chức bộ máy của CQTP; giám sát văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, TANDTC, VKSNDTC về các lĩnh vực hình sự, TTHS, TTDS, TTHC, thi hành án, bổ trợ tư pháp, PCTN, tổ chức bộ máy của CQTP; giám sát về việc thực hiện ngân sách nhà nước, công tác PCTN, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí thuộc trách nhiệm của các CQTP; việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân về HĐTP, PHXLTN... theo quy định của Luật tổ chức QH năm 2014, Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND năm 2015 và các đạo luật có liên quan. Thứ hai, với quy định của pháp luật như trên, hiện nay vẫn có hai quan điểm khác nhau về đối tượng giám sát của UBTP. Quan điểm thứ nhất cho rằng, UBTP chỉ giám sát các cơ quan thuộc tầng cao nhất của bộ máy nhà nước đó là Chủ tịch nước, Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, TANDTC, VKSNDTC, KTNN và các cơ quan khác do QH thành lập; quan điểm thứ hai cho rằng, UBTP giám sát cả các cơ quan ở nhà nước ở trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương. Cụ thể, khi phân tích về quyền giám sát của UBTP đối với các CQTP, “có ý kiến cho rằng, UBTP chỉ giám sát hoạt động của TANDTC, VKSNDTC và của Chính phủ vì nếu UBTP giám sát cả các CQTP ở địa phương sẽ dẫn đến sự chồng chéo về chức năng giám sát của Ủy ban với chức năng của các CQĐT, chức năng kiểm sát HĐTP của VKSND và chức năng giám đốc xét xử của TAND. Ý kiến khác lại cho rằng, UBTP có thẩm quyền giám sát tất cả các CQTP vì hoạt động giám sát, điều tra, kiểm sát HĐTP và giám đốc xét xử do các chủ thể có thẩm quyền khác nhau tiến hành với phương thức thực hiện và nhất là hậu quả pháp lý khác nhau, nên không thể có sự chồng chéo giữa các hoạt động này”; “qua thực tiễn cho thấy, nếu không giám sát các CQTP ở địa phương thì không có căn cứ thực tiễn để giám sát hoạt động của TANDTC, VKSNDTC và các CQTP khác ở trung ương, nhất là việc xem xét trách nhiệm của người đứng đầu CQTP trong việc lãnh đạo, quản lý điều hành cơ quan này thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định”. Nghiên cứu sinh cho rằng, với vị trí là một cơ quan của QH, do QH thành lập thì cần khẳng định một nguyên tắc đó là, thẩm quyền, phạm vi, đối tượng giám sát của UBTP đến đâu là do QH quyết định để bảo đảm yêu cầu giúp QH thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát của mình, tránh sự trùng dẫm, chồng chéo trong hoạt động giám sát của QH. Tuy nhiên, về lý luận, nếu QH không quy định giới hạn thẩm quyền, phạm vi, đối tượng giám sát của UBTP, thì xuất phát từ phạm vi, đối tượng giám sát của QH như đã phân tích ở trên, với vị trí, vai trò của UBTP là cơ quan “chuyên môn” giúp QH thực hiện chức năng giám sát HĐTP và công tác PHXLTN, thì phạm vi, đối tượng giám sát của UBTP có thể là tất cả các cơ quan có trách nhiệm thực hiện luật, nghị quyết của QH, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH thuộc lĩnh vực Ủy ban được giao phụ trách. Nhưng xét từ góc độ bảo đảm hiệu quả giám sát thì cần xác định phạm vi, đối tượng giám sát trực tiếp, toàn diện, thường xuyên và là nơi UBTP thực hiện quyền giám sát đầy đủ nhất chỉ nên bao gồm các cơ quan ở trung ương là Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Bộ, cơ quan ngang Bộ và KTNN và cơ quan khác do QH thành lập; đối với các chủ thể khác, hoạt động giám sát của UBTP nên hạn chế trong những trường hợp cần thiết, khi những cơ chế giám sát khác không hiệu quả. Cách tiếp cận này cũng phù hợp với thực tiễn hiện nay, khi tổ chức giám sát chuyên đề UBTP vẫn tổ chức các đoàn giám sát tại các địa phương; vẫn tiến hành đầy đủ các hoạt động xem xét, đánh giá và đưa ra các yêu cầu, kiến nghị với địa phương, cơ quan có thẩm quyền như tính chất của hoạt động giám sát; tuy nhiên, hoạt động giám sát này là không thường xuyên, thường chỉ là với mục đích điều tra, thu thập thêm thông tin để tiến hành giám sát đối với các cơ quan trung ương. Khi phát hiện các sai phạm ở địa phương thì bên cạnh việc kiến nghị với địa phương, UBTP vẫn có thể yêu cầu các cơ quan trung ương chỉ đạo khắc phục, đồng thời là cơ sở xem xét, đánh giá về trách nhiệm của các cơ quan trung ương. Điều này là phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, TANDTC, VKSNDTC, KTNN theo quy định của Hiến pháp, pháp luật; những vi phạm, sai sót của cơ quan cấp dưới ở địa phương thì các cơ quan trung ương phải giải quyết, chấn chỉnh và chịu trách nhiệm trước QH. Nhận thức này cũng phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành khi Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND năm 2015 quy định: “HĐDT, các Ủy ban của QH trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát hoạt động của Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, TANDTC, VKSNDTC, KTNN và cơ quan khác do QH thành lập” (điểm c khoản 1 Điều 4), nhưng cũng quy định “HĐDT, các Ủy ban của QH giúp QH, UBTVQH thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của QH, UBTVQH” (điểm c khoản 1 Điều 4) và “khi xét thấy cần thiết, QH, UBTVQH, HĐDT, Ủy ban của QH tiến hành giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”  (khoản 2 Điều 4). Thứ ba, về hậu quả pháp lý, theo quy định tại Điều 46 Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND năm 2015, trên cơ sở kết quả giám sát, UBTP có quyền đưa ra các yêu cầu, kiến nghị để các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xem xét, giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền mà Ủy ban phát hiện qua hoạt động giám sát. Các kiến nghị, yêu cầu của UBTP “không có giá trị bắt buộc thi hành với các chủ thể có liên quan”, tuy nhiên “gắn liền với nó là trách nhiệm phản hồi tương ứng của các chủ thể khác có liên quan được pháp luật quy định, chẳng hạn như trách nhiệm trả lời kiến nghị trong thời hạn nhất định; hay có thể làm phát sinh một quy trình xử lý kiến nghị...” của UBTP. Với tính chất là cơ quan chuyên môn của QH, tiến hành các hoạt động giám sát mang tính thường xuyên, chuyên sâu đối với HĐTP, công tác PHXLTN thì các kiến nghị, yêu cầu của UBTP có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện chức năng giám sát của QH đối với HĐTP và công tác PHXLTN. Từ những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm: Chức năng giám sát của UBTP của QH Việt Nam là phương diện, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Ủy ban do pháp luật quy định để theo dõi, xem xét, đánh giá việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong HĐTP, PHXLTN và trong một số hoạt động khác, trên cơ sở đó yêu cầu, kiến nghị xử lý khi phát hiện vi phạm hoặc kiến nghị về những vấn đề có liên quan khi Ủy ban xét thấy cần thiết, nhằm bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.     Theo Cao Mạnh LinhLink: Tại đây
avatar
Lã Thị Ái Vi
247 ngày trước
Bài viết
Chức năng giám sát của các Ủy ban của Quốc hội
2.1.2. Về chức năng giám sát của các Ủy ban của Quốc hội 2.1.2.1. Vị trí, vai trò của các Ủy ban, điều kiện hình thành chức năng giám sát của các Ủy ban của Quốc hội Theo quy định của pháp luật, các Ủy ban là các cơ quan của QH, nằm trong cơ cấu, tổ chức của QH. Các Ủy ban có vai trò chính là tham mưu về chuyên môn để QH quyết định các vấn đề thuộc lĩnh vực giao cho mỗi Ủy ban phụ trách. Bên cạnh đó, thì các Ủy ban còn có sự chủ động, độc lập thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật với vai trò là một cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, tính “độc lập” trong vai trò của các Ủy ban có tính chất tương đối; việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của các Ủy ban không thể ngoài phạm vi, mục đích thực hiện chức năng, nhiệm vụ của QH (Nội dung này được trình bày cụ thể tại Phụ lục 1). 2.1.2.2. Chức năng giám sát của các Ủy ban, một phương thức thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội Với vị trí, vai trò là cơ quan của QH/NV, được thành lập “để giúp QH/NV thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình nên chức năng, nhiệm vụ của các Ủy ban cũng được hình thành trên cơ sở nhằm thực hiện các chức năng của QH/NV”, do QH quyết định và phải bám sát mục tiêu thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của QH/NV; nếu phạm vi chức năng, nhiệm vụ của QH thay đổi hoặc do thay đổi về cơ cấu, tổ chức, cách thức phân công công việc của QH/NV thì phạm vi chức năng, nhiệm vụ của các Ủy ban cũng phải thay đổi tương ứng. Ở QH/NV các nước, tùy cách thức tổ chức và căn cứ vào nội dung chức năng của từng QH/NV mà chức năng của các Ủy ban là có những điểm khác biệt; có nơi, một chức năng của QH/NV có thể do nhiều Ủy ban tham gia thực hiện; có nơi một Ủy ban có thể tham gia thực hiện nhiều chức năng của QH/NV; có nơi, một Ủy ban chỉ tham gia thực hiện một chức năng của QH/NV. Ví dụ: Ireland và Anh là nơi mà không có Ủy ban thường trực nào được thành lập để thực hiện nhiệm vụ trong công tác lập pháp. Hạ viện Anh chỉ thành lập các Ủy ban lâm thời để chuẩn bị các dự án luật cụ thể. Ngoài ra Hạ viện Anh cũng duy trì một số Ủy ban thường trực có nhiệm vụ giám sát cơ quan hành pháp nhưng không có chức năng trong công tác lập pháp. Ở Hạ viện Pháp, chỉ thành lập 08 Ủy ban có nhiệm vụ xem xét các dự án luật và các kiến nghị lập pháp…. Tuy nhiên, nhìn chung, bên cạnh chức năng lập pháp, đa số các Ủy ban của QH/NV cũng được giao thực hiện chức năng giám sát. “Sự phát triển này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển tính trung tâm của các Ủy ban trong QH/NV ngày nay. Vai trò lớn mạnh này thể hiện ở số lượng ngày càng nhiều các câu hỏi đặt ra cho Chính phủ được xử lý ở cấp Ủy ban, cũng như số lượng các buổi tường trình và các báo cáo do Ủy ban xây dựng”. Trong một nghiên cứu gần đây do Ngân hàng thế giới (World Bank) hỗ trợ cho thấy, trong số 7 loại phương tiện giám sát thường được thực hiện trong hoạt động giám sát của cơ quan lập pháp nói chung, thì hoạt động giám sát của các Ủy ban giữ một trong những vị trí quan trọng nhất. Đối với QH Việt Nam, căn cứ chức năng của QH, vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của các Ủy ban của QH theo quy định của pháp luật, hiện nay các quan điểm nghiên cứu đều thừa nhận HĐDT, các Ủy ban của QH Việt Nam có 3 chức năng chính, đó là chức năng thẩm tra, chức năng giám sát và chức năng kiến nghị. Các chức năng này được biểu hiện rõ thông qua các hoạt động cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của các Ủy ban trong lĩnh vực lập pháp, giám sát và tham mưu, kiến nghị với QH, UBTVQH về những vấn đề thuộc lĩnh vực Hội đồng, Ủy ban phụ trách. Trong đó, “thẩm tra và giám sát là hai phương diện hoạt động chính của các Ủy ban còn kiến nghị thường được coi là một chức năng phái sinh từ hai chức năng trên. Kết quả thu được từ việc thực hiện chức năng thẩm tra và giám sát sẽ được các Ủy ban của QH đưa ra các kiến nghị giúp QH thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình”. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, chức năng kiến nghị của các Hội đồng, Ủy ban được thực hiện độc lập, không phụ thuộc về kết quả cụ thể của việc thực hiện chức năng thẩm tra, giám sát, mà là “kết quả của quá trình tự nghiên cứu, theo dõi, đánh giá, đúc kết, nắm bắt tình hình qua tiếp xúc cử tri, qua các phương tiện thông tin đại chúng...”  của các Ủy ban. Nhìn lại lịch sử phát triển của các Ủy ban của QH Việt Nam cho thấy, chức năng giám sát là một chức năng quan trọng nhưng xuất hiện muộn hơn so với chức năng thẩm tra và chức năng kiến nghị. Điều này gắn liền với yêu cầu đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của QH theo thời gian. Theo quy định của Luật tổ chức QH năm 1960, các Ủy ban thường trực chưa được quy định về thẩm quyền giám sát mà chỉ có hoạt động thẩm tra và kiến nghị (đề ra dự án và ý kiến với QH, UBTVQH); đồng thời, Luật chỉ quy định QH, UBTVQH có thể thành lập ra những Ủy ban điều tra về những vấn đề nhất định (Điều 37). Đến Luật tổ chức QH và Hội đồng Nhà nước năm 1981, thì các Ủy ban của QH được quy định nhiệm vụ giúp QH và Hội đồng Nhà nước thực hiện quyền giám sát (Điều 43; khoản 4 Điều 47). Như vậy, thời điểm này, thẩm quyền của các Ủy ban trong hoạt động giám sát mới được quy định, nhưng phạm vi, đối tượng giám sát chưa được phân biệt rõ, hoàn toàn phụ thuộc sự phân công của QH và Hội đồng Nhà nước. Đến Luật tổ chức QH năm 1992 và các Luật tổ chức QH sau này, phạm vi, đối tượng giám sát của các Ủy ban mới được xác định rõ hơn, theo hướng phân công cụ thể, rõ ràng thẩm quyền, trách nhiệm giám sát cho từng Ủy ban theo từng lĩnh vực, đối tượng giám sát, qua đó phát huy vai trò chủ động, độc lập hơn của các Ủy ban trong hoạt động giám sát. Trong quá trình này, nhiều Ủy ban cũng đã trải qua quá trình thay đổi tên gọi, phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giám sát để phù hợp với vai trò của từng Ủy ban, số lượng, cơ cấu các Ủy ban cũng như yêu cầu thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của QH, yêu cầu phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Như vậy, thực tiễn cho thấy, cùng với chức năng thẩm tra và chức năng kiến nghị, việc HĐDT, các Ủy ban của QH Việt Nam thực hiện chức năng giám sát là yêu cầu tất yếu, khách quan, xuất phát từ nhu cầu chuyên môn hóa để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của QH. Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, QH là cơ quan được giao thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Tuy nhiên, với phạm vi đối tượng giám sát rộng và đặc điểm, yêu cầu của hoạt động giám sát là tính chủ động, thường xuyên, liên tục, trong khi đó QH với tính chất hoạt động không thường xuyên, đa số là ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm, thì để bảo đảm hiệu quả giám sát, QH với tư cách là một tập thể các ĐBQH hoạt động tại kỳ họp cần xác định và hướng trọng tâm giám sát tối cao của QH là các cơ quan ở tầng cao nhất của bộ máy nhà nước; đây là những đối tượng sẽ chịu sự giám sát thường xuyên, liên tục của QH. Đồng thời, QH phân công, phân cấp việc thực hiện chức năng giám sát cho các chủ thể thuộc cấu trúc của mình thực hiện, thông qua việc ban hành văn bản quy định về thẩm quyền và phạm vi giám sát của từng chủ thể. QH sẽ theo dõi, xem xét, đánh giá thông qua việc xét báo cáo, xem xét VBQPPL, xem xét việc trả lời chất vấn tại kỳ họp, giám sát chuyên đề... để thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan chịu sự giám sát cũng như bản thân các các chủ thể giám sát. Trường hợp cần thiết, khi đối tượng chịu sự giám sát này có dấu hiệu vi phạm trong thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của QH mà các cơ chế giám sát khác chưa thực hiện, thực hiện không hiệu quả thì QH mới tiến hành giám sát tối cao tại kỳ họp. Như có tác giả đã phân tích, “QH với tư cách là tập thể của các đại biểu của toàn thể Nhân dân chỉ giám sát ở cấp chính quyền tối cao, để bảo đảm khuynh hướng phân công quyền lực giữa QH với các cấu trúc của QH và những cơ quan nhà nước khác cũng có chức năng giám sát quyền lực, chẳng hạn như Viện kiểm sát, Tòa án…; đồng thời, trong điều kiện của một QH mà đa số các đại biểu là không chuyên trách, QH không thể làm được tất cả, QH cần sự hỗ trợ giám sát của các định chế khác”. Do đó, có thể nói, chủ thể tham gia thực hiện quyền giám sát tối cao bao gồm: QH, UBTVQH, các Ủy ban của QH, Đoàn ĐBQH và các ĐBQH. “Tất cả các hoạt động giám sát đều có một mục đích duy nhất đó là thực hiện chức năng giám sát chung của QH”. Nói cách khác, “QH thực hiện chức năng giám sát của mình thông qua hoạt động của QH, các cơ quan của QH, Đoàn ĐBQH và các ĐBQH”94. Điều này cũng phù hợp với thực tiễn pháp lý ở nước ta, khi trước đây, Hiến pháp năm 1992 quy định “QH thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”; nhưng hiện nay “Hiến pháp năm 2013 đã bỏ từ toàn bộ và chỉ quy định QH giám sát tối cao đối với hoạt động của của Nhà nước, theo đó Hiến pháp đã quy định khái quát để Luật có điều kiện cụ thể hóa những hoạt động nào của Nhà nước thuộc thẩm quyền giám sát tối cao của QH”. Căn cứ Luật tổ chức QH năm 2014, Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND năm 2015, phạm vi đó được giới hạn trong hoạt động của các cơ quan nhà nước ở cấp cao nhất, những cơ quan do QH thành lập, phê chuẩn và chịu sự giám sát của QH. Đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, chỉ khi xét thấy cần thiết thì QH mới tiến hành giám sát (khoản 2 Điều 4 Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND năm 2015). Như vậy, “phạm vi giám sát này phù hợp với tính chất tối cao của chức năng giám sát của QH và cũng phù hợp với thực tiễn, bởi suốt trong quá trình lịch sử, hầu như phạm vi hoạt động giám sát của QH chưa bao giờ được thực hiện đối với các cơ quan nhà nước từ cấp tỉnh trở xuống”. Đồng thời, Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND năm 2015 đã quy định rõ, giám sát của QH bao gồm giám sát tối cao của QH, giám sát của UBTVQH, các Ủy ban của QH, Đoàn ĐBQH và các ĐBQH (khoản 5 Điều 2); giám sát tối cao của QH được thực hiện tại kỳ họp QH (khoản 3 Điều 2); hiệu quả giám sát của QH được bảo đảm bằng hiệu quả giám sát tối cao của QH, giám sát của UBTVQH, các Ủy ban của QH, Đoàn ĐBQH và các ĐBQH (khoản 2 Điều 10). Trong các cấu trúc của QH, với vị trí, vai trò của mình, các Ủy ban của QH ngày càng phát huy hiệu quả trong việc giúp QH thực hiện tốt các chức năng của mình. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả giám sát, thì bên cạnh việc kiện toàn các cấu trúc khác, QH cần thiết phải tổ chức hệ thống Ủy ban đủ mạnh, có số Ủy ban hợp lý và phân công, phân cấp cho các Ủy ban thực hiện chức năng giám sát để bảo đảm cho QH giám sát được toàn diện và sâu sát các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước. Như một tác giả đã nhấn mạnh, “QH cần phải thực hiện chức năng giám sát tại các Ủy ban; giám sát trở thành chức năng chính của QH thì giám sát cũng là chức năng chính của Hội đồng và các Ủy ban; muốn thực hiện tốt chức năng giám sát, chỉ có một cách là phải có kỹ năng thực hiện chức năng giám sát của các Ủy ban của QH”. Việc QH thành lập các Ủy ban, ban hành Luật tổ chức QH, Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND và các đạo luật khác, trong đó quy định phạm vi, đối tượng, nội dung, phương thức giám sát và hậu quả pháp lý cụ thể đối với từng Ủy ban, là cơ sở, nền tảng để các Ủy ban thực hiện quyền giám sát đối với các chủ thể chịu sự giám sát thuộc lĩnh vực được phân công, là cơ sở hình thành chức năng giám sát của các Ủy ban. Giữa chức năng giám sát của các Ủy ban và chức năng giám sát của QH có mối liên hệ gắn bó, quan hệ hữu cơ, bổ sung lẫn nhau và nằm trong một thể thống nhất các hoạt động thực hiện chức năng giám sát của QH; “giám sát của HĐDT và các Ủy ban của QH là một bộ phận cấu thành quyền giám sát của QH”; “giám sát của các Ủy ban của QH là cơ sở, là điều kiện để QH thực hiện có hiệu quả và hiệu lực quyền giám sát tối cao của mình và ngược lại”. Việc thực hiện chức năng giám sát của Ủy ban sẽ bổ trợ, cung cấp thông tin cho hoạt động giám sát tối cao của QH tại kỳ họp; thông qua hoạt động giám sát, các Ủy ban có thể kiến nghị QH xem xét hoạt động của các đối tượng bị giám sát, đề ra các giải pháp để QH xem xét, quyết định. Ngược lại, hoạt động giám sát tối cao của QH tại kỳ họp sẽ là định hướng để các Ủy ban tiếp tục thực hiện chức năng giám sát của mình. Ví dụ: Khi QH thực hiện quyền giám sát tối cao thông qua việc xem xét báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thì một trong những căn cứ quan trọng không thể thiếu đó là ý kiến thẩm tra của các Ủy ban; ngược lại, khi QH ra Nghị quyết về kết quả giám sát thì các Ủy ban của QH căn cứ vào đó để tiếp tục tiến hành theo dõi, giám sát việc thực hiện Nghị quyết của QH (thực tế, trong nội dung các Nghị quyết của QH về kết quả giám sát đều có điều khoản giao các Ủy ban của QH trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn tiến hành giám sát việc thực hiện Nghị quyết). Như vậy, có thể thấy, chức năng giám sát của các Ủy ban của QH có hai đặc điểm cơ bản gắn liền với vị trí, vai trò của các Ủy ban: Thứ nhất, chức năng giám sát của các Ủy ban được hình thành trên cơ sở chức năng giám sát của QH, là chức năng phái sinh từ chức năng giám sát của QH, được chi phối bởi vị trí, vai trò của các Ủy ban là một bộ phận thuộc cơ cấu tổ chức của QH, do QH quyết định nhằm giúp QH thực hiện tốt chức năng giám sát trong lĩnh vực phân công cho các Ủy ban phụ trách. Vì vậy, nội dung chức năng giám sát của các Ủy ban phụ thuộc vào chức năng giám sát của QH, sự phân công của QH bằng luật định và vì mục tiêu thực hiện tốt chức năng giám sát của QH. Nếu nội dung chức năng giám sát của QH có thay đổi thì phạm vi nội dung chức năng giám sát của các Ủy ban cũng thay đổi tương ứng. Để có căn cứ xác định và thực hiện chức năng giám sát của các Ủy ban thì QH phải ban hành các văn bản pháp luật để quy định những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể cho các Ủy ban. Theo thời gian, để phù hợp với thực tiễn giám sát, sự thay đổi cơ cấu tổ chức và yêu cầu đổi mới hoạt động của QH, thì QH có thể thay đổi trong quan điểm, cách thức phân công nhiệm vụ của các Ủy ban, từ đó sẽ sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các Ủy ban, khi đó chức năng giám sát của các Ủy ban sẽ có thay đổi tương ứng. Thứ hai, với vị trí, vai trò là cơ quan của QH phụ trách về một hoặc một số lĩnh vực nhất định, trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, chức năng giám sát của các Ủy ban của QH có tính độc lập tương đối, theo đó căn cứ tình hình thực tiễn, các Ủy ban chủ động tiến hành các hoạt động giám sát và chủ động đưa ra các yêu cầu, kiến nghị để đối tượng bị giám sát, cơ quan và người có thẩm quyền nghiên cứu, sửa chữa các sai sót, xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật. Tính chủ động thể hiện từ khâu lựa chọn chủ đề giám sát, đối tượng giám sát, nội dung, phương thức giám sát và triển khai hoạt động giám sát trên thực tế cho đến việc xem xét kết quả giám sát và đưa ra các yêu cầu, kiến nghị thuộc thẩm quyền mà không phụ thuộc vào hoạt động giám sát của QH. Thông qua hoạt động giám sát, các Ủy ban sẽ phát hiện những thiếu sót, hạn chế trong quy định của luật, nghị quyết của QH, từ đó kiến nghị với QH để sửa đổi văn bản cho phù hợp với thực tiễn; phát hiện những ưu điểm, tồn tại, hạn chế về kinh tế-xã hội, về ngân sách, về tổ chức bộ máy nhà nước... để tham mưu, đề xuất khi QH xem xét và quyết định đối với những vấn đề quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, tính độc lập của chức năng giám sát của các Ủy ban của QH chỉ là tương đối, vì hoạt động giám sát của các Ủy ban luôn phải bám sát chương trình hoạt động giám sát chung của QH, chương trình giám sát của UBTVQH, chịu sự điều hòa, phối hợp chung của UBTVQH, để bảo đảm mục tiêu thực hiện tốt chức năng giám sát của QH. Theo Cao Mạnh LinhLink: Tại đây
avatar
Lã Thị Ái Vi
247 ngày trước
Bài viết
Chức năng giám sát của Quốc hội
2.1.1. Về chức năng giám sát của Quốc hội 2.1.1.1. Chức năng giám sát của Quốc hội, một phương thức kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước Theo từ điển Tiếng Việt, giám sát được hiểu là “theo dõi việc thực hiện những điều đã cam kết, quy định”, hay là "sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã quy định”. Dưới góc độ nghiên cứu, có ý kiến cho rằng, giám sát được hiểu là việc “theo dõi, xem xét, đánh giá”, bao gồm hành vi quan sát (theo dõi, xem xét, cân nhắc) và hành vi phán quyết (đánh giá) đối với hoạt động (hành vi) của đối tượng chịu sự giám sát. Tuy nhiên, nếu hiểu đơn giản theo quan điểm này thì giám sát chỉ đơn thuần được xem là các hoạt động diễn ra trong nội tại của chủ thể giám sát mà không cho thấy mối liên hệ tác động qua lại mang tính tích cực, chủ động giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát, không thể hiện được mục đích, vai trò của hoạt động giám sát là nhằm bảo đảm các đối tượng giám sát thực hiện đúng theo các cam kết, quy định. Vì vậy, nghiên cứu sinh đồng tình với quan điểm, giám sát là "sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc và hướng hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được những mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước"; “giám sát không chỉ dừng lại ở việc chủ thể giám sát quan sát, phán quyết mà còn bao gồm cả việc chủ thể giám sát bày tỏ thái độ, thực hiện các hành động để tác động lên hành vi của đối tượng bị giám sát”. Phù hợp với quan điểm này, khoản 1 Điều 2 Luật hoạt động giám sát của QH và HĐND năm 2015 đã quy định: “Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý”. Như vậy, về nội hàm có thể hiểu “Giám sát” là việc một chủ thể có thẩm quyền (chủ thể giám sát) nhất định theo dõi một cách chủ động, theo trình tự, thủ tục do luật định đối với hoạt động của đối tượng đã được xác định (chủ thể chịu sự giám sát), qua đó xem xét, đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động cũng như việc tuân thủ pháp luật của các đối tượng, xem có vi phạm hay không, những hạn chế, bất cập và nếu có thì đưa ra biện pháp cần thiết để bảo đảm hoạt động của đối tượng đó tuân thủ các quy định và mục đích đã đặt ra. Các biện pháp đưa ra thường dưới hình thức các yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý; một số chủ thể có thể trực tiếp quyết định xử lý theo thẩm quyền luật định. Khi xem xét từ góc độ tổ chức, phân công thực hiện quyền lực nhà nước, “giám sát vừa là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước vừa là một phương thức đảm bảo quyền lực nhà nước được thực hiện đúng trong phạm vi, thẩm quyền, hình thức mà pháp luật đã quy định cho mỗi thiết chế quyền lực trong thực tiễn hoạt động”, ngăn chặn sự vi phạm, lạm quyền từ phía các cơ quan công quyền. Theo dõi lịch sử phát triển của các quốc gia trên thế giới cho thấy, tuy cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước có những điểm khác nhau, nhưng cùng với sự phát triển của xã hội loài người thì yêu cầu xây dựng một mô hình nhà nước và tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước như thế nào để có cơ chế kiểm soát quyền lực hữu hiệu nhất, luôn là mục đích hướng tới ở những quốc gia tiến bộ, dân chủ. Theo Montesquieu, “trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: Quyền lập pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự”, tức là các quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; đồng thời ông quan niệm, các quyền này cần được giao cho các chủ thể khác nhau, có sự độc lập nhưng cũng cần có sự kiểm soát qua lại để tránh sự lạm quyền, theo đó “nếu cơ quan hành pháp không có quyền ngăn cản các dự định của cơ quan lập pháp, thì cơ quan lập pháp sẽ trở thành chuyên chế, tự ban cho mình mọi thứ quyền hành mà xóa bỏ các quyền lực khác”; cơ quan lập pháp “phải có chức năng xem xét các đạo luật đã ban hành được thực hiện như thế nào”…. Hiện nay, các nước có thể xây dựng cơ chế, cách thức, biện pháp thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước khác nhau, nhưng “nếu căn cứ vào mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể của hoạt động kiểm soát có thể chia cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước thành hai cơ chế: Thứ nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực từ bên ngoài (như: các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của đảng cầm quyền, của các tổ chức-đoàn thể xã hội, của các phương tiện truyền thông và của từng cá nhân công dân...); thứ hai là cơ chế kiểm soát từ ngay trong bản thân bộ máy quyền lực nhà nước và bằng chính hoạt động kiểm tra, giám sát lẫn nhau của các cơ quan công quyền thuộc ba nhánh quyền lực nhà nước”. Trong cơ chế kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước, hoạt động giám sát của QH/NV, một thiết chế phổ biến và giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu quyền lực nhà nước ở hầu hết các quốc gia, đang ngày càng phát huy vai trò của mình; vì đây là hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, đại diện cho ý chí của Nhân dân, là hoạt động giám sát của cơ quan thực hiện quyền lập pháp đối với các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Theo Montesquieu, “Cơ quan đại biểu dân chúng không nên giải quyết các công việc cụ thể, vì họ không thể làm tốt điều này. Cơ quan đại biểu cho dân chỉ nên làm ra luật, và xem xét người ta thực hiện luật như thế nào. Điều này thì có thể làm tốt, và không ai có thể làm tốt hơn là cơ quan đại biểu của dân”; hay như quan điểm của J.S.Mill thì: “Thay cho chức năng cai trị không thích hợp, chức năng đích thực của QH là giám sát và kiểm soát Chính phủ, soi lên ánh sáng công khai các hành vi cai trị, buộc Chính phủ phải giải trình, khi bất cứ ai đó thấy chúng đáng nghi ngờ, đáng lên án…” Quan điểm này cũng tương đồng với nhận định trong một số nghiên cứu như: “Nếu QH từ bỏ trách nhiệm giám sát thì có thể dẫn đến hai kết quả. Các cơ quan, các bộ, có thể cứ làm tới mà không bị giám sát; hoặc ai đó có thể nắm dây cương mà QH đã thả lỏng. Điều thứ hai xảy ra, nghĩa là nhân viên Tổng thống đã ngồi vào tay lái” hay “có những vấn đề đụng chạm đến bất cứ bộ máy quan liêu nào như: lãng phí, vô hiệu quả, tham nhũng. Phải có ai đó đề phòng những chuyện lạm dụng; về lý thuyết chỉ có QH”… Và do đó, dù chức năng giám sát được sinh ra một cách muộn mằn hơn so với chức năng lập pháp, nhưng “ngày nay giám sát đã dần trở thành một chức năng chính của QH/NV, ngày càng có xu hướng lấn át cả chức năng lập pháp. Chức năng giám sát của QH/NV thể hiện những yêu cầu tiến triển của nhà nước pháp quyền, bởi mục tiêu của nhà nước pháp quyền đó là quyền lực nhà nước phải bị kiểm soát bằng quy định của pháp luật mà trước hết là các quy định của Hiến pháp”. Tiếp thu những tinh hoa trong tư tưởng của nhân loại về kiểm soát quyền lực nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, tại Đại hội XI của Đảng, Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) đã bổ sung vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN một nội dung mới, đó là kiểm soát quyền lực nhà nước. Thể chế hóa nguyên tắc này, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (Điều 2). Theo đó, một trong những yêu cầu không thể thiếu để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là quyền lực nhà nước phải thực sự thuộc về Nhân dân (Nhân dân là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực nhà nước), Hiến pháp và luật phải được triệt để tôn trọng; “mọi quyền lực nhà nước đều phải được đặt trong cơ chế kiểm soát quyền lực một cách hiệu quả nhằm ngăn ngừa, hạn chế khả năng lạm quyền, bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ quyền con người”. Đây là cơ sở hiến định quan trọng để hình thành cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, các cơ quan nhà nước phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm và thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ quyền hạn được giao. Đồng thời, theo Hiến pháp năm 2013, QH được xác định là cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước (Điều 69); Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Điều 94); TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp (khoản 1 Điều 102). Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã xác định rõ cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, đồng thời quy định về cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền này. Trong đó, QH với vị trí là cơ quan duy nhất có các thành viên do cử tri cả nước bầu ra, là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nên tất yếu QH phải thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Việc thực hiện chức năng giám sát của QH là việc thực hiện quyền lực nhà nước được Hiến pháp, pháp luật quy định, là phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện bởi cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là phương thức kiểm soát của cơ quan thực hiện quyền lập pháp đối với các cơ quan việc thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp. Với vị trí là  “cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân”, việc thực hiện chức năng giám sát của QH đối với hoạt động của Nhà nước chính là một trong các phương thức bảo đảm thực hiện chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, ngăn ngừa nguy cơ lạm quyền từ các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp; bảo đảm cho Hiến pháp, luật, nghị quyết của QH, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất; phát hiện và xử lý hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo Cao Mạnh LinhLink: Tại đây 
avatar
Mai Ly Ly
554 ngày trước
Bài viết
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC LÀ GÌ ? PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN ?
Quản lý nhà nước là chức năng quan trọng nhất vận hành thường xuyên bằng bộ máy nhà nước bảo đảm mọi hoạt động của xã hội cũng như trên từng lĩnh vực đời sống xã hội vận động theo một hướng, đường lối nhất định do Nhà nước định ra.1. Tìm hiểu quy định chung về quản lý nhà nướcQuản lí nhà nước là hoạt động thực thì quyển lực nhà nước do các cơ quan nhà nước thực hiện nhằm xác lập một trật tự ổn định và phát triển xã hội theo những mục tiêu mà tầng lớp cầm quyền theo đuổi.Quản lí nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm toàn bộ hoạt động của cả bộ máy nhà nước từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp vận hành như một thực thể thống nhất. Theo nghĩa hẹp là hướng dẫn chấp pháp, điểu hành, quản lí hành chính do cơ quan hành pháp thực hiện bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.Quản lí tài sản là quá trình quản lí nhà nước bắt đầu từ việc xác định mục tiêu đến khi đạt được hiệu quả thực tế, tạo thành một chu kì quản lí, liên tục nối tiếp nhau. Quản lí xuất hiện trong mọi tổ chức, tập thể có hoạt động chung.Chủ thể quản lí nhà nước là cơ quan hay cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước, được sử dụng quyển lực nhà nước để quản lí. Pháp luật là công cụ chủ yếu của quản lí nhà nước. Đối tượng quản lí nhà nước là các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong một quốc gia, là sinh hoạt, đời sống của xã hội diễn ra trên từng lĩnh vực.Quản lí nhà nước được giới hạn trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và được phân biệt với quản lí mang tính chất nội bộ một tổ chức xã hội, đoàn thể, đơn vị, xí nghiệp, một cộng đồng dân cư mang tính tự quản. 2. Khái niệm quan hệ giữa nhà nước và cá nhânCá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định với tư cách một cá thể, một thành viên của xã hội và được phân biệt với những thành viên khác của xã hội thông qua tính phổ biến và tính đơn nhất của cá nhân ấy. Tính phổ biến của cá nhân thể hiện ở chỗ cá nhân là con người, mang hai tính chất chung của con người là tính chất tự nhiên và tính chất xã hội. Cá nhân còn có tính đơn nhất bởi vì mỗi cá nhân có những phẩm chất riêng biệt thể hiện cái “tôi” của cá nhân. Nói tới cái “tôi” của cá nhân tức là nói đến nhân cách riêng của mỗi cá nhân - đó là sự tổng hợp các yếu tố sinh học, tâm lí, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng có của cá nhân, làm cho cá nhân tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định và tự điều chỉnh được mọi hoạt động của mình trong đời sống xã hội.Bất cứ xã hội nào cũng được cấu thành bởi những con người cụ thể, tức là bởi các cá nhân cụ thể sống trong xã hội đó. Các cá nhân này sống và hoạt động trong những nhóm xã hội, tập đoàn xã hội, cộng đồng xã hội khác nhau (ví dụ: gia đình, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng...) và có quan hệ chặt chẽ với các tập thể xã hội đó. Mối quan hệ giữa cá nhân với xã hội là quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng xã hội, mà giữa hai lợi ích này vừa có sự thống nhất vừa có mâu thuẫn. Có mâu thuẫn giữa hai lợi ích đó bởi vì mỗi cá nhân, bên cạnh có các lợi ích chung của cả cộng đồng, còn có những lợi ích riêng xuất phát từ nhiều nhu cầu khác nhau và các lợi ích riêng đó có thể chính đáng, phù họp với thuần phong mĩ tục của dân tộc và đạo đức xã hội, cũng có thể không chính đáng, đối lập với lợi ích chung và đạo đức xã hội. Là một hiện tượng lịch sử, quan hệ giữa cá nhân với xã hội luôn luôn vận động, biến đổi, phát triển và sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác.Một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước so với thị tộc trong xã hội cộng sản nguyên thủy mà Ph. Ăngghen nêu ra trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” (năm 1884), là nhà nước phân chia và quản lí dân cư theo lãnh thổ, không phân biệt huyết thống, tín ngưỡng, tôn giáo, chủng tộc, dân tộc, địa vị xã hội, giới tính... Điều đó chứng tỏ rằng, kể từ khi nhà nước ra đời thì quan hệ giữa nhà nước với dân cư thuộc quyền quản lí của nhà nước đã hình thành. Điều đó cũng có nghĩa là, kể từ khi nhà nước ra đời thì quan hệ giữa nhà nước với cá nhân cũng được hình thành.Xét về nguồn gốc và bản chất của nhà nước thì nhà nước nảy sinh từ xã hội có giai cấp, cho nên nó vừa mang tính chất giai cấp (hay tính chất chính trị) vừa mang tính chất xã hội sâu sắc. Tính chất xã hội của nhà nước thể hiện rõ rệt trong mối quan hệ lệ thuộc vào nhau, tác động qua lại lẫn nhau giữa nhà nước với xã hội. Nhà nước tồn tại và phát triển trong lòng xã hội, chịu sự chi phối của xã hội; ngược lại, xã hội cũng chịu tác động và sự ảnh hưởng trực tiếp từ nhà nước với tư cách là tổ chức quyền lực điều hành xã hội, quản lí xã hội bằng pháp luật. Xã hội là một cộng đồng những cá nhân, do vậy, thực chất của quan hệ giữa nhà nước với xã hội là quan hệ giữa tổ chức quyền lực chính trị với các cá nhân chịu sự tác động của tổ chức quyền lực chính trị ấy.Từ những trình bày ở trên có thể định nghĩa, quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là sự liên hệ, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau giữa tổ chức quyền lực chính trị với những con người cụ thể chịu sự tác động của quyền lực ấy. 3. Nội dung của quan hệ giữa nhà nước và cá nhânNội dung của mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân thể hiện ở sự tác động của nhà nước tới cá nhân và sự tác động của cá nhân tới nhà nước. - Sự tác động của nhà nước tới cá nhânThực chất của sự tác động của nhà nước tới cá nhân là sự tác động của quyền lực nhà nước tới đối tượng của mình. Một trong những đặc trưng chủ yếu của nhà nước là nhà nước thiết lập và thực thi quyền lực công khai bao trùm lên toàn xã hội. Quyền lực nhà nước tác động tới mọi cá nhân trong xã hội thông qua bộ máy nhà nước và bằng các hoạt động của nhà nước trong xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật.Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, nhà nước chuyển ý chí, lợi ích, nguyện vọng của mình thành những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung đối với mọi cá nhân trong xã hội khi các cá nhân đó ở vào điều kiện, hoàn cảnh, tình huống mà nhà nước đã dự liệu từ trước. Nội dung của pháp luật luôn xác định những hành vi mà cá nhân được thực hiện, không được thực hiện và phải thực hiện nhằm đáp ứng lợi ích và yêu cầu của nhà nước, của xã hội...; quy định những biện pháp tác động của nhà nước đối với những cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các yêu cầu của pháp luật.Để pháp luật của nhà nước được tôn trọng và thực hiện đầy đủ trong xã hội thì nhà nước còn phải tiến hành tổ chức cho mọi cá nhân thực hiện pháp luật thông qua việc huy động sức người, sức của để đưa pháp luật vào cuộc sống; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho mọi cá nhân để họ hiểu được pháp luật mà làm theo pháp luật.Sự tác động của quyền lực nhà nước tới cá nhân còn được thể hiện thông qua hoạt động của nhà nước trong việc bảo vệ pháp luật trước những hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân. Thông qua việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với cá nhân vi phạm pháp luật, nhà nước vừa bắt buộc cá nhân vi phạm phải gánh chịu những tổn thất nhất định về vật chất, tinh thần, vừa giáo dục, răn đe, phòng ngừa chính cá nhân đã vi phạm và các cá nhân khác chưa vi phạm pháp luật, đồng thời khôi phục lại pháp luật như trước đây. - Sự tác động của cá nhân tới nhà nướcVới tư cách là đối tượng tác động của quyền lực nhà nước, cá nhân có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện pháp luật. Tuy vậy, cá nhân không chịu sự tác động của quyền lực nhà nước một cách thụ động mà cũng tác động trở lại tới quyền lực nhà nước. Sự tác động đó có thể diễn ra một cách tích cực hoặc tiêu cực.Sự tác động tích cực của cá nhân tới nhà nước diễn ra khỉ chính sách, pháp luật của nhà nước phản ánh được ý chí, lợi ích, nguyện vọng của tất cả các cá nhân hoặc chí ít là đa số các cá nhân trong xã hội. Trong trường hợp này, cá nhân luôn luôn ủng hộ, giúp đỡ nhà nước trong việc thực thi quyền lực nhà nước một cách chủ động, tự giác và sáng tạo dưới các hình thức như: kiến nghị về cải cách, đổi mới bộ máy nhà nước; thảo luận, phản biện chính sách, pháp luật; tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật và bảo vệ chính sách, pháp luật; tham gia quản lí nhà nước và xã hội...Một khi chính sách, pháp luật của nhà nước không phù hợp với ý chí, lợi ích, nguyện vọng của tất cả các cá nhân hoặc số đông cá nhân frong xã hội thì cá nhân sẽ tác động tiêu cực tới nhà nước và chính sách, pháp luật của nhà nước, tìm mọi cách chống đoi nhà nước và chính sách, pháp luật của nhà nước. 
avatar
Nguyễn Phương Thảo
555 ngày trước
Bài viết
THỦ TƯỚNG: KHƠI DẬY VÀ PHÁT HUY MẠNH MẼ HƠN NỮA TIỀM NĂNG KINH DOANH CỦA PHỤ NỮ
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Lãnh đạo nữ ASEAN lần thứ hai, Thủ tướng Phạm Minh Chính chia sẻ một số giải pháp để khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa tiềm năng kinh doanh của phụ nữ trong xã hội.Chiều ngày 12/10 đã diễn ra Hội nghị Thượng đỉnh Lãnh đạo nữ ASEAN lần thứ hai với sự tham gia của nguyên thủ các nước ASEAN và đại diện lãnh đạo nữ, doanh nhân nữ từ các nước ASEAN và đối tác.Nhận lời mời của Thủ tướng Vương quốc Campuchia Samdech Hun Sen, Thủ tưởng Chính phủ Phạm Minh Chính và lãnh đạo Chính phủ nhiều nước trong đó có Thủ tướng Lào, Tổng thống Philippines, Thủ tướng Thái Lan, Thủ tướng New Zealand, Bộ trưởng Tăng quyền cho phụ nữ và Bảo vệ Trẻ em Indonesia, Tổng Thư ký Bộ Phụ nữ, Gia đình và Phát triển Xã hội Malaysia, Bộ trưởng Ngoại giao Australia, Quốc vụ khanh về phát triển gia đình và xã hội Singapore, Quốc vụ khanh phụ trách về phát triển Vương quốc Anh đã tham dự và phát biểu tại Hội nghị.Đây là hoạt động tiếp theo sau Hội nghị Thượng đỉnh Lãnh đạo nữ ASEAN lần đầu tiên được tổ chức vào năm 2020 do Việt Nam, Chủ tịch ASEAN khi đó chủ trì. Hội nghị nhằm mục tiêu tạo diễn đàn thảo luận ở cấp cao nhất về bình đẳng giới và tăng cường quyền năng cho phụ nữ, qua đó phát huy sức mạnh tiềm tàng và đặt phụ nữ vào trung tâm của các nỗ lực hợp tác và xây dựng Cộng đồng ASEAN. Thủ tướng Hun Sen, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng nhiều lãnh đạo đánh giá cao thành công của sáng kiến này, coi đó là dấu mốc quan trọng thể hiện sự coi trọng đối với giá trị và vai trò cốt lõi của phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội khu vực và cam kết cao của ASEAN trong thúc đẩy bình đẳng giới và lồng ghép giới.Với chủ đề "Xây dựng một tương lai ngày càng bền vững, bao trùm và tự cường: Khơi dậy tiềm năng kinh doanh của phụ nữ trong ASEAN", Hội nghị năm nay thảo luận các biện pháp nhằm phát huy mạnh mẽ tiềm năng kinh doanh của phụ nữ trong ASEAN, đóng góp vào quá trình mở cửa và phục hồi sau đại dịch, thúc đẩy sự phát triển bền vững, bao trùm và tự cường cho các doanh nghiệp do nữ làm chủ. Phụ nữ là một lực lượng xương sống của nền kinh tế ASEAN, trong đó tỉ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp ngày càng tăng, chiếm phần lớn trong khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ và cũng là nhóm đối tượng chịu nhiều ảnh hưởng bởi đại dịch COVID-19, cần được ưu tiên trong chương trình nghị sự khu vực.    Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định vai trò và đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp nữ trong phục hồi và phát triển kinh tế Việt Nam và khu vực. Thủ tướng đồng thời nhấn mạnh cam kết của Việt Nam trong hợp tác với các nước ASEAN để thúc đẩy hơn nữa bình đẳng giới và tăng cường quyền năng cho phụ nữ, đóng góp vào một tương lai ngày càng bền vững, bao trùm và tự cường của khu vực và trên thế giới.Thủ tướng chia sẻ một số giải pháp để khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa tiềm năng kinh doanh của phụ nữ trong xã hội, gồm: Thứ nhất, tạo điều kiện để các doanh nhân nữ đóng góp một cách bền vững vào quá trình phát triển đất nước thông qua xây dựng hệ thống thể chế, pháp lý và chính sách đồng bộ làm nền tảng tạo dựng một môi trường kinh doanh có đáp ứng giới; khuyến khích phụ nữ tiếp cận, tham gia tích cực trong quá trình xây dựng, ban hành, và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật. Thứ hai, lồng ghép giới cần được thực hiện một cách bao trùm ở mọi cấp độ - địa phương, quốc gia, khu vực và trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là trong những ngành nghề có sự tham gia của nhiều lao động nữ. Thứ ba, đẩy mạnh nâng cao năng lực tự cường cho các doanh nghiệp và doanh nhân nữ để thích ứng với môi trường kinh doanh không ngừng biến động và nắm bắt những trào lưu mới như phát triển kinh tế xanh và chuyển đổi số.Thủ tướng đặc biệt nhấn mạnh tính cấp thiết phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và nâng cao quyền năng cho phụ nữ ở cả cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu để có thể đạt được những chuyển biến "từ nhận thức đến hành động" trong toàn xã hội, phát huy đầy đủ và mạnh mẽ tiềm năng của phụ nữ trong kinh doanh cũng như để đóng góp vào xây dựng môi trường hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển bền vững của ASEAN và thế giới.Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà, đại diện lãnh đạo nữ đến từ Việt Nam, chia sẻ nhận định về vai trò tiên phong của các nữ doanh nhân trong thực hiện trách nhiệm xã hội, tăng quyền năng kinh tế cho phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới và góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Thứ trưởng nhấn mạnh các ưu tiên của Việt Nam về hoàn thiện thể chế, chính sách về lao động, việc làm, đầu tư, kinh doanh, khuyến khích khởi nghiệp sáng tạo,… cùng với những ưu tiên cho giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi số, tạo cơ hội tiếp cận kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ, doanh nhân nữ, để đồng hành cùng các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ nói riêng vượt qua khó khăn và các thách thức hiện nay.Đặc biệt, sau phát biểu của Thủ tướng Phạm Minh Chính và đại diện lãnh đạo nữ Việt Nam, Thủ tướng Hun Sen đánh giá cao đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và gửi lời cảm ơn tới những người phụ nữ Việt Nam đã gửi những người chồng, người con đến Campuchia giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng Pol Pot, cảm ơn Việt Nam đã chiến đấu vì tương lai của nhân dân Campuchia. Thủ tướng Hun Sen đồng thời đánh giá cao những thành tựu hai nước đã đạt được trong quá trình phục hồi và phát triển kinh tế hậu COVID-19 và mời Thủ tướng Phạm Minh Chính sang thăm Campuchia và tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 40-41 và các hội nghị liên quan vào tháng 11 tới đây./. 
Bài viết được xem nhiều nhất
Bài viết
(mới)Những mẫu bản kiểm điểm đảng viên dành cho cán bộ, giáo viên, sinh viên,.. luôn được bạn đọc chú ý. Đây là thời điểm để mọi người nhìn nhận lại những gì mình đã và chưa làm được. Qua đó cho mình thêm động lực để phấn đấu hơn nữa. Hãy cùng nhau theo dõi ngay trong bài viết mẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân của Legalzone - hệ thống thủ tục pháp luậtMẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân Bản kiểm điểm Đảng viên sẽ gồm có các phần chính sau:Ưu điểm, kết quả đạt được về tư tưởng chính trị;Phẩm chất đạo đức, lối sống;Y thức tổ chức kỷ luật;Tác phong, lề lối làm việc;Về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao;Về việc thực hiện cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hằng năm.Cụ thể: Hạn chế, khuyết điểm đảng viên về tư tưởng chính trị; phẩm chất đạo đức, lối sống; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong, lề lối làm việc; về thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.Hạn chế khuyết điểm đảng viên về việc thực hiện cam kết tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu hằng năm và nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm.Kết quả khắc phục những ưu khuyết điểm của đảng viên đã được cấp có thẩm quyền kết luận hoặc được chỉ ra ở các kỳ kiểm điểm trước.Tại phần này cần kiểm điểm rõ:Từng ưu khuyết điểm đảng viên (đã được khắc phục; đang khắc phục, mức độ khắc phục; chưa được khắc phục)Những khó khăn, vướng mắc (nếu có)Trách nhiệm của cá nhân.Giải trình, nhận xét ưu khuyết điểm của đảng viên những vấn đề được gợi ý kiểm điểm (nếu có).Giải trình từng vấn đề được gợi ý kiểm điểm, nêu nguyên nhân.Xác định trách nhiệm của cá nhân đối với từng vấn đề được gợi ý kiểm điểm.Làm rõ trách nhiệm của cá nhân đối với những ưu điểm khuyết điểm của đảng viên (nếu có).Phương hướng, biện pháp khắc phục những ưu khuyết điểm của đảng viên. Tự nhận mức xếp loại chất lượng.Legalzone cung cấp cho bạn đọc 02 mẫu bản tự kiểm kiểm cá nhân tham khảo sau đây:Mẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhânBẢN KIỂM ĐIỂM CÁ NHÂNHọ và tên: ………………… Sinh ngày: …………………………………Ngày vào Đảng: ……………… Chính thức ngày ………………………… Chức vụ Đảng: …………………………………………………………..Chức vụ chính quyền(đoàn thể): ………………………………………….Đơn vị công tác: ………………………………………………………Hiện đang sinh hoạt tại chi bộ: ………………………………………..I. Ưu điểm, kết quả công tác 1. Về tư tưởng chính trị– Là một Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi luôn kiên định đối với đường lối của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.– Chấp hành nghiêm túc quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực để bảo vệ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.– Luôn có ý thức tuyên truyền, vận động người thân, gia đình và quần chúng nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.– Xác định ý thức tích cực, tự giác tự học, tự nâng cao kiến thức về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác qua các lớp tập huấn, các lớp bồi dưỡng, nghiên cứu tài liệu, tham khảo đồng nghiệp…– Bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch nghiên cứu, học tập, phấn đấu, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng thực hiện cuộc vận động“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo” của bản thân.Trong quá trình công tác, bản thân luôn nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.2. Về phẩm chất đạo đức, lối sống.– Bản thân tôi luôn có ý thức thực hành tiết kiệm, đấu tranh phòng, chống lãng phí, tham nhũng, quan liêu.- Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác trong ngành. Luôn có ý thức giữ gìn tư cách, đạo đức tính tiên phong của người đảng viên trong tác chuyên môn.- Không vi phạm tiêu chuẩn đảng viên và những điều Đảng viên không được làm theo quy định số 19-QĐ/TW ngày 03/01/2002 của Bộ Chính trị.– Bản thân tôi luôn thực hiện tự phê bình và phê bình trung thực và thẳng thắn, giữ gìn đoàn kết trong Đảng trên cơ sở cương lĩnh và điều lệ Đảng, phát huy quyền làm chủ và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động chỉ đạo chuyên môn và luôn luôn xây dựng tốt khối đoàn kết nội bộ.-  Trong cuộc sống thường ngày sinh hoạt với địa phương, tôi đã thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, được nhân dân nơi cư trú tin tưởng, tham gia tích cực mọi hoạt động ở nới cư trú.3. Về thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao:– Bản thân luôn thực hiện đúng qui chế chuyên môn, đảm bảo tính khoa học.– Làm việc có trách nhiệm cao, cố gắng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. – Luôn có tinh thần tìm tòi, học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.– Luôn phối kết hợp tốt với các đồng nghiệp, với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. -Trong công tác xây dựng Đảng, đoàn thể tôi luôn có ý thức tuyên truyền, tham gia xây dựng chi bộ, các đoàn thể trong cơ quan trong sạch, vững mạnh.4. Về tổ chức kỷ luật:– Bản thân tôi luôn thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, có ý thức tổ chức kỉ luật cao, chấp hành sự phân công điều động, luân chuyển của tổ chức.- Bản thân luôn vận động gia đình chấp hành nghiêm túc chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các luật và nghị định của Nhà nước về phòng chống ma tuý, chống tiêu cực ……– Bản thân tôi luôn thực hiện tốt chế độ sinh hoạt Đảng và đóng đảng phí theo quy định.- Tham gia đầy đủ các buổi sinh hoạt chi bộ, quán triệt sâu sắc các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Nhà nước và ngành đề ra.– Tham gia đầy đủ các buổi hội họp, học nghị quyết do chi bộ và Đảng bộ tổ chức; đóng Đảng phí đầy đủ, kịp thời.– Thực hiện tốt quy chế, nội quy của tổ chức Đảng cũng như của cơ quan đơn vị, có tinh thần gương mẫu chấp hành và lãnh đạo thực hiện tốt quy chế, quy định, nội quy của cơ quan, đơn vị và nơi cư trú- Ý thức lắng nghe, tiếp thu và tự sửa chữa khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình, thực hiện tốt chế độ sinh hoạt Đảng.– Thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, Đảng uỷ cơ sở; có tinh thần tham gia xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền.- Luôn có trách nhiệm cao với công việc được giao; thái độ phục vụ nhân dân tốt; có ý thức đấu tranh với những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, hách dịch, gây phiền hà nhân dân.II. Khuyết điểm, hạn chế và nguyên nhân– Chỉ đạo hoạt động chuyên môn của nhà trường và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn giảng dạy kết quả chưa cao– Đôi khi còn chưa linh hoạt, trong giải quyết công việc với đồng nghiệp, với học sinh– Tuy có ý thức trong công tác tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt nhưng vẫn còn chưa mạnh dạn.– Đôi lúc chưa chủ động trong tổ chức thực hiện một số hoạt động. Trong công việc đôi lúc còn chưa mạnh dạn, thẳng thắn góp ý cho đồng nghiệp– Chưa cương quyết trong xử lí vi phạm, làm việc còn mang tính cả nểIII. Phương hướng và biện pháp khắc phục, sửa chữa yếu kém– Tuyệt đối chấp hành các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.- Thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ trong Đảng và cơ quan.– Không ngừng tu dưỡng đạo đức, tự học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị,chuyên môn nghiệp vụ, mạnh dạn hơn nữa trong việc tham mưu đề xuất các giải pháp nhằm làm tốt hơn công tác quản lý, nhiệm vụ chính trị được giao.– Tiếp tục đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, luôn có ý thức tự phê bình và phê bình, tránh tư tưởng nể nang, nâng cao vai trò tiên phong của người đảng viên.Biện pháp khắc phục:– Trong thời gian tới sẽ phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm trên để bản thân được hoàn thiện hơn.– Tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng những hành động và việc làm cụ thể trong thực hiện công việc và nhiệm vụ được giaoXem thêm: Thủ tục thành lập trung tâm ngoại ngữ tại Hà NộiLink dowload các biểu mẫu miễn phíBẢN TỰ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁ NHÂNBẢN TỰ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁ NHÂN 2BẢN TỰ NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CÁN BỘTải ngay mẫu Bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân tại phần ảnh tại bài viết hoặc tại phần bình luận của bài viết bạn nhé IV. Tự nhận mức xếp loại chất lượng Đảng viên, cán bộ, công chức:Mức 2: Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.Người viết bản kiểm điểmMẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân số 2ĐẢNG BỘ Xà.......CHI BỘ TRƯỜNG .........***ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ........, ngày...tháng...năm 2019BẢN KIỂM ĐIỂM CÁ NHÂNHọ và tên: ............. .............. Sinh ngày: ........... ................ ........... ............Ngày vào Đảng: ............... .............. Chính thức ngày .............. .............. Chức vụ Đảng: ........... ............ ............... .............. ................ ................. Chức vụ chính quyền(đoàn thể): .............. ................. .................. ............ Đơn vị công tác: ............ ............... ................ ................... ................. Hiện đang sinh hoạt tại chi bộ: .................... .................... .................... Ưu điểm, kết quả công tácVề tư tưởng chính trị- Là một Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi luôn kiên định đối với đường lối của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.- Chấp hành nghiêm túc quan điểm, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết đấu tranh chống lại các biểu hiện tiêu cực để bảo vệ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.- Luôn có ý thức tuyên truyền, vận động người thân, gia đình và quần chúng nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước.- Xác định ý thức tích cực, tự giác tự học, tự nâng cao kiến thức về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác qua các lớp tập huấn, các lớp bồi dưỡng, nghiên cứu tài liệu, tham khảo đồng nghiệp...- Bản thân tôi đã xây dựng kế hoạch nghiên cứu, học tập, phấn đấu, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", cuộc vận động "Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo" của bản thân. Trong quá trình công tác, bản thân luôn nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.Về phẩm chất đạo đức, lối sống.- Bản thân tôi luôn có ý thức thực hành tiết kiệm, đấu tranh phòng, chống lãng phí, tham nhũng, quan liêu.Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác trong ngành.Luôn có ý thức giữ gìn tư cách, đạo đức tính tiên phong của người đảng viên trong tác chuyên môn.Không vi phạm tiêu chuẩn đảng viên và những điều Đảng viên không được làm theo quy định số 19-QĐ/TW ngày 03/01/2002 của Bộ Chính trị.- Bản thân tôi luôn thực hiện tự phê bình và phê bình trung thực và thẳng thắn, giữ gìn đoàn kết trong Đảng trên cơ sở cương lĩnh và điều lệ Đảng, phát huy quyền làm chủ và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động chỉ đạo chuyên môn và luôn luôn xây dựng tốt khối đoàn kết nội bộ. Trong cuộc sống thường ngày sinh hoạt với địa phương, tôi đã thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, được nhân dân nơi cư trú tin tưởng, tham gia tích cực mọi hoạt động ở nới cư trú.Về thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao:- Bản thân luôn thực hiện đúng qui chế chuyên môn, đảm bảo tính khoa học.- Làm việc có trách nhiệm cao, cố gắng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao- Luôn có tinh thần tìm tòi, học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.- Luôn phối kết hợp tốt với các đồng nghiệp, với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao-Trong công tác xây dựng Đảng, đoàn thể tôi luôn có ý thức tuyên truyền, tham gia xây dựng chi bộ, các đoàn thể trong cơ quan trong sạch, vững mạnh.>>Tham khảo bài viết: Bộ luật Dân sự 2015: Điểm nổi bật và ý nghĩa trong bối cảnh pháp luật hiện đạiVề tổ chức kỷ luật:- Bản thân tôi luôn thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, có ý thức tổ chức kỉ luật cao, chấp hành sự phân công điều động, luân chuyển của tổ chức. Bản thân luôn vận động gia đình chấp hành nghiêm túc chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các luật và nghị định của Nhà nước về phòng chống ma tuý, chống tiêu cực ......- Tham gia đầy đủ các buổi hội họp, học nghị quyết do chi bộ và Đảng bộ tổ chức; đóng Đảng phí đầy đủ, kịp thời.- Thực hiện tốt quy chế, nội quy của tổ chức Đảng cũng như của cơ quan đơn vị, có tinh thần gương mẫu chấp hành và lãnh đạo thực hiện tốt quy chế, quy định, nội quy của cơ quan, đơn vị và nơi cư trú; ý thức lắng nghe, tiếp thu và tự sửa chữa khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình, thực hiện tốt chế độ sinh hoạt Đảng.- Luôn có thái độ cầu thị trong việc nhận và sửa chữa khắc phục khuyết điểm.- Thường xuyên giữ mối liên hệ với chi uỷ, Đảng uỷ cơ sở; có tinh thần tham gia xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền.- Luôn có trách nhiệm cao với công việc được giao; thái độ phục vụ nhân dân tốt; có ý thức đấu tranh với những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, hách dịch, gây phiền hà nhân dân.Khuyết điểm, hạn chế và nguyên nhân- Chỉ đạo hoạt động chuyên môn của nhà trường và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn giảng dạy kết quả chưa cao. - Chưa dành thời gian thích hợp để nghiên cứu, tìm hiểu sâu về Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết, quy định của Đảng; pháp luật, chính sách của Nhà nước.- Trách nhiệm cá nhân trong việc phối kết hợp với các đoàn thể khác trong trường có lúc chưa đạt hiệu quả cao nhất.- Đôi lúc chưa chủ động trong tổ chức thực hiện một số hoạt động. Trong công việc đôi lúc còn chưa mạnh dạn, thẳng thắn góp ý cho đồng nghiệp- Chưa cương quyết trong xử lí vi phạm, làm việc còn nể nang tình cảm trong công tác phê bình và tự phê bình.III. Phương hướng và biện pháp khắc phục, sửa chữa yếu kém- Tuyệt đối chấp hành các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.- Thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ trong Đảng và cơ quan.- Không ngừng tu dưỡng đạo đức, tự học tập để nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ- Mạnh dạn hơn nữa trong việc tham mưu đề xuất các giải pháp nhằm làm tốt hơn công tác quản lý, nhiệm vụ chính trị được giao.- Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống- Luôn có ý thức tự phê bình và phê bình, nâng cao vai trò tiên phong của người đảng viên.Biện pháp khắc phục:- Trong thời gian tới sẽ phát huy những ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm trên để bản thân được hoàn thiện hơn.- Tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng những hành động và việc làm cụ thể trong thực hiện công việc và nhiệm vụ được giao. Tự nhận mức xếp loại chất lượng Đảng viên, cán bộ, công chức:Mức 2: Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.     NGƯỜI TỰ KIỂM ĐIỂM(Ký, ghi họ tên) ĐÁNH GIÁ PHÂN LOẠI CHẤT LƯỢNG ĐẢNG VIÊNNhận xét, đánh giá của chi ủy:........... ............ ............. ................ .............. .................. ................ ...............Chi bộ phân loại chất lượng:........... ............ ............. ................ .............. .................. ................ ..........................., ngày...tháng...năm....T.M CHI ỦYBí thưĐảng ủy (chi ủy cơ sở) phân loại chất lượng:........... ............ ............. ................ .............. .................. ................ ................................., ngày...tháng...năm...     T.M ĐẢNG ỦYTrên đây là một số thông tin về mẫu bản tự nhận xét ưu khuyết điểm cá nhân bạn đọc tham khảo. Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và hỗ trợ. Hoặc bạn có thể tra cứu các thủ tục qua trang Thủ tục pháp luật của chúng tôi. 
Bài viết
[MỚI]Địa điểm kinh doanh phải bao gồm tên doanh nghiệpTừ 2021, tên địa điểm kinh doanh phải bao gồm cả tên doanh nghiệp. Đây là nội dung mới được Quốc hội đề cập đến tại Luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH14. Quy định mới về tên địa điểm kinh doanhCụ thể, Điều 40 Luật Doanh nghiệp 2020 nêu rõ:Tên chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh phải bao gồm tên doanh nghiệp kèm theo cụm từ “Chi nhánh” đối với chi nhánh, cụm từ “Văn phòng đại diện” đối với văn phòng đại diện, cụm từ “Địa điểm kinh doanh” đối với địa điểm kinh doanh.Hiện nay, Luật Doanh nghiệp năm 2014 không yêu cầu với địa điểm kinh doanh mà chỉ quy định tên chi nhánh, văn phòng đại diện phải mang tên doanh nghiệp kèm cụm từ “chi nhánh” với chi nhánh, cụm từ “văn phòng đại diện” với văn phòng đại diện.  Quy định mới về tên địa điểm kinh doanhNgoài ra, Điều 41 Luật 2020 cũng có quy định cụ thể với tên chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh gồm:– Phải được viết bằng các chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt, các chữ cái F, J, Z, W, chữ số và các ký hiệu;– Phải được viết hoặc gắn tại trụ sở chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh. Trong đó, tên chi nhánh, văn phòng đại diện được in hoặc viết với khổ chữ nhỏ hơn tên tiếng Việt của doanh nghiệp trên các giấy tờ giao dịch, hồ sơ tài liệu… do chi nhánh, văn phòng đại diện phát hành.Hồ sơ thành lập địa điểm kinh doanh* Thành phần hồ sơTheo Quyết định 1523/QĐ-BKHĐT, hồ sơ thành lập địa điểm kinh doanh bao gồm:– Thông báo lập địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp theo mẫu tại Phụ lục II-11 Nghị định 122/2020/NĐ-CP.– Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động theo Giấy phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư hoặc các giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương chưa thực hiện bổ sung, cập nhật thông tin đăng ký doanh nghiệp để được cấp đăng ký doanh nghiệp thay thế nội dung đăng ký kinh doanh trong Giấp phép đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương thì ngoài các giấy tờ nêu trên, doanh nghiệp phải nộp kèm theo:+ Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đầu tư;+ Bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận đăng ký thuế;+ Giấy đề nghị bổ sung, cập nhật thông tin đăng ký hoạt động đối với địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động theo giấy chứng nhận đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.Lưu ý: Trường hợp không phải Chủ sở hữu hoặc Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trực tiếp đến nộp hồ sơ: người được ủy quyền phải nộp văn bản uỷ quyền kèm bản sao hợp lệ một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân:– Đối với công dân Việt Nam: Thẻ căn cước công dân hoặc Chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu Việt Nam còn hiệu lực.– Đối với người nước ngoài: Hộ chiếu nước ngoài hoặc giấy tờ có giá trị thay thế còn hiệu lực.* Số lượng hồ sơ: 01 bộTrình tự thủ tục lập địa điểm kinh doanhBước 1: Nộp hồ sơCó 02 cách thức để nộp hồ sơ, cụ thể:Cách 1: Nộp hồ sơ trực tiếp tại bộ phận một cửa Phòng Đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đặt địa điểm kinh doanh hoặc chi nhánh.Cách 2: Đăng ký qua mạng tại Cổng thông tin Quốc gia về đăng ký doanh nghiệp bằng chữ ký số công cộng hoặc sử dụng tài khoản đăng ký kinh doanh . Đối với Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh phải đăng ký qua mạng.Bước 2: Tiếp nhận và giải quyết hồ sơBước 3: Nhận kết quả* Thời hạn giải quyết: 03 ngày làm việc* Lệ phí giải quyết:– 50.000 đồng/lần đối với hồ sơ nộp trực tiếp tại bộ phận một cửa Phòng Đăng ký kinh doanh.– Miễn lệ phí đối với hồ sơ đăng ký qua mạng điện tử.Trên đây là bài viết tham khảo về một số quy định mới về hộ kinh doanh từ năm 2021. Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và hỗ trợ.
Bài viết
Trong bối cảnh tài chính cá nhân ngày càng phổ biến, các tổ chức tín dụng chơi một vai trò quan trọng trong việc cung cấp tiền mặt và dịch vụ tài chính cho người dân. Trong số những tổ chức này, FE Credit là một cái tên được nhiều người biết đến, đặc biệt trong lĩnh vực đòi nợ. Họ thực hiện một loạt biện pháp để đảm bảo khách hàng tuân thủ thỏa thuận và trả nợ đúng hạn. Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu cách FE Credit thực hiện quy trình đòi nợ và những điều quy định liên quan.1. Fe credit được hiểu là gì?Fe Credit bắt đầu hoạt động vào năm 2015 sau khi trước đó là một phần của VPBank, một trong những Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng. Tuy nhiên, từ năm 2015 trở đi, FE Credit đã hoạt động độc lập dưới tư cách là Công ty TNHH Tài chính FE Credit.Kể từ đó, FE Credit đã phục vụ hơn 10 triệu người dân thông qua mạng lưới gồm hơn 13,000 điểm bán hàng và hơn 17,500 nhân viên, cùng với hơn 9,000 đối tác. Chủ yếu, FE Credit chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính tiêu dùng như vay tiền mặt, thẻ tín dụng, vay mua xe máy và vay mua điện thoại di động.Chúng ta đã quen thuộc với FE Credit qua các chương trình mua sắm trả góp 0% tại các đại lý bán hàng điện máy và xe hơi trên toàn quốc. Đây là một phương thức nhanh chóng và tiện lợi để đáp ứng nhu cầu vay tiền của những người cần tài chính gấp.2. Fe credit đòi nợ hiện nay như thế nào?Để thu hồi khoản nợ từ những người vay tiền không tuân thủ hoặc cố ý không trả nợ, nhân viên đội ngũ đòi nợ của FE Credit thực hiện các phương thức sau:Nhắn tin đòi nợ: Đây là một trong những phương thức phổ biến để đòi nợ. Ban đầu, tin nhắn từ nhân viên đòi nợ sẽ mang tính nhẹ nhàng và lịch sự, nhưng nếu không nhận được phản hồi hoặc thanh toán, tin nhắn sẽ trở nên cứng rắn. Ban đầu, sẽ có nhắn tin qua điện thoại.Liên hệ qua mạng xã hội: Trong trường hợp người vay không phản hồi tin nhắn hoặc cuộc gọi, bộ phận đòi nợ có thể thực hiện liên hệ thông qua mạng xã hội.Cuộc gọi điện thoại đòi nợ: FE Credit sử dụng nhiều số điện thoại khác nhau, do đó, khó nhận biết cuộc gọi từ họ. Một số người có thể cố gắng chặn cuộc gọi từ FE, nhưng không thể chặn được tất cả.Tăng cường áp lực: Nếu người vay tiếp tục không trả tiền, nhân viên đòi nợ sẽ tăng cường áp lực theo từng cấp độ. FE Credit có thể thậm chí đưa vụ việc ra tòa án nếu người vay không hợp tác.Liên quan đến người thân: Khách hàng sẽ cung cấp danh sách bạn bè và người thân cho FE Credit, bao gồm tên, số điện thoại và tài khoản mạng xã hội, để FE Credit nhắc nhở người vay trả nợ. Đây là một hình thức đòi nợ khiến cho cả người vay và người thân cảm thấy không thoải mái, vì nó tiết lộ thông tin cá nhân về tình trạng nợ của người vay.Vậy nếu bạn không trả hoặc cố ý không trả nợ, FE Credit sẽ thực hiện các biện pháp đòi nợ như nhắn tin, cuộc gọi điện thoại, và thậm chí làm phiền người thân. Mức độ của các biện pháp này sẽ phụ thuộc vào mức độ hợp tác của người vay.3. Quy trình fe credit đòi nợ như thế nào? Quy trình đòi nợ của FE Credit tuân theo một chuỗi bước như sau:Nhắc nhở trước hạn: Trước khi hạn trả nợ hoặc kỳ trả góp đến gần, nhân viên của FE Credit sẽ liên hệ với khách hàng. Họ sẽ thông báo địa điểm và ngày tháng thanh toán nếu khách hàng phản hồi.Liên tục nhắc nhở: Nếu khách hàng không tuân thủ thời hạn trả nợ, nhân viên sẽ tiếp tục gọi điện thoại và nhắn tin nhắc nhở. Nếu khách hàng không phản hồi hoặc ngắt kết nối, FE Credit sẽ tăng cường áp lực thông qua các cuộc gọi từ những người khác với mức độ đòi nợ tăng dần.Đòi nợ qua mạng xã hội: FE Credit sẽ tiếp tục đòi nợ trên các mạng xã hội như Facebook và Zalo nếu cuộc gọi điện thoại không đạt được. Các thông điệp có thể trở nên khó chịu và đe dọa kiện ra tòa.Liên hệ với bạn bè hoặc người thân: Trong một nỗ lực cuối cùng, FE Credit có thể liên hệ với danh sách bạn bè hoặc người thân được cung cấp bởi khách hàng. Tuy nhiên, phương pháp này thường gây xung đột và mất mát mối quan hệ.Gửi giấy báo nợ: Nếu không có sự hợp tác từ khách hàng, FE Credit sẽ gửi giấy báo nợ đến địa chỉ được ghi trong hợp đồng vay.Tố tụng tại tòa: Trong những trường hợp với số nợ lớn, FE Credit có thể đưa vụ việc ra tòa để giải quyết và đòi nợ một cách hợp pháp.Vậy, quy trình đòi nợ sẽ tăng dần theo mức độ trì hoãn trả nợ của người vay, và FE Credit sẽ áp dụng biện pháp đòi nợ tương ứng cho đến khi nợ được thanh toán hoàn toàn.4. Fe Credit đòi nợ làm phiền liên tục cần phải làm gì?Theo quy định tại Khoản 7 Điều 1 Thông tư 18/2019/TT-NHNN, các biện pháp đôn đốc và thu hồi nợ phải tuân theo nguyên tắc phù hợp với đặc thù của khách hàng, các quy định của pháp luật, và chỉ có thể được áp dụng sau khi có yêu cầu từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bảo mật thông tin của khách hàng phải được tuân theo quy định của pháp luật. Do đó, không được áp dụng các biện pháp như sau:Đe dọa khách hàng: Không được sử dụng các biện pháp đe dọa đối với khách hàng, trong đó số lần nhắc nợ tối đa là 05 lần trong một ngày, nhưng phải tuân theo khoảng thời gian từ 7 giờ sáng đến 21 giờ tối.Thu hồi nợ đối với tổ chức, cá nhân không có nghĩa vụ trả nợ: Không được áp dụng các biện pháp đòi nợ, gửi thông tin về việc thu hồi nợ của khách hàng đối với tổ chức hoặc cá nhân không có nghĩa vụ trả nợ.Căn cứ vào quy định tại Điểm g Khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP, việc sử dụng thông tin số để đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, hoặc vu khống uy tín của người khác có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng.Vậy nếu trong trường hợp FE Credit đòi nợ nhiều lần mà không có nghĩa vụ trả nợ từ phía khách hàng hoặc không có quan hệ gì với người vay, người bị làm phiền có thể liên hệ với doanh nghiệp viễn thông mà họ là khách hàng hoặc gửi đơn khiếu nại cho Sở Thông tin và Truyền thông địa phương để yêu cầu giải quyết.Kết luận:FE Credit là một trong những tổ chức tài chính quan trọng tại Việt Nam, và việc họ đòi nợ là một phần quan trọng của hoạt động kinh doanh của họ. Tuy nhiên, quá trình đòi nợ phải tuân theo quy định của pháp luật và phải được thực hiện một cách công bằng và đúng luật. Khách hàng cũng cần hiểu rằng trách nhiệm trong việc trả nợ là rất quan trọng, và việc hợp tác với FE Credit có thể giúp tránh được những tình huống không mong muốn. 
Bài viết
KHỦNG HOẢNG TRUYỀN THÔNG - ẢNH HƯỞNG – BÀI HỌC XỬ LÝ  KHỦNG HOẢNG Khủng hoảng truyền thông có thể xảy ra với các thương hiệu bất kỳ lúc nào nhất là trong thời đại mạng xã hội đang bùng nổ. Việc kiểm soát khủng hoảng cho các thương hiệu cần có những chiến lược xử lý và phương pháp giải quyết nhanh chóng. Đặc biệt để lấy lại niềm tin của khách hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải có động thái rõ ràng và tích cực. Bởi vậy, khủng hoảng truyền thông luôn là “bóng đen” đối với các doanh nghiệp. Vậy khủng khoảng truyền thông là gì? Nó được hình thành như thế nào ? Có ảnh hưởng ra sao ?Bài viết dưới đây là một nghiên cứu bao gồm các ví dụ cụ thể, file dowload tình huống tại cuối bài, phân tích và giải pháp chi tiết về Khủng hoảng truyền thôngKhủng hoảng truyền thông là gì?Khủng hoảng truyền thông là cụm từ tiếng Việt được dịch ra từ chữ crisis. Định nghĩa chung, khủng hoảng truyền thông là những sự kiện xảy ra ngoài tầm kiểm soát của công ty khi có thông tin bất lợi về công ty hay sản phẩm. Sự bất lợi này đe dọa đến việc tiêu thụ sản phẩm hoặc làm giảm uy tín của công ty.Theo định nghĩa giáo khoa, “khủng hoảng truyền thông là bất kỳ một sự kiện ngoài ý muốn nào mang mối đe dọa nghiêm trọng đến uy tín của công ty hoặc niềm tin của các bên liên quan. Sự kiện có thể là một hành động vi phạm lòng tin, một sự thay đổi trong môi trường cạnh tranh, cáo buộc bởi các nhân viên hoặc những người khác, một nghị định đột ngột của chính phủ, lỗ hổng trong sản phẩm, hoặc bất kỳ tác động tiêu cực nào khác” hay nói một cách đơn giản, “khủng hoảng là bất kỳ một sự kiện nào có khả năng ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh của công ty đối với công chúng của nó”.Ba yếu tố chung cho một cuộc khủng hoảng: Mối đe dọa đối với tổ chứcYếu tố bất ngờThời gian quyết định ngắnVenette  lập luận rằng “khủng hoảng là một quá trình biến đổi trong đó hệ thống cũ không còn có thể được duy trì”. Do đó, yếu tố thứ tư của khủng hoảng là sự cần thiết phải thay đổi. Nếu không cần thay đổi, sự kiện có thể được mô tả chính xác hơn là sự cố hoặc sự cố.Các loại khủng hoảng truyền thôngBất kỳ một sự việc nào cũng có mối quan hệ biện chứng giữa “nguyên nhân – kết quả”. Đúng vậy, các cuộc khủng hoảng truyền thông không tự nhiên sinh ra mà nó có thể xuất phát từ các xung đột chính, cơ bản như:Xung đột lợi ích: Một nhóm các cá nhân hoặc nhóm có mâu thuẫn với các tập đoàn về những lợi ích nhất định từ đó dẫn đến các hoạt động chống phá để mang lợi ích về phe mình. Các hoạt động chủ yếu của xung đột này là tẩy chay. Xung đột này, trên thị trường khốc liệt hiện nay thì thường xuyên xảy ra.Cạnh tranh không công bằng: Công ty hoặc tổ chức đối thủ có các động thái vượt ngoài khuôn khổ pháp luật nhằm chống phá, bôi nhọ, hạ nhục danh tiếng của công ty kia. Tuy các hoạt động này đã được giới hạn nhưng vẫn còn đó mà cụ thể là hành động bắt nạt trên mạng.“Một con sâu làm rầu nồi canh”: Một cá nhân đại diện trong công ty, tổ chức có hành vi phạm tội, gây rúng động trong cộng đồng, khiến cộng đồng mất niềm tin và quay lưng với tổ chức. Trường hợp này cũng rất hay xảy ra ví dụ như vụ việc của Agribank.Khủng hoảng liên đới: Đối tác của công ty mình bị vướng vào vòng lao lý, từ đấy có một số tin đồn thất thiệt trên mạng xã hội nhắm vào làm bôi nhọ danh tiếng công ty khi đánh đồng công ty với những việc làm sai trái của đối tác.Khủng hoảng tự sinh: Các hoạt động truyền thông, sản phẩm hay dịch vụ vô tình có những lỗi hoặc phốt dẫn đến sự bất bình và lan truyền rộng rãi. Đây là lý do thường xuyên và phổ biến trong các doanh nghiệp. Ví dụ: vụ chai nước có ruồi của công ty Tân Hiệp Phát.Khủng hoảng chồng khủng hoảng: Là khi công ty, tổ chức xử lý truyền thông không khéo, không có thái độ thành khẩn sửa chữa lỗi lầm dẫn đến sự phẫn nộ sâu sắc hơn từ cộng đồng. Khủng hoảng này thường xảy ra khi công ty không có một chiến lược giải quyết khủng hoảng quy củ, cẩn thận.Và kết quả của những loại xung đột cộng thêm nhiều gia vị của truyền thông đã tạo nên những cuộc khủng hoảng truyền thông. Khủng hoảng truyền thông vừa là cơ hội, cũng vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp. Căn cứ vào mức độ ảnh hưởng, tính chất của cuộc khủng hoảng, có thể chia thành các loại khủng hoảng truyền thông như sau:Khủng hoảng âm ỉLà những khủng hoảng hay vấn đề một nhóm người đã có với công ty, tổ chức nhưng những vấn đề này quá nhỏ hoặc nó chưa đủ sức lan truyền rộng ra cộng đồng. Nhưng càng về lâu về dài, những vấn đề lớn dần và phát sinh khủng hoảng rộng lớn. Khi khủng hoảng phát sinh, doanh nghiệp rất khó giải quyết vì sự chậm trễ trong thay đổi không mang lại giá trị tích cực đến khách hàng. Khi phát sinh các nguy cơ âm ỉ, doanh nghiệp nên có sự đánh giá suy xét từ đó chặn đứng các nguy cơ có thể có.Khủng hoảng bất chợtLà những khủng hoảng bất chợt xuất hiện mà không có cảnh báo hay dự đoán như một chai nước bị kém chất lượng hay nhân viên phạm tội, những khủng hoảng này lỗi không hoàn toàn do công ty và cách giải quyết nên là thành thật xin lỗi, giải quyết hậu quả bằng tất cả khả năng.Khủng hoảng đa kênhKhủng hoảng đa kênh (Omni-channel) chứa nhiều khả năng gây hại nhất vì nó thu hút sự chú ý của nhiều kênh truyền thông. Nếu một thương hiệu đang đối phó với một tình huống cực đoan, chẳng hạn như cáo buộc quấy rối nơi làm việc, thu hồi sản phẩm hoặc các hành vi không phù hợp tại công ty, thì nó có thể phải đón nhận phản hồi tiêu cực trên phương tiện truyền thông xã hội và trên các phương tiện truyền thông truyền thống.Chuẩn bị đối phó bằng cách có một kế hoạch quản lý khủng hoảng mạnh mẽ thường xuyên được áp dụng và cập nhật. Trong những tình huống như thế này, một phản ứng nhanh chóng và xác thực có thể tạo ra sự khác biệt lớn. Đảm bảo rằng tất cả các tin nhắn được đăng không chỉ trên trang web của công ty mà còn trên bất kỳ kênh xã hội nào đang nhận được phản hồi tiêu cực. Và mặc dù tính nhất quán trong thông điệp của công ty là chìa khóa, từ ngữ nên được chau chuốt để thể hiện thái độ chân thành.Với các mức độ, phương thức khủng hoảng khác nhau như vậy, thì liệu khủng hoảng truyền thông  tất cả đều là xấu, hay nó chính là một bàn đạp thể hiện sự đẳng cấp, khốn khéo của con người và là cơ hội cho các doanh nghiệp chuyển mình, vươn lên?Ảnh hưởng của khủng hoảng truyền thôngNền kinh tế phát triển càng năng động, quyền con người được đề cao, sức mạnh truyền thông ngày càng lớn, tất cả đều có 2 mặt: tích cực và tiêu cực.  Khủng hoảng truyền thông là bất kì một chuyện xấu gì xảy đến với doanh nghiệp hoặc tổ chức được lan truyền rộng rãi trên mạng xã hội truyền thông, làm ảnh hưởng đến danh tiếng từ đó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động, kinh doanh của các đối tượng bị khủng hoảng tác động đến.Khủng hoảng truyền thông thường kéo theo các cảm xúc tiêu cực không cần thiết mà hệ quả mang lại rất nặng nề:Làm lu mờ phán đoán chính xác.Tổn hại đến các đối tác của tổ chức bị khủng hoảng.Có tính lan truyền cao.Tính chính trực và danh tiếng của công ty cũng sẽ bị ảnh hưởng rõ nét phụ thuộc vào hành động của họ. Việc giải quyết kịp thời các khủng hoảng truyền thông là một bài toán khó của mọi ban ngành tổ chức. Khi gặp phải khủng hoảng, các cấp lãnh đạo, phòng ban nên có sự đối thoại nhanh chóng, rõ ràng để từ đó có thể giải quyết hiệu quả khủng hoảng, đặc biệt là khủng hoảng truyền thông xã hội. Các ngành nghề dễ bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng có thể kể đến thương mại điện tử, mạng xã hội, ngành thời trang,..Ví dụ, Những năm vừa qua, đã không ít các thương hiệu thiết sót trong việc xử lý khủng hoảng truyền thông. Như sự việc đáng tiếc của hãng Boeing để xảy ra hai vụ tai nạn nghiêm trọng đối với máy bay 737 Max 8 mới của mình, hãng phải chấp nhận mất doanh thu và thu nhập trên mỗi cổ phần đã giảm hơn 40% so với năm 2018. Hay trường hợp của Taco Bell xử trí khi nhân viên làm ảnh hưởng xấu đến thương hiệu trên Facebook…Khủng hoảng truyền thông là điều mà mọi doanh nghiệp đều không muốn xảy ra. Trong việc xử lý khủng hoảng, sẽ không có một quy trình chuẩn nào cả. Vì trong quá trình diễn ra khủng hoảng, sự việc biến đổi không ngừng. Nên cái doanh nghiệp cần chính là sự chuẩn bị. Và áp dụng linh hoạt các nguyên tắc xử lý khủng hoảng truyền thông. Sao cho phù hợp với từng tình huống, diễn biến tình hình bấy giờ.Tuy nhiên, cũng không thể nói hoàn toàn, khủng hoảng truyền thông đều có tác động xấu. Bởi lẽ, khủng hoảng cũng có thể là chất xúc tác có tác dụng kích thích tính năng động sáng tạo, huy động tối đa tiềm lực trí tuệ của con người, cộng đồng và xã hội. Chỉ cần, kịp thời đưa ra nhưng giải pháp, chiến lược phù hợp để xử lý thì tất cả có thể biến thành cơ hội hành động kêu gọi một cách thông minh, thì đương nhiên sẽ biến “nguy thành an” biến “ khó khăn thành cơ hội”. Điển hình như: KFC Xử lý khủng hoảng truyền thông tốt có thể giúp bạn biến bê bối thành một chiến lược độc đáo và thu về những phản hồi tích cực.Như vậy, thực tế đã chứng minh, có nhiều doanh nghiệp đã thật sự thất bại, điêu đứng trên bờ vực phá sản,…vì khủng khoảng truyền thông, nhưng cũng có nhiều doanh nghiệp trở mình trên đường đua một cách ngoại mục.Các giải pháp xử lý khủng hoảng truyền thông THƯỜNG THẤYNhanh chóng đánh giá vấn đề gây khủng hoảngĐiều đầu tiên khi có những dấu hiệu khủng hoảng truyền thông là lập tức chúng ta phải tiếp cận và đánh giá vấn đề trong thời gian ngắn nhất. Trong đó, đặt ra các câu hỏi là một cách hiệu quả để nhìn nhận vấn đề một cách trực quan nhất.Vấn đề này có ảnh hưởng đến uy tín và danh tiếng của tổ chức, doanh nghiệp? Nó có ảnh hưởng đến bộ máy cấp cao hay không? Mức độ nghiêm trọng của vấn đề truyền thông nằm mà doanh nghiệp bạn đang gặp phải nằm ở khoảng nào ?Phản hồi với các đối tác, khách hàngThực tế, tốc độ phản hồi khách thực sự rất quan trọng khi khủng hoảng truyền thông xảy ra. Sự im lặng và thụ động sẽ biến mọi tình huống trở nên tệ hại hơn và nhận được nhiều sự giận dữ hơn.Hãy luôn trong tư thế sẵn sàng nhận các phàn nàn từ phía các đối tác, khách hàng và phản hồi ngay lập tức. Nếu bạn chưa thể có câu trả lời ngay, hãy ước tính một khoảng thời gian về phía khách hàng để họ cảm nhận rằng chúng ta thực sự quan tâm đến vấn đề họ đang mắc phải.Có thái độ tích cực và trung thựcChúng ta không nên che giấu và không rõ ràng với truyền thông, mạng xã hội khi có khủng hoảng truyền thông xảy ra.Lên tiếng trên mạng xã hội, đưa ra thông cáo, lời xin lỗi trình bày rõ ràng vấn đề chúng ta đang mắc phải và đưa ra phương hướng giải quyết chính là phương pháp để trấn an khách hàng, đối tác đồng thời nhận được sự thông cảm của dư luận.Như CMO Will McInnes của Brandwatch từng nói: “Chiến dịch có thể sẽ sai. Các thông điệp được kiểm tra trong nhóm sẽ không hiệu quả.Nhân viên sẽ không hành động đúng. Nhưng người tiêu dùng sẽ chấp nhận lỗi lầm khi nhận được những phản hồi phù hợp.”Xây dựng quy trình bài bản đề phòng khủng hoảng truyền thôngNgười ta vẫn thường nói: “Phòng bệnh hơn chữa bệnh.” Cách tốt nhất để xử lý khủng hoảng truyền thông là tiêu diệt triệt để những lối mòn có thể dẫn đến khủng hoảng truyền thông trước khi nó xảy ra. Có những cách để ngăn chặn khủng hoảng truyền thông như:Xây dựng một đội ngũ thiết kế và quản lý web chuyên nghiệp để đăng tải và cập nhập thông tin kịp thờiKiểm soát chặt chẽ những thông tin phát tán trên mạng xã hội.Cẩn thận kiểm tra tất cả những sản phẩm truyền thông (viral videos, photos…) trước khi tạo chiến dịch truyền thông.Không nên quảng cáo quá xa vời thực tế, lố lăng về chất lượng doanh nghiệp.Có rất nhiều phương pháp xử lý khủng hoảng truyền thông, sự lựa chọn phương pháp giải quyết phù hợp là rất quan trọng nó quyết định đến sự thành bại.VÍ DỤ Khủng hoảng truyền thông của United Airlines: Bài học về quản lý khủng hoảng và giữ uy tín"Mở đầu: Trong lịch sử của ngành hàng không, khủng hoảng truyền thông của United Airlines vào năm 2017 là một ví dụ điển hình về cách một sự cố có thể gây tổn hại lớn đến hình ảnh của một công ty. Bài viết này sẽ phân tích nguyên nhân, quá trình và kết quả của sự cố này, cũng như bài học quan trọng về quản lý khủng hoảng truyền thông.Nguyên nhân: Sự cố bắt đầu khi một video ghi lại cảnh một hành khách bị kéo ra khỏi máy bay của United Airlines trở nên viral trên mạng xã hội. Hành khách này đã mua vé và ngồi xuống ghế của mình, nhưng sau đó đã bị yêu cầu rời khỏi máy bay do quá tải. Khi người đàn ông này từ chối, anh ta đã bị lực lượng an ninh kéo ra khỏi máy bay một cách bạo lực.Quá trình: Sau khi video này trở nên phổ biến trên mạng xã hội, United Airlines đã phải đối mặt với sự chỉ trích gay gắt từ cộng đồng trực tuyến và truyền thông. Ban đầu, CEO của United Airlines đã phát hành một tuyên bố bào chữa cho hành động của nhân viên an ninh và không xin lỗi trực tiếp đến hành khách bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, sau khi gặp phản ứng tiêu cực từ cộng đồng, CEO đã phát hành một tuyên bố xin lỗi và hứa sẽ không bao giờ để sự cố tương tự xảy ra lại.Kết quả: United Airlines đã phải trả giá đắt cho khủng hoảng truyền thông này. Giá cổ phiếu của hãng đã giảm sút, và hãng đã mất đi sự tin tưởng của khách hàng. Tuy nhiên, sau khi xin lỗi và thực hiện các biện pháp cải thiện, hãng đã dần khôi phục lại uy tín của mình.Bài học: Khủng hoảng truyền thông này cho thấy sự quan trọng của việc xử lý tình huống một cách nhân văn và tôn trọng quyền lợi của khách hàng. Ngoài ra, việc phản hồi nhanh chóng và chân thành cũng rất quan trọng trong việc giảm thiểu thiệt hại cho hình ảnh của doanh nghiệp. Cuối cùng, việc xây dựng một kế hoạch truyền thông khẩn cấp và đào tạo nhân viên về cách xử lý khủng hoảng truyền thông cũng rất quan trọng.Kỹ năng quan trọng trong việc xử lý khủng hoảng truyền thông: Bí quyết giữ vững uy tín doanh nghiệp - GIẢI PHÁP TƯ VẤN THỰC TẾ chỉ có tại TTPL.VNKhủng hoảng truyền thông có thể xảy ra bất ngờ và gây ra những thiệt hại lớn đối với hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp. Để đối phó hiệu quả với những tình huống khó khăn này, doanh nghiệp cần có các chiến lược xử lý khủng hoảng truyền thông hiệu quả. Dưới đây là bốn chiến lược quan trọng mà mọi doanh nghiệp nên áp dụng.Xây dựng chiến lược CHI TIẾT xử lý khủng hoảng: Để đối phó với khủng hoảng truyền thông, doanh nghiệp cần có một chiến lược xử lý khủng hoảng rõ ràng. Việc này cần sự giúp sức của nhiều hệ thống, xây dựng chi tiết chiến lược là không thể thiếu.Điều này bao gồm việc xác định trước các bước cần thực hiện, lựa chọn kênh truyền thông và xác định thông điệp cần truyền đạt.Xây dựng kế hoạch seeding mạng xã hội: Seeding là việc sử dụng các tài khoản mạng xã hội để truyền đạt thông điệp của doanh nghiệp đến cộng đồng trực tuyến. Doanh nghiệp cần xây dựng một kế hoạch seeding hiệu quả để đảm bảo thông điệp của mình được truyền đạt đến đối tượng mục tiêu một cách hiệu quả.Xây dựng hệ thống báo chí và trang mạng cùng ngành: Doanh nghiệp cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với báo chí và trang mạng cùng ngành. Điều này giúp doanh nghiệp có thể truyền đạt thông điệp của mình đến cộng đồng một cách nhanh chóng và hiệu quả.Xây dựng một kế hoạch truyền thông khẩn cấp: Một kế hoạch truyền thông khẩn cấp giúp doanh nghiệp xác định trước các bước cần thực hiện khi xảy ra khủng hoảng. Kế hoạch này nên bao gồm việc xác định người phát ngôn, lựa chọn kênh truyền thông, và xác định thông điệp cần truyền đạt. Điều này giúp doanh nghiệp phản hồi nhanh chóng và kiểm soát tình hình.Tạo ra một đội ngũ quản lý khủng hoảng truyền thông: Đội ngũ này nên bao gồm các chuyên gia truyền thông, quan hệ công chúng và quản lý khủng hoảng. Họ sẽ chịu trách nhiệm giám sát tình hình, đưa ra quyết định và thực hiện các chiến lược xử lý khủng hoảng truyền thông.Sử dụng các kênh truyền thông khác nhau để truyền đạt thông điệp của bạn: Trong thời đại số hóa, việc sử dụng đa kênh truyền thông là cần thiết. Doanh nghiệp nên sử dụng cả truyền thông truyền thống và truyền thông số để truyền đạt thông điệp của mình. Điều này giúp doanh nghiệp tiếp cận được nhiều đối tượng khác nhau và truyền đạt thông điệp một cách hiệu quả.Theo dõi và đánh giá hiệu quả của các chiến lược xử lý khủng hoảng truyền thông: Sau khi áp dụng các chiến lược, doanh nghiệp nên theo dõi và đánh giá hiệu quả của chúng. Điều này giúp doanh nghiệp biết được những gì đã làm đúng và những gì cần cải thiện trong tương lai.Kết luận: Khủng hoảng truyền thông là một thách thức lớn đối với mọi doanh nghiệp. Tuy nhiên, với các chiến lược xử lý khủng hoảng truyền thông hiệu quả, doanh nghiệp có thể giữ vững uy tín và tiếp tục phát triển mạnh mẽ.CẦN HƯỚNG DẪN CHI TIẾT XỬ LÝ, HÃY ẤN VÀO BÌNH LUẬN BÀI VIẾT NHÉTài liệu về khủng hoảng truyền thôngDưới đây là một số tài liệu cần biết về khủng hỏang truyền thông của các thương hiệu lớn và phương thức xử lý, bài học rút ra rất hữu ích: Ngày thứ 2 đen tối và cơn ác mộng của người làm truyền thông: Tải về05 ví dụ về khủng hoảng truyền thông và bài học rút ra: Tải về10 bài học điển hình về xử lý khủng hoảng truyền thông: Tải vềCơ chế lan truyền của khủng hoảng truyền thông: Tải vềDomino-s Pizza- Dội nước dập tắt khủng hoảng truyền thông, thay vì im lặng chờ chết: Tải vềKhi nhân viên làm xấu hình ảnh thương hiệu trên facebook đừng xử trí như Taco Bell: Tải vềNestle và Bài học xử lý khủng hoảng trên mạng xã hội: Tải vềSocial Listening- khủng hoảng truyền thông của Agribank ảnh hưởng như thế nào ? Tải vềSocial Listening- Vì đâu BaBy Care gặp phải khủng hoảng truyền thông: Tải về Tổng hợp các cuộc khủng hoảng truyền thông:Trên đây là các thông tin tư vấn của Legalzone về phương án quản lý doanh nghiệp hiệu quả. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được tư vấn và sử dụng dịch vụ.
Bài viết
Bảo hiểm thất nghiệp là một cơ chế quan trọng, giúp hỗ trợ người lao động trong những giai đoạn khó khăn khi họ mất việc làm. Tuy nhiên, để đảm bảo hoạt động hiệu quả và bền vững của quỹ bảo hiểm thất nghiệp, việc xác định mức đóng cũng như hiểu rõ nguồn hình thành của quỹ này là vô cùng quan trọng. Bài viết sau đây sẽ phân tích và giải đáp những thắc mắc liên quan đến mức đóng và nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, giúp người đọc có cái nhìn sâu rộng và đầy đủ hơn về vấn đề này.Bảo hiểm thất nghiệp là gì?Trong bối cảnh kinh tế phức tạp, bảo hiểm thất nghiệp trở thành một giải pháp hỗ trợ quan trọng, giúp giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho người lao động.Bảo hiểm thất nghiệp là một chế độ giúp bù lại một phần thu nhập cho những người mất việc, đồng thời hỗ trợ họ trong việc đào tạo nghề và tìm kiếm cơ hội làm việc mới, dựa trên việc đóng góp vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp (theo khoản 4 Điều 3 Luật Việc làm 2013).Nhờ vào sự hỗ trợ từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp, nhiều người lao động đã tìm ra cách giải quyết vấn đề việc làm, khẳng định vị thế của mình trên thị trường lao động và đóng góp vào sự ổn định và phát triển của xã hội.Mức đóng vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp được xác định như nào?Mức đóng góp và trách nhiệm trong việc đóng góp vào Quỹ Bảo hiểm Thất nghiệp (BHTN) được quy định cụ thể theo Khoản 1 Điều 57 của Luật Việc làm năm 2013. Theo đó:- Mỗi người lao động cần đóng 1% từ tiền lương hàng tháng của mình.- Người sử dụng lao động cũng phải đóng 1% từ quỹ lương hàng tháng dành cho nhân viên đang tham gia BHTN.- Nhà nước cam kết hỗ trợ thêm tối đa 1% từ quỹ lương hàng tháng cho việc đóng góp BHTN, với ngân sách được đảm bảo bởi chính phủ trung ương.Tổng cộng, mức đóng góp vào Quỹ BHTN là 3%, với 1% từ người lao động, 1% từ người sử dụng lao động, và 1% từ sự hỗ trợ của nhà nước.Quỹ BHTN hình thành từ nhiều nguồn khác nhau:- Đóng góp từ người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ từ nhà nước.- Lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư của Quỹ BHTN.- Các nguồn thu khác theo quy định của pháp luật, bao gồm tiền lãi từ việc trễ hạn đóng góp BHTN và các khoản thu hợp pháp khác.Quỹ BHTN được sử dụng cho các mục đích sau:- Thanh toán trợ cấp thất nghiệp.- Hỗ trợ đào tạo, cập nhật kỹ năng nghề nghiệp để giữ việc làm cho người lao động.- Hỗ trợ học nghề.- Hỗ trợ tư vấn và giới thiệu việc làm.- Chi trả bảo hiểm y tế cho người nhận trợ cấp thất nghiệp.- Chi phí quản lý BHTN theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội.- Đầu tư để bảo toàn và phát triển Quỹ.Phương thức đóng tiền vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp?Cách thức đóng góp vào Quỹ Bảo hiểm Thất nghiệp (BHTN) diễn ra hàng tháng theo các quy định sau:- Người sử dụng lao động cần đóng góp vào BHTN theo tỷ lệ quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 57 của Luật Việc làm 2013. Họ cũng cần trích một phần từ lương của nhân viên theo tỷ lệ quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 57 của cùng một luật, để đóng góp vào Quỹ BHTN.- Sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho Quỹ BHTN tuân theo nguyên tắc đảm bảo số dư quỹ hàng năm ít nhất bằng hai lần tổng chi cho các chế độ BHTN và chi phí quản lý của năm trước. Tuy nhiên, mức hỗ trợ không vượt quá 1% quỹ lương hàng tháng dành cho BHTN của những người đang tham gia. Cách thức chuyển kinh phí như sau:Vào quý IV mỗi năm, Bảo hiểm xã hội Việt Nam sẽ dựa trên dự toán thu-chi BHTN được phê duyệt để xác định kinh phí hỗ trợ cho Quỹ BHTN của năm trước, tuân theo quy định tại Khoản 1 của Điều này. Số kinh phí này sẽ được gửi đến Bộ Tài chính để chuyển vào Quỹ BHTN một lần.Trong vòng 10 ngày làm việc kể từ khi nhận báo cáo quyết toán từ Bảo hiểm xã hội Việt Nam, đã được Hội đồng Quản lý Bảo hiểm xã hội Việt Nam chấp thuận, Bộ Tài chính sẽ thẩm định và quyết định kinh phí hỗ trợ cho Quỹ BHTN năm trước. Nếu kinh phí mà Bộ Tài chính đã cấp nhiều hơn số tiền cần hỗ trợ theo quy định tại Khoản 1 của Điều này, Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải trả lại phần chênh lệch cho ngân sách nhà nước. Ngược lại, nếu số tiền cấp ít hơn, Bộ Tài chính sẽ báo cáo cấp có thẩm quyền để phê duyệt kinh phí hỗ trợ bổ sung trong năm tiếp theo.Kinh phí hỗ trợ Quỹ BHTN đều được bảo đảm bởi ngân sách trung ương, từ nguồn chi đảm bảo xã hội đã được Quốc hội quyết định.Kết luận Mức đóng góp phải được xác định một cách hợp lý để đảm bảo quỹ có đủ kinh phí hoạt động và cùng lúc đó, không tạo áp lực tài chính quá lớn lên người lao động và người sử dụng lao động. Ngoài ra, việc hình thành quỹ từ nhiều nguồn khác nhau cần được quản lý chặt chẽ và minh bạch, điều này đòi hỏi sự phối hợp mật thiết giữa các cơ quan quản lý, người sử dụng lao động, và người lao động. Một hiểu biết đầy đủ và chi tiết về các khía cạnh này sẽ giúp người lao động cảm thấy an tâm hơn với quỹ bảo hiểm thất nghiệp, thúc đẩy sự tham gia tích cực và từ đó góp phần nâng cao chất lượng an sinh xã hội. Nếu có thắc mắc khác liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp, bạn có thể truy cập Thủ tục pháp luật để cập nhật thông tin và hướng dẫn chi tiết. 
Bài viết
Thủ tướng Phạm Minh Chính quyết định nới hạn thực hiện Chỉ thị 16Thủ tướng Phạm Minh Chính quyết định nới hạn thực hiện Chỉ thị 16 ở 19 tỉnh thành phía Nam thêm 14 ngày, yêu cầu "ai ở đâu ở đấy", tuyệt đối không để người dân rời khỏi nơi cư trú sau ngày 31/7...Trước tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19, hôm nay, 31/7, Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa có Công điện số 1063 chỉ đạo hoạt động chống dịch.Thủ tướng yêu cầu Chủ tịch UBND tỉnh, thành, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ tập trung chỉ đạo thực hiện mạnh mẽ, quyết liệt, thực chất, hiệu quả các biện pháp cụ thể phòng, chống dịch theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng, Ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 đã ban hành trong thời gian qua.Thủ tướng quán triệt, các địa phương đang thực hiện giãn cách theo Chỉ thị số 16 phải thực hiện nghiêm, nhất quán theo phương châm chỉ có thể thực hiện cao hơn, sớm hơn phù hợp theo tình hình thực tiễn tại địa phương.Người dân không rời nơi cư trú sau ngày 31/7Các cơ quan tổ chức tuyên truyền rộng rãi, kiểm soát nghiêm ngặt và thực hiện ngay các biện pháp hỗ trợ cần thiết về đời sống, y tế để người dân an tâm "ai ở đâu ở đấy"; tuyệt đối không để người dân di chuyển khỏi nơi cư trú từ sau ngày 31/7/2021 tới khi hết giãn cách (trừ những người được chính quyền cho phép).Thủ tướng nêu rõ, lãnh đạo các tỉnh, thành chịu trách nhiệm trước Thủ tướng nếu để người dân tự ý di chuyển ra khỏi địa phương mình. Đối với người dân đã rời khỏi tỉnh xuất phát đến địa bàn tỉnh khác thì các tỉnh liên quan phải tổ chức đón, đưa về địa phương đích đến bảo đảm an toàn.Chính quyền tổ chức xét nghiệm, vận chuyển bằng xe ca (có thể bố trí xe tải chở theo xe gắn máy của người dân nếu người dân di chuyển bằng xe gắn máy), thực hiện bàn giao đầy đủ, tổ chức cách ly, giám sát y tế theo đúng quy định, không để dịch bệnh lây lan.Bộ Công an chỉ đạo Công an tỉnh, thành phố tham mưu cho UBND tỉnh và tổ chức đưa đón người dân.Tổ chức tốt hệ thống, mạng lưới chăm sóc, điều trị người bị nhiễm vi rút SARS-CoV-2 theo các tầng điều trị; tập trung và ưu tiên năng lực, nâng cao chất lượng điều trị, đặc biệt là đối với các bệnh nhân diễn tiến nặng, hạn chế tối đa các trường hợp tử vong.Thủ tướng quyết định tiếp tục áp dụng biện pháp giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 thêm 14 ngày (kể từ ngày kết thúc giãn cách xã hội theo Công văn số 969/TTg-KGVX) đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện giãn cách xã hội theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công văn số 969 ngày 17/7/2021.Những tỉnh sau một thời gian thực hiện giãn cách xã hội, nếu đã kiểm soát được dịch bệnh có thể nới lỏng giãn cách theo từng khu vực trong nội bộ tỉnh. Đối với khu vực liên tỉnh thì phải có thỏa thuận, thống nhất với các tỉnh liên quan và phải báo cáo Tổ công tác đặc biệt của Chính phủ, Trưởng ban chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch Covid-19 trước khi quyết định.
Bài viết
Đăng ký bằng cách đi tới Link TTPL.VNNhấp vào tài khoản chọn đăng kýChọn Doanh nghiệpNếu bạn là Doanh nghiệp thường Hãy chọn Doanh nghiệpNếu bạn là công ty luật hãy chọn Công ty LuậtLưu ý: khi bạn chọn sẽ xuất hiện vành vàng ở loại hình bạn chọn, nếu không chọn sẽ gây lỗiĐiền thông tin theo hướng dẫnLưu ý: Email và số điện thoại phải có thực, tránh trường hợp mất tài khoản sau nàyĐăng nhập bằng tài khoản và mật khẩu đã dùngLưu ý: bạn cũng có thể dùng Số điện thoại và mật khẩu để đăng nhậpĐăng nhập vào sử dụng phần mềm quản lý công việcBạn có thể đăng nhập ngay bằng phần Dashboard tuy nhiên nếu muốn dùng tài khoản Pro (đầy đủ quyền) Hãy sử dụng nút mua ( Miễn phí)Hãy mua gói LGZ DIAMOND - Hiện tại đang miễn phí trọn đờiNhư vậy bạn đã tạo được một công ty hoàn chỉnh cho mình, Hãy thêm nhân viên và tiếp tục hoạt động miễn phí.Hotline:Hướng dẫn kỹ thuật: 0888889225Hướng dẫn chung: 0888889366